Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

38. Ông Cấp Cô Độc và tinh xá Kỳ Viên

21/03/201103:50(Xem: 5782)
38. Ông Cấp Cô Độc và tinh xá Kỳ Viên

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

38. ÔNG CẤP CÔ ĐỘC VÀ TINH XÁ KỲ VIÊN

Khi đức Phật đang ở thành Vương-xá, có người thương gia rất giàu ở thành Xá-vệ vừa đến. Người này tên là Tu-đạt, nhưng được mọi người tôn kính gọi là Cấp Cô Độc, bởi ông thường giúp đỡ, cứu tế cho những người nghèo khổ, neo đơn.

Vì công việc buôn bán, ông vẫn thường qua lại thành Vương-xá. Mỗi khi đến đây, ông thường ngụ ở nhà người anh vợ, và bao giờ cũng được tiếp đón rất ân cần, niềm nở.

Lần này, khi Tu-đạt đến thì thấy cả nhà đang bận rộn, lăng xăng. Mọi người chào hỏi ông qua loa rồi ai lo việc nấy, dường như đang chuẩn bị cho một sự kiện nào đó vô cùng quan trọng.

Sau khi tiếp chuyện với người anh vợ, ông mới biết là gia đình đang chuẩn bị để ngày mai thỉnh Phật và chư tăng đến cúng dường.

Do một nhân duyên kỳ lạ từ thuở trước, khi vừa nghe đến tiếng “Phật” là ông Tu-đạt bỗng thấy một sự ngưỡng mộ, kính mến rất kỳ lạ. Ông hỏi chuyện thật nhiều về Phật, về nơi ngài đang cư trú, về những điều ngài giảng dạy, và rồi thấy lòng vô cùng nôn nao muốn gặp Phật.

Mặc dù trưa hôm sau Phật và chư tăng sẽ đến thọ trai ở nhà ông anh vợ, tức là nơi ông Tu-đạt đang cư ngụ, nhưng ông cảm thấy như mình không thể nào chờ đợi, chỉ muốn được gặp Phật ngay.

Đêm hôm đó ông không ngủ, nằm chờ sáng để đi gặp Phật. Ba lần ông thức giấc ra sân, rồi lại trở vào vì trời vẫn còn chưa sáng. Lần thứ tư thì trời vừa tảng sáng, ông liền một mình theo lối đã hỏi trước mà tìm đến tinh xá Trúc Lâm.

Đến nơi vẫn còn rất sớm, nhưng ông may mắn gặp ngay chính đức Phật đang đi thiền hành. Sau khi hỏi biết mình đã gặp Phật, ông vô cùng mừng rỡ, lễ bái cung kính và được Phật mời vào tinh xá.

Sau khi được tiếp chuyện với Phật, ông liền kể lại chuyện đêm qua mình không ngủ và thao thức chờ đi gặp Phật. Đức Phật liền bảo ông rằng:

“Đêm rất dài với kẻ không ngủ, đường rất dài với người bộ hành mệt mỏi, và vòng luân hồi luôn dằng dặc khép kín với kẻ ngu si không học được diệu pháp.”

Vốn là một bậc thiện tri thức, vừa nghe qua câu nói này, ông Tu-đạt đã thoáng thấy được ánh sáng chân lý. Ông hiểu là mình đã tìm gặp được bậc đạo sư với trí tuệ siêu việt hơn hẳn mọi tri thức thông thường của người đời. Ông sụp lạy xin được quy y làm đệ tử Phật.

Sau đó, Tu-đạt từ biệt trở về để giúp người anh vợ chuẩn bị cho buổi lễ cúng dường trưa hôm đó.

Sau lễ cúng dường, Tu-đạt lại được nghe Phật thuyết pháp. Ông thấy tâm trí mình như bừng sáng và có một niềm an lạc, thanh thản khó tả. Ông liền quỳ xuống thỉnh Phật và chư tăng ngày mai đến dự lễ cúng dường do chính ông tổ chức tại nhà người anh vợ này. Phật nhận lời.

Hôm sau, Tu-đạt cúng dường Phật và chư tăng xong, liền quỳ thưa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Kinh đô Xá-vệ là một đô thị lớn. Nhân dân ở đó sẽ vô cùng biết ơn nếu như Phật và chư tăng dời bước đến nơi ấy để thuyết giáo một thời gian.”

Phật nhận lời và hỏi:

“Nơi ấy có chỗ nào thuận tiện cho chư tăng cư trú chăng?”

Ông liền mạnh dạn đáp rằng:

“Hiện nay thì không, nhưng con có thể lo liệu được việc ấy.”

Và ông lập tức sắp xếp quay về để chuẩn bị chỗ cư trú cho Phật và chư tăng khi đến Xá-vệ. Ông cũng thưa với Phật xin được thỉnh đại đức Xá-lỵ-phất cùng đi để hướng dẫn ông trong việc xây dựng tinh xá.

Về đến Xá-vệ, ông Tu-đạt suy nghĩ thấy không có nơi nào thuận tiện cho bằng khu vườn của thái tử Kỳ-đà nằm cạnh kinh đô. Nơi đây rộng rãi, thoáng mát, khung cảnh thiên nhiên vẫn được bảo tồn, mà lại rất gần gũi kinh thành. Thật thuận tiện để làm nơi cho Phật và chư tăng cư ngụ mà giáo hóa nhân dân. Ông liền có ý định mua khu vườn ấy mà làm chỗ xây dựng tinh xá.

Khi ông đến gặp thái tử Kỳ-đà và tỏ ý muốn mua khu vườn ấy, thái tử liền cười mà nói:

“Ta nào có thiếu thốn tiền bạc chi mà đến nỗi phải bán khu vườn ấy? Nhưng nếu ông muốn mua thì hãy mang vàng mà lót kín mặt đất, ta sẽ bán cho.”

Tu-đạt nói ngay:

“Tôi đồng ý. Ngay hôm nay tôi sẽ mang vàng đến.”

Thái tử vừa ngạc nhiên vừa hốt hoảng, vì thật lòng ngài không muốn bán khu vườn ấy, chỉ muốn nói đùa thôi. Vì ngài nghĩ đó là một giá quá cao mà không ai có thể chấp nhận được. Thái tử liền nói:

“Ta chỉ đùa thôi. Sao ta lại đi bán khu vườn ấy?”

Tu-đạt nghiêm nét mặt mà rằng:

“Thưa ngài, ngài là bậc quyền quý, chẳng thể nói chơi. Nay ngài đã ra giá, và tôi chấp nhận mua giá ấy, thì không thể nói là không bán được.”

Khi ấy có một vị đại quan của triều đình đang có mặt ở đó, cũng nói vào:

“Thưa điện hạ, ngài là bậc sẽ đứng đầu thiên hạ, lời nói không thể xem nhẹ.”

Thái tử không biết nói sao, đành thuận bán. Nhưng ngài rất thắc mắc, không hiểu vì sao mà Tu-đạt lại hối hả muốn mua khu vườn của mình với một giá quá cao như thế.

Hôm sau, thái tử thân hành đi xem. Quả thật, Tu-đạt đã cho người dùng xe chuyển vàng đến lót khắp vùng. Thái tử đứng nhìn, suy nghĩ:

“Để ta xem có thật ngươi bỏ ra số vàng lớn như thế mà không hối tiếc chăng?”

Đến chiều thì đâu đó lót xong, nhưng còn một khu đất nhỏ nữa chưa đủ vàng. Tu-đạt đứng yên ra chiều suy nghĩ. Thái tử thấy vậy thì liền bật cười mà nói rằng:

“Ta biết thế nào ngươi cũng hối tiếc mà. Nhưng bây giờ hãy còn chưa muộn, ta cho phép ngươi lấy lại số vàng mà hủy bỏ việc mua bán đó.”

Tu-đạt nói:

“Ngài lầm rồi. Tôi thật không hề hối tiếc. Chỉ đang tính xem phải chở bao nhiêu vàng nữa thì vừa hết chỗ đất trống này đó thôi.”

Bấy giờ, thái tử thật sự ngạc nhiên, liền đến hỏi nguyên do mua đất. Tu-đạt thành thật kể lại việc mình gặp Phật nơi thành Vương-xá, được nghe ngài giảng thuyết đạo lý như thế nào, và việc mình thỉnh Phật đến thành Xá-vệ để thuyết pháp cho bá tánh nơi đây, nên cần chỗ xây cất tinh xá cúng dường Phật.

Thái tử nghe qua liền trầm ngâm suy nghĩ. Ngài nghĩ rằng:

“Người này vốn là một nhà buôn, phải khó nhọc lâu năm mới trở nên giàu có. Nay ông ta không tiếc mà bỏ ra cả một số vàng rất lớn, lại nhiệt tâm trong việc thỉnh Phật như thế, chắc hẳn đức Phật phải là một bậc siêu phàm xuất thế chứ không thể tầm thường. Lẽ nào ta lại không biết góp phần cùng người mà làm cái việc rất nên làm này.”

Nghĩ vậy rồi, thái tử liền nói với Tu-đạt:

“Ngươi không cần phải chở thêm vàng nữa, bấy nhiêu đó là đủ rồi. Phần còn lại xem như ta góp vào mà cúng dường Phật. Hơn nữa, tất cả cây cối trong vườn này, thay vì ta có quyền đốn bỏ đi hoặc bán cho người khác, nay ta xin cúng dường luôn vào việc xây dựng tinh xá, để giữ cho phong cảnh ở đây được tươi đẹp như cũ.”

Tu-đạt nghe vậy rất mừng, liền lo xúc tiến việc xây dựng tinh xá.

Vì có sự kết hợp như trên, nên người ta gọi khu vườn này là “Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên”, nghĩa là vườn của ông Cấp Cô Độc, còn cây của thái tử Kỳ-đà.

Tinh xá được xây dựng xong gọi tên là tinh xá Kỳ Viên, trở thành một trung tâm quan trọng, nơi Phật giảng thuyết nhiều bộ kinh và hóa độ cho rất nhiều người.

Công việc xây dựng tiến hành gấp rút, mỗi ngày có hơn 100 người thợ, kéo dài hơn bốn tháng thì hoàn tất.

Ông Tu-đạt liền cho người sang thành Vương-xá báo tin và đồng thời thỉnh Phật với chư tăng. Phật nhận lời và chừng hai tháng sau thì ngài với mấy trăm vị sa-môn cùng đến tinh xá Kỳ Viên.

Phật thuyết pháp ở tinh xá Kỳ Viên chưa bao lâu thì đã có đến 60 vị trí thức danh tiếng trong thành Xá-vệ xin xuất gia theo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 2994)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20264)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3862)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8387)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7949)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9455)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4728)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2919)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4075)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3734)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]