Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48. Tình đời

05/04/201113:34(Xem: 7196)
48. Tình đời

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

PHẦN I: Những chuyện đương thời Đức Phật

48. Tình đời

Thành Vương Xá là một khu đất hình lòng chảo nằm trên núi cao, bốn phía có vườn tược bao quanh, cây cối rậm rạp, khí hậu ôn hòa, ấm cúng, quốc thái dân an, phong điều vũ thuận. Vua của vương quốc này là A Xà Thế, vốn tin Phật, thương dân, trị nước đúng cách, rất được lòng người.

Trong vương quốc có nhà một ông đại phú hộ, kho vàng đầy ắp, tiền tài nhiều không ai sánh bằng, nhưng hai vợ chồng cưới nhau đã lâu mà không có được một đứa con nào. Vì thế hai người đi cầu thần linh, xem bói toán khắp nơi, lại siêng làm việc thiện, bố thí để cầu xin một đứa con trai.

Cuối cùng trời không phụ lòng người, tới một năm kia thì hạ sinh một cậu quý tử trắng trẻo bụ bẫm. Đứa bé này sinh ra thật không giống người thường, không biết kiếp trước đã gieo trồng phước đức gì mà các đầu ngón tay của cậu đều phóng ra ánh sáng cát tường, sáng như mặt trời, mặt trăng. Vì đầu ngón tay của cậu phóng ra ánh sáng có thể làm tan biến được bóng tối, nên cậu được đặt tên là Đăng Chỉ (đèn trên ngón tay).

Không những Đăng Chỉ có ngón tay phóng ra ánh sáng mà tướng mạo cũng thanh tú đẹp đẽ, khiến cha mẹ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, mời rất nhiều thầy tướng số đến xem tướng cho con. Trong số các vị này có một người tên là Khổ Tu, nhìn tướng của Đăng Chỉ xong nói với ông phú hộ rằng:

– Tôi thấy tướng đứa bé này lớn lên không giống người thường, tương lai chắc chắn sẽ là thánh nhân.

Ông phú hộ nghe thế mừng rỡ không kể xiết, nên lúc Đăng Chỉ đầy tháng, ông lập đàn bố thí rất lớn trong suốt 7 ngày, hai vợ chồng nguyện hồi hướng công đức bố thí ấy cho tương lai con trai được nhiều sự tốt đẹp hơn nữa.

Tin phú ông lập đàn bố thí chỉ trong vòng một ngày là được loan truyền đi khắp cả nước, ai ai cũng khen ngợi tán thán. Nhà vua nghe được tin này cũng vui mừng khôn cùng, sai sứ thần đến nhà ông phú hộ bảo muốn triệu Đăng Chỉ vào cung cho vua gặp.

Vua đã truyền lệnh, ai dám không tuân, phú ông lập tức mang đứa bé mới đầy tháng đi gặp nhà vua. Đường đi rất xa nên khi phú ông đến hoàng thành thì trời đã tối. Khi ông đến trước cửa hoàng cung, bỗng nghe tiếng chiêng trống rầm trời, thì ra trong cung có một buổi tiệc rượu đang được cử hành. Vì thế phú ông đứng ở ngoài rất lâu mà không ai vào thông báo, chẳng vào trong cung được.

Đang trù trừ do dự, bỗng hài nhi đưa tay lên, từ các đầu ngón tay phát ra ánh sáng chiếu khắp cả cung điện, từ trong ra ngoài chói ngời rạng rỡ. Lúc ấy vua và các đại thần đang ngồi trong bàn rượu, bị luồng ánh sáng chiếu đến chói lòa cả mắt, họ lấy làm kinh dị hỏi người trong cung xem ánh sáng ấy từ đâu chiếu đến?

Các quan gác cổng vội vàng chạy ra xem rồi trở vào tâu tự sự cho vua biết, vua lập tức hạ lệnh cho bồng đứa bé vào. Thế là phú ông và bà nhũ mẫu bồng Đăng Chỉ đến trước mặt vua, ánh sáng từ các đầu ngón tay cậu chiếu rực cả gian phòng, và còn làm cho tất cả mọi người trong phòng cảm thấy ấm áp nữa.

Dáng vẻ thanh tú cuả Đăng Chỉ đã chiếm được cảm tình của vua, vua tự tay bồng lấy đứa bé, nhìn nó không ngừng và nghĩ rằng lời thuyết giảng của đức Phật về nhân quả không bao giờ sai lầm. Nếu như đứa bé này không tạo nhân thiện trong kiếp trước thì đời này làm gì có một dung mạo đẹp đẽ như thế, và đầu ngón tay làm gì có thể phát được ánh sáng? Những điểm đặc biệt của Đăng Chỉ được mọi người tán thán, và vua ban cho phú ông rất nhiều trân bảo trước khi cho phép ông bồng con về nhà.

Ngày tháng qua mau, Đăng Chỉ lớn lên và thành người trong sự yêu thương chiều chuộng của cha mẹ. Năm cậu 20 tuổi, cha mẹ cậu chọn cho cậu một thiên kim tiểu thư môn đăng hộ đối và cử hành hôn lễ. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hạnh phúc.

Họ sống một cuộc sống phú quý vinh hoa với tiền muôn bạc triệu, nô tỳ, tùy tùng, nhà cửa, quần áo, điều chi cũng đầy đủ, cả ngày đắm mình trong hoan lạc nên quên hẳn những sầu lo của kiếp người.

Nhưng thế gian vô thường, biến hóa không ai lường được, có thành thì phải có bại, có niềm vui tụ họp thì cũng có nỗi buồn phân ly, có ngày hôm nay cường thịnh thì cũng có ngày mai suy nhược. Nhưng phần đông con người, lúc sống trong hạnh phúc tuyệt nhiên không hề nghĩ đến chuyện khổ, không, vô thường. Đăng Chỉ cũng vậy, khi cha mẹ còn sống, tiền của đầy kho, vợ chồng đầm ấm, ngũ dục lạc thú tha hồ tận hưởng thì lo làm gì đến tương lai?

Thế rồi không bao lâu sau, cha mẹ cậu là những người thương yêu cậu nhất, cùng theo nhau mà nhuốm bệnh và qua đời.

Từ trước tới nay Đăng Chỉ chẳng bao giờ biết lo việc nhà, lúc ấy hoàn toàn bó tay, không biết cách nào mà cai quản gia nghiệp. Lại còn quen thói coi tiền như cỏ rác, rượu chè phóng đãng, cho nên tài sản trong nhà nhanh chóng sa sút. Tuy hoàn cảnh ngày càng khó khăn nhưng Đăng Chỉ không hề lo lắng chút nào.

Một hôm, trong một buổi lễ lớn cử hành hằng năm, có rất nhiều thanh thiếu niên công tử tham gia, thôi thì quần là áo lượt, rượu thịt ê hề, vui đùa thỏa thích. Lần ấy dĩ nhiên Đăng Chỉ không ra ngoài lệ, cậu cũng gia nhập vào đoàn người náo nhiệt và cũng quay cuồng múa hát ăn chơi không hề kiềm chế.

Trong lúc Đăng Chỉ dự tiệc vui tìm lạc thú, thì ở nhà, vợ cậu bỏ về nhà bố mẹ. Căn nhà thênh thang không ai trông coi, bọn nô tỳ và người làm thấy tài sản thì động lòng tham, mở cửa kho, còn lại bao nhiêu tiền tài bảo vật lấy hết sạch, ngay cả dụng cụ, quần áo trong nhà cũng đem đi luôn, không chừa lại thứ gì.

Đến gần tối Đăng Chỉ trở về nhà thì thấy căn nhà đã trống rỗng, người và vật không còn lại gì cả. Tuy cậu biết chính là bọn nô tài đã cướp đi, nhưng không có cách nào rượt bắt họ lại được, vì trong hoàn cảnh hiện tại của cậu, trong tay không một đồng xu cắc bạc, ai là người chịu giúp đỡ cậu đây?

Cậu buồn bã thở than mà cũng không ai ngó ngàng tới cậu, chính người vợ mà cậu yêu thương nhất cũng chán ghét cậu mà bỏ đi rồi. Đến lúc ấy cậu mới tiếc là tại sao lúc trước mình không làm người tốt, không lo cầu học, bây giờ không có một năng khiếu nào hết, mà gia tài cha mẹ đã khổ công tạo lập nay cũng không giữ được. Kho vựa sạch trơn, chỉ còn có bốn vách nhà trơ trọi, cậu một mình một thân không có cơm ăn áo mặc, đói lạnh giày vò.

Mới ngày nào còn là một cậu công tử con nhà phú hộ mà trong nháy mắt đã thành một kẻ ăn mày khốn khổ, Đăng Chỉ xưa kia vốn tuấn tú bảnh bao, mà khi gặp cảnh nguy nàn rồi thì thân hình cũng biến đổi, ngón tay không còn phát ra ánh sáng nữa.

Đăng Chỉ luân lạc thành kẻ ăn xin, bạn bè thân hữu không còn ai lai vãng, họ hàng bà con cũng cắt đứt mọi liên hệ với cậu. Gặp cậu, không còn ai tươi cười chào hỏi, ai cũng quay đi hay lánh xa, hoặc xua hoặc đuổi. Hoàn cảnh bi thảm ấy khiến cho Đăng Chỉ cảm thấy được sự nhạt nhẽo của cuộc sống, nhưng cậu cũng không thể không miễn cưỡng tiếp tục cuộc sống ấy.

Cuối cùng, để kiếm ăn, cậu tìm được một việc làm, đó là đi vác tử thi mướn. Khi con người đến chỗ tuyệt vọng thì đứng trước một việc gì cũng không thiết suy nghĩ xa xôi, Đăng Chỉ vác tử thi cho người khác vì đó là một công việc chẳng ai muốn làm, và cậu làm việc ấy chẳng qua cũng chỉ vì miếng cơm manh áo mà thôi.

Có một lần, Đăng Chỉ vác một tử thi đến một ngôi mộ hoang, tính bỏ tử thi xuống thì lạ thay, tử thi ấy bỗng nhiên ôm cứng lấy cậu. Cậu hết sức bình sinh hất tử thi ra, nhưng tử thi lại càng ôm chặt hơn nữa, không chịu lơi tay như thể đã bị đóng đinh vào lưng của cậu vậy.

Đăng Chỉ sợ cuống cả người, tự mình không thoát ra được nên chỉ biết chạy đi kiếm người giúp đỡ. Đến thôn Chiên Đà La, cậu la lên cầu cứu, có một vài thanh niên lực lưỡng đến giúp cậu, nhưng làm gì thì làm cũng không gỡ tử thi ra được.

Lúc ấy có một vài người nhát gan thấy thế chạy ra mắng rủa Đăng Chỉ tại sao lại đem tử thi vào thôn, và rất nhiều người nhặt đá ném cậu. Cậu vừa đau vừa sợ, không biết phải làm cách nào. Bị đuổi ra khỏi thôn rồi, cậu chỉ còn biết chạy càn loạn xạ, cuối cùng chạy đến cổng thành, muốn vào thành nhưng người giữ thành vung gậy lên chặn đường, lớn tiếng xua đuổi:

– Tại sao ngươi ngu si quá vậy, cõng tử thi vào thành để làm gì, bộ ngươi không biết phương hướng hả?

Đăng Chỉ chưa kịp đáp đã bị đánh một hèo vào chân. Nghĩ tới số phận đau khổ hiện tại của mình, Đăng Chỉ ngửa mặt lên trời khóc rằng:

– Tôi xưa kia vốn con nhà hào phú, nhà bị cướp lấy hết, đến nỗi tuyệt vọng mà lâm vào hoàn cảnh phải vác tử thi cho người kiếm sống, nào ngờ oan nghiệp theo đuổi, bị tử thi bám chặt như bị đóng đinh vào lưng không chịu buông ra, tôi phải làm sao đây?

Người giữ thành nghe những lời thống thiết của Đăng Chỉ cũng cảm thấy tội nghiệp, nên để cho cậu đi qua, nhưng có ai muốn thân cận với một người cõng tử thi kè kè trên lưng xui xẻo như thế? Không còn cách nào nữa, Đăng Chỉ chỉ còn biết cõng tử thi về lại nhà cũ của mình. Lạ thay, vừa mới bước vào cổng nhà thì tử thi cũng tự động rơi xuống đất.

Đăng Chỉ chú ý nhìn kỹ tử thi, thì quái lạ, trong bàn tay nắm lại của cái thây cứng đờ kia có một thứ ánh sáng kim hoàng sáng chói phát ra. Đăng Chỉ vui mừng nhấc bàn tay ấy lên xem, lúc đó cậu không còn sợ hãi nữa, thì ra bàn tay ấy nắm một khối vàng không biết từ bao giờ.

Đăng Chỉ không còn để ý đấy là một tử thi hay là một cái gì đáng sợ, bèn lấy một con dao nhỏ gỡ vàng ra, nhưng vừa mới gỡ khối vàng này xuống thì có một khối vàng khác xuất hiện trở lại trong tay tử thi. Cứ thế cậu gỡ thì vàng hiện, hiện rồi lại gỡ, chẳng bao lâu đã có một đống vàng lớn trước mặt.

Đăng Chỉ quá đỗi vui mừng, bèn tu sửa lại nhà cửa vườn tược vốn đã bị bỏ hoang từ lâu, nay trở thành huy hoàng tráng lệ, trong kho tiền bạc cũng chất đầy trở lại như núi.

Có tiền rồi thì bạn bè họ hàng cũng từ xa chạy đến thăm viếng, cả người vợ bạc tình xưa cũng xin trở về, thật đúng như người xưa dạy: “Nhà giàu ở trong núi cũng có khách xa đến, nhà nghèo ngay phố chợ cũng không có người thân ở gần.”

Đăng Chỉ rất buồn chuyện đời, những đau khổ vừa qua đã làm cho cậu tỉnh ngộ phần nào rằng thế gian là vô thường, tiền tài không thật có, nên cậu cũng không còn tham luyến nữa, đem số tiền ấy đi làm việc thiện, cứu giúp người nghèo. Cậu cũng nhìn thấu rõ bản chất của ngũ dục nên xả bỏ tất cả, xuất gia đi theo đức Phật, tinh tiến tu tập, chứng đắc được quả A-la-hán rất mau lẹ.

Lúc ấy đầu ngón tay của cậu phát ra ánh sáng trở lại, chỉ có cái tử thi tay có nắm vàng ấy là vẫn đi theo cậu, cậu đi đâu tử thi bám theo đó, chỉ khi nào vào nhà mới tự động buông ra.

Mọi người thấy cuộc đời Đăng Chỉ lạ lùng như thế nên mới tìm đến đức Phật xin thỉnh giáo. Đức Thế Tôn từ bi liền kể lại nhân duyên đời trước cho mọi người được rõ.

Nguyên do là ngày xưa, Đăng Chỉ sinh ở nước Ba La Nại, giàu sang phú quý, nhà lại ở ngay sát một ngôi chùa. Mỗi sáng sớm cậu đều vào điện thờ Tam Bảo mà cung kính lễ bái thánh tượng của Như Lai. Có một hôm, cậu thấy một ngón tay của bức tượng bị gãy, bèn phát tâm gắn lại một ngón tay mới có sắc vàng, nhờ công đức ấy nên đời đời sinh ra trong nhà giàu sang và ngón tay phát ra ánh sáng.

Nhưng tại sao có một lúc trong đời lại nghèo khổ như thế? Đó là vì lúc trẻ, được cha mẹ hết mực cưng chìu, ai cũng phải nghe lời cậu nên cậu trở nên kiêu căng. Có một lần đi chơi về khuya, cửa nhà đã đóng, cậu kêu cửa thật lâu mẹ cậu mới ra mở cửa. Cậu bèn giận dữ mắng mẹ rằng: “Bộ người trong nhà chết hết rồi sao mà gọi cửa cả đêm không ai biết?” Ác duyên ấy đã làm cho đời nay Đăng Chỉ mất cha mẹ rồi thì lưu lạc thành kẻ ăn xin, và phải vác tử thi mướn.

Lại một đời nọ, Đăng Chỉ sinh ra trong nhà giàu sang, kính tín Tam Bảo. Có một lần, sau khi nghe thuyết giảng giáo pháp nên hiểu được sự vô thường và đau khổ của kiếp người, liền cảm thán nói rằng: “Sự

Đức Phật kể nhân duyên này xong, còn nói với đại chúng rằng:

– Thế gian khổ, không, vô thường, không có gì là không hoại diệt. Ta mong mọi người hiểu rõ điều ấy, đừng chỉ sợ khổ báo mà không sợ tạo nhân ác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2017(Xem: 3904)
Có một vị quan khách vào một tiệm may, đặt may một chiếc áo dài. Ông chủ tiệm may bước ra từ tốn chào khách. Trong lúc chào khách, ông ta ngầm ngắm khách từ trên xuống dưới một lượt rồi mới lễ phép thưa : - Thưa Ngài, Ngài muốn chọn loại vải nào ạ ?
24/01/2017(Xem: 3882)
Người đàn bà đang ngồi trước tôi bây giờ là Dung. Ánh sáng từ một khung cửa sổ phả nhẹ lên mái tóc, một bên bờ vai của Dung, nổi bật hẳn lên cái nền nhờ nhờ tối của một góc barrack, cho tôi một chân dung thật đằm thắm, thật thiết tha, nhất là lúc này Dung đang ngồi cặm cụi may vá áo quần cho con cái. Cạnh đấy trên một chiếc bàn nhỏ, hai đứa con của Dung đang ngồi bệt trên sàn gỗ chăm chỉ chép bài, hai mái đầu non dại cận kề nhau, thân mật quá ! Trên tay tôi điếu thuốc vẫn dìu dặt tỏa khói, làn khói thuốc chầm chậm đùn lên cao, tản mát vào cái không khí dịu lành của một chiều hải đảo đang ngã dần vào đêm. Giữa tôi và Dung bao giờ cũng vậy, làn khói thuốc vẫn là luôn luôn ngăn cách, lúc thì rõ rệt vô cùng sắc nét, lại có khi mờ loãng vô cùng, mơ hồ khó mà diễn tả được nên lời. Do đó được những dịp gần gũi như hôm nay, chúng tôi chỉ biết thầm lặng bên nhau, lâu dần đã trở thành quen thuộc, rất ý nhị, rất êm đềm.
23/01/2017(Xem: 3420)
Cụ Tú Ngọc là người ai ai cũng kính trọng và nể vì. Cụ luôn luôn khiêm tốn và hòa nhã với mọi người. Tánh tình cụ lại cẩn thận và chu đáo, nhất là các công tác từ thiện trong Cộng Đồng, lúc nào cụ cũng hết lòng, hết sức lo toan chu đáo. Một hôm, cùng một lúc, cụ nhận được hai tin báo : * Tin thứ nhất : Mẹ một người bạn thân mất, thọ 75 tuổi. * Tin thứ hai : Đám cưới một đứa cháu trai bà con gần. Cả hai tin cử hành cùng một ngày.
23/01/2017(Xem: 3505)
Vị phú hộ nhà giàu kia, mướn một ông thầy đồ già có tiếng là cao thâm và uyên bác, dạy học cho đứa con trai 12 tuổi. Thầy thì tận tụy dạy bảo, trò thì châm chỉ, siêng năng học hành. Hai thầy trò rất tâm đắc. Chẳng bao lâu, đứa bé học rộng, thông minh, biết nhiều, hiểu nhiều. Vị phú hộ quý thầy, lại vô cùng thương yêu con cái. Một hôm, hai thầy trò dắt nhau dạo phố. Phố phường bao giờ cũng đông đúc, đầy đủ mọi hạng người chen chúc lẫn lộn vào nhau, náo nhiệt. Bỗng một đứa bé ăn xin từ đâu đi lại ngược chiều, gặp thầy, nó vội vàng chắp hai tay lại, kính cẩn cúi đầu chào : - Kính lạy Thầy ạ ! Thầy đồ cũng vội vã chắp hai tay, cúi đầu chào lại đứa bé, cung kính cũng như nó đã cung kính với thầy : - Thầy cám ơn con ! Thằng học trò thấy thế, không hài lòng lắm, mới mở miệng hỏi thầy : -Thưa Thầy, đứa bé bần cùng khốn khó kia, có đáng gì đâu, mà Thầy phải kính cẩn chào hỏi lại nó như thế, hở Thầy ? Thầy đồ từ tốn
23/01/2017(Xem: 7722)
Dưới một mái nhà, cha mẹ sinh ra ba người con trai, sống với nhau thuận hòa. Lớn lên, ba người anh em trai lần lượt lấy vợ. Cha mẹ già rồi cũng mất đi. Một hôm, ba gia đình họp lại, bàn chuyện chia lìa, mỗi gia đình tìm một nơi, sống riêng cho mình. Chắc cũng tại ba cái mụ đàn bà kia, tối ngày lộn xộn nhau hoài, nhức đầu ! Tài sản của cha mẹ để lại chỉ là một mái lá, đơn sơ. Một bàn thờ Tổ Tiên với cặp chân đèn cùng bát nhang, hương khói đạm bạc thường xuyên trong những ngày Giỗ Tết.
01/01/2017(Xem: 2722)
Nhóm bạn rủ nhau đi thăm bệnh môt người bạn, nghe nói chị ấy bị bệnh nặng, đã nằm bệnh viện khá lâu và hiện đang nằm điều trị tại nhà. Gặp người bệnh, tất cả mọi người không khỏi ngỡ ngàng, chị ấy thay đổi nhiều quá, bệnh lâu ngày không khỏi nên trông chi quá mức xanh xao, thân hình gầy đét, tiều tụy, trông vô cùng thảm não. Từng lời hỏi han chia sẻ, nhiều mẫu chuyện vui buồn lần lượt kể nhau nghe để mong người bệnh nguôi ngoai phần nào phiền muộn…
08/11/2016(Xem: 3884)
Thư cho Huyền Trang, một em học sinh Sương Nguyệt Ánh cũ, vừa mới ra đi
31/10/2016(Xem: 5981)
Lúc gần đây báo chí và các đài TV Việt ngữ bán tán xôn xao về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, chắc hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.
11/10/2016(Xem: 3982)
Lần giở sổ tay chợt giật mình nhớ ngày ra đi của cố Hòa Thượng Thích Thông Quả (1939 - 2015), nguyên viện chủ Thiền Viện Phước Hoa, Long Thành, Đồng Nai. Hòa thượng đã xả báo an tường vào trưa ngày 13 tháng chín năm Ất Mùi (2015) nhằm ngày 25/10/ 2015 với 32 hạ lạp chuyên tu trong 76 tuổi đời duyên thế.
12/09/2016(Xem: 10837)
Chùa Pháp Tánh ( nay gọi là Chùa Quang Hiếu) nơi Lục Tổ Xuất Gia tại Quảng Châu, Trung Quốc, chùa nằm trên đường Quang Hiếu là một trong những đền thờ Phật cổ nhất ở thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Đây từng là nơi đặt tư dinh của Vương tử Triệu Kiến Đức thời nhà Triệu nước Nam Việt trong lịch sử Việt Nam. Chùa Quang Hiếu cũng là nơi xuất gia của Lục Tổ Huệ Năng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]