Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XVII: Trở về Ấn Độ

10/03/201105:29(Xem: 7821)
Chương XVII: Trở về Ấn Độ

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG XVII: TRỞ VỀ ẤN ĐỘ

Năm 1935.

Tôi đã trải qua đúng 15 năm trên đất Mỹ. Công cuộc hoằng pháp đã tiến hành đúng như dự tính, và với những hoạt động không ngừng nghỉ của tôi trong suốt 15 năm đó, những việc cần làm hầu như đều đã được làm xong.

Tôi đã thành lập thêm một đạo viện nữa ở California. Những đạo viện của tôi đều được hợp pháp hóa, được chính thức công nhận như những tổ chức giáo dục phi thương mại và được phép nhận tiền đóng góp của công chúng. Ngoài ra tôi cũng đã hình thành được một mạng lưới phát hành những sách vở, tạp chí do chúng tôi thực hiện, với nguồn lợi tức hàng năm khá lớn được đóng góp vào cho những hoạt động giáo dục của các đạo viện.

Tôi cảm thấy đã đến lúc quay về Ấn Độ.

Khi tôi công bố tin này, hầu hết các đệ tử của tôi đều thấy bất ngờ và không vui. Họ vẫn còn quyến luyến và không nghĩ là có thể tự lực tu tập tốt khi thiếu đi sự hướng dẫn của tôi. Nhưng đối với tôi thì đó lại chính là lý do mà tôi cần phải rời khỏi họ một thời gian. Người đệ tử tu tập không thể dựa mãi vào sự dắt dẫn của thầy mà cần phải biết tự mình vươn tới giải thoát. Vì thế, bất chấp những sự luyến lưu bịn rịn, tôi vẫn giữ nguyên quyết định của mình.

Trước khi lên đường trở về Ấn Độ, tôi nói với các đệ tử của mình:

– Các con hãy yên tâm, thầy sẽ trở lại với các con một ngày gần đây.

Tôi rời New York vào ngày 9 tháng 6 năm 1935, trên chuyến tàu Europa. Cùng đi với tôi trong chuyến hồi hương này còn có hai đệ tử đã lớn tuổi là ông Richard Wright và bà Ettie Bletch.

° ° °

Khi tàu đến Luân Đôn, tôi nhận được lời mời thuyết pháp tại giảng đường Caxton Hall. Một vị nhân sĩ người Anh là ông Francis Younghusband giới thiệu tôi với các thính giả Luân Đôn. Sau buổi thuyết pháp, tôi đi tham quan một số nơi rồi tiếp tục hành trình.

Tôi rời Luân Đôn trên chuyến tàu Rajputana. Tàu về đến cảng Bombay của Ấn Độ vào ngày 22 tháng 8 năm 1935. Sau bao nhiêu năm xa cách, giờ đây tôi cảm thấy thật thoải mái khi có thể ngửa mặt lên trời và hít một hơi dài đầy căng buồng phổi thứ không khí trong lành quen thuộc của quê nhà.

Mặc dù vậy, tôi cũng đã dự đoán trước những ngày tháng bận rộn sẽ bắt đầu ngay từ khi đặt chân lên mảnh đất quê hương mình. Bạn bè và thân quyến chờ đón tôi ngay trên bến cảng với những tràng hoa tươi và những cái ôm choàng siết chặt đầy tình thân ái. Chúng tôi đến khách sạn Taj Mahal để đăng ký phòng. Ngay lập tức, chúng tôi bị vây quanh tại đó bởi các phóng viên báo chí và các nhiếp ảnh viên. Phải vất vả lắm chúng tôi mới có thể thỏa mãn được một phần những yêu cầu của họ.

Chúng tôi ký gửi chiếc xe Ford mang theo từ Hoa Kỳ cho Sở hỏa xa, rồi lên tàu đi Calcutta.

Đến ga Howrah, chúng tôi được tiếp đón bởi một số người đông đảo ngoài sức tưởng tượng của tôi. Việc tiếp đón không chỉ là đông đảo mà còn có tổ chức hẳn hoi. Vị Tiểu vương Kasimbazar và em trai tôi là Bishnu cùng phụ trách Ủy ban tổ chức. Tôi không thể nào ngờ được rằng việc tiếp đón chúng tôi lại long trọng và nồng nhiệt đến thế.

Cha tôi đã ôm chặt lấy tôi như thể ông sẽ không bao giờ buông tôi ra nữa. Những năm xa cách đã làm cho tình cảm của ông không thể kiềm chế trong lòng như xưa. Rồi ông khóc nức nở như trẻ con vì vui sướng. Tất cả những người thân, bạn bè, ai ai cũng đều rưng rưng những giọt lệ vui mừng.

° ° °

Hôm sau, tôi đi Serampore để viếng thăm sư phụ Śrỵ Yukteswar. Chúng tôi đi bằng xe hơi, do ông Wright lái. Xe chạy ngang qua những hàng quán đơn sơ cất dọc hai bên đường mà đã lâu tôi không nhìn thấy. Một trong những quán cơm bên đường này là nơi tôi đã từng dùng bữa trưa trong suốt những năm học đại học. Khi gần đến nơi, xe rẽ vào một con đường hẹp chạy giữa hai bên là những bức tường. Đi hết đoạn đường này, rẽ trái là chúng tôi sẽ trông thấy được đạo viện.

Sau nhiều năm sống trên đất Mỹ, hôm nay được nhìn thấy lại khung cảnh thân thương này, lòng tôi bồi hồi xúc động. Chỉ có điều, ngôi nhà hai tầng này ngày xưa đối với tôi là to lớn, đồ sộ biết bao, thì giờ đây tôi có cảm giác như nó thật nhỏ nhoi và đơn sơ quá. So với những cơ sở mà tôi đã xây dựng trên đất Mỹ thì ngôi đạo viện này quả thật chẳng thấm vào đâu. Tuy vậy, tôi cảm thấy một bầu không khí ấm áp và yên tĩnh vô cùng quen thuộc mà đã quá lâu tôi phải xa rời.

Chúng tôi đậu xe bên ngoài và đi bộ vào, băng qua khoảng sân nhỏ của đạo viện. Càng lúc, tâm trạng của tôi càng thêm hồi hộp. Khi đếm bước trên những bậc thềm bằng đá, tôi cảm thấy quả tim nhỏ bé của tôi rộn lên như muốn nhảy vọt ra bên ngoài. Và kìa, sư phụ Śrỵ Yukteswar đã bất ngờ xuất hiện ngay bên trên cầu thang, trong dáng điệu cao quý của một nhà hiền triết.

Tôi bước đến quỳ mọp dưới chân sư phụ với tất cả sự thành kính. Khi tôi đứng dậy, sư phụ ôm chầm lấy tôi trong một cử chỉ vô cùng thân thiết.

Tất cả chúng tôi đều im lặng, không ai nói ra lời nào. Nhưng trong im lặng, chúng tôi hoàn toàn hiểu thấu được lòng nhau, hiểu thấu được những tình cảm sâu xa mà trong thời gian xa cách chúng tôi đều đã phải giấu kín tận đáy lòng. Đôi mắt sáng long lanh của sư phụ Śrỵ Yukteswar biểu lộ một niềm hạnh phúc vô biên khi gặp lại được người học trò mà người yêu mến.

Rồi hai vị đệ tử của tôi cũng đến trước mặt sư phụ và quỳ xuống kính lễ người. Tôi giới thiệu họ với sư phụ, và người cúi xuống xoa đầu tỏ ý ban phước lành.

Sau đó chúng tôi cùng vào phòng khách. Nơi đây vẫn bài trí như xưa không có gì thay đổi. Sư phụ vẫn ngồi trên tấm nệm trải trên sàn gạch. Chúng tôi ngồi trên những chiếc chiếu bằng rơm trải quanh đó và tựa người vào những cái gối gòn lớn màu vàng sậm.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar và tôi trao đổi nhau bằng tiếng Bengale, mặc dù sư phụ có thể nói được tiếng Anh. Có lẽ người muốn nhắc nhở tôi về cội nguồn mà từ đó tôi đã ra đi. Tôi trình bày sơ qua với sư phụ về một số những việc đã làm. Người lắng nghe và thỉnh thoảng đưa ra một vài nhận xét, vẫn chính xác và sắc bén như xưa, mặc dù năm ấy thầy đã 81 tuổi!

Căn phòng cũ kỹ có vẻ như đã lâu không được tu sửa gì. Màu vôi trên các bức vách tường đã loang lổ nhiều nơi vì thời gian. Tôi vô cùng xúc động khi nhìn thấy bức ảnh của tôi chụp chung với các vị đại biểu quốc tế hồi dự Đại hội tôn giáo ở Boston, được treo ngay bên cạnh bức chân dung của đức thầy Lahiri Mahsaya. Và đó là những vật trang trí hầu như duy nhất trong căn phòng đơn sơ này.

Sau đó, tôi dâng lên sư phụ những món quà mà tôi đã mang về cho người từ nước Mỹ. Và chúng tôi cùng dùng cơm trưa thân mật trong nhà ăn của đạo viện. Lúc này tôi mới có thời gian chào hỏi và thăm lại các huynh đệ cũ ở nơi đây. Ai nấy đều lộ rõ vẻ vui mừng ra mặt vì sự trở về của tôi.

Chúng tôi còn lưu lại đạo viện suốt buổi chiều hôm ấy để hàn huyên tâm sự, và ra về khi mặt trời đã xế bóng. Niềm vui hội ngộ vẫn còn lâng lâng trong lòng tôi trên suốt chặng đường trở lại Calcutta.

° ° °

Trong thời gian sau đó, tôi thường xuyên đến đạo viện để thăm viếng sư phụ. Sinh hoạt thường ngày của người vẫn đều đặn như xưa. Và tôi vô cùng sung sướng được sống trở lại những giây phút bên cạnh thầy như ngày nào, khi mà tôi không phải lo nghĩ bất cứ chuyện gì vì mọi việc đều có sư phụ đứng ra lo liệu.

Một hôm, tôi nhận lời thuyết pháp tại giảng đường Albert Hall ở Calcutta. Nhân dịp này, sư phụ đồng ý đến tham dự. Người ngồi trên hàng ghế danh dự cùng với vị Quốc vương Santosh và viên thị trưởng thành phố Calcutta. Sau buổi thuyết pháp rất đông người nghe này, sư phụ không bình phẩm gì nhưng tôi nhìn thấy sự hài lòng trong ánh mắt người.

Hôm sau, người gọi tôi đến trước mặt và nói:

– Yognanda! Thầy đã lớn tuổi rồi nên sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Kể từ nay thầy muốn giao lại tất cả mọi việc cho con. Trước hết, con hãy chọn cho thầy một người phụ trách đạo viện ở Puri. Và sau đó, thầy muốn con xem xét việc tiếp quản và thay thầy điều hành mọi việc.

Tôi rưng rưng nước mắt. Quả thật tôi đã biết thế nào cũng phải đến ngày hôm nay, nhưng vẫn không sao tránh được xúc động. Sư phụ đã quá già. Đó là sự thật. Tôi không ngại việc thay thế thầy trong lúc này vì tôi biết mình đã có đủ năng lực, nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn vô hạn khi linh cảm thấy sự ra đi vĩnh viễn sắp đến của người thầy kính yêu.

Ngay ngày hôm sau, tôi cho gọi đến một người đệ tử ở Ranchi là Swami Sebnanda và giao phó việc điều hành đạo viện Puri.

Khi sắp đến ngày thánh lễ Kumbha Mela được cử hành tại Allahabad. Tôi nói với sư phụ là tôi muốn tham dự thánh lễ này. Sư phụ có vẻ ngần ngại, nhưng rồi người cũng không ngăn cản tôi.

Hôm đó là ngày 23 tháng 1 năm 1936. Chúng tôi đến nơi cử hành thánh lễ. Số người tham dự lên đến gần hai triệu người, từ khắp mọi nơi đổ về, làm cho thành phố trở nên huyên náo và tấp nập lạ thường. Chỉ trong những dịp như thế này người ta mới có thể dễ dàng nhận thấy được sức sống tâm linh vẫn luôn tiềm tàng trên đất nước Ấn Độ từ nhiều ngàn năm qua, và các tu sĩ bao giờ cũng được dành cho một sự kính trọng từ mọi tầng lớp xã hội. Người ta vẫn luôn tin rằng chính nhờ giới tu sĩ mà tất cả mọi người đều có thể được hưởng những sự may mắn, phúc lạc và bình an.

Ngày đầu tiên, chúng tôi đi tham quan cảnh vật chung quanh thành phố. Bờ sông Hằng đông ngẹt cả người. Người ta đến đây tắm gội trong dịp này theo một niềm tin đã có từ xa xưa là sẽ rửa sạch được mọi tội lỗi. Dọc theo bờ sông, các tu sĩ ngồi xếp bằng rải rác khắp đây đó và các tín đồ sùng kính dâng lễ vật cúng dường cho họ. Còn có cả những đoàn voi, ngựa và lạc đà diễu hành ngang qua trước mặt công chúng, được trang hoàng với nhiều màu sắc rực rỡ khác nhau. Chúng tôi còn chứng kiến cả một cuộc rước lễ của những tu sĩ khỏa thân, những người chủ trương sống hoàn toàn theo tự nhiên.

Chúng tôi được dịp tiếp xúc với rất nhiều tu sĩ thuộc các dòng tu khác nhau. Họ cũng đều quy tụ về đây với mục đích tham dự thánh lễ và gặp gỡ những người đồng đạo. Một cách rất tự nhiên, họ tụ tập thành từng nhóm nhỏ ngay bên lề đường hoặc trên những bãi đất trống. Mỗi người một trang phục khác nhau nhưng tất cả đều biểu lộ nét trầm tĩnh và an lạc của những người đã xuất gia tìm đạo.

Các nhà tu khổ hạnh hình thù kỳ quái cũng xuất hiện khắp nơi. Có người để mình trần và bôi đất bùn trộn với tro lên khắp người. Lại có những người khác để tóc dài đến hơn một mét! Họ quấn thành lọn rồi cột lại thành búi trên đỉnh đầu.

Những thuật sĩ làm trò uốn lượn hoặc các trò ảo thuật khác cũng tìm về đây rất đông. Họ biểu diễn ngay bên đường để giúp vui cho cuộc lễ mà không đòi hỏi một khoản thù lao nào.

Trong khung cảnh náo nhiệt ồn ào đó, thỉnh thoảng lại ngân vang tiếng chuông chùa, lấn át tất cả những âm thanh khác.

Ngày tiếp theo, chúng tôi đến thăm một số các đạo viện trong vùng. Người ta cũng đã dựng lên những túp lều tạm để làm chỗ trú ngụ cho một số tu sĩ đạo cao đức trọng.

Vị sư trưởng của một trong các đạo viện mà chúng tôi đến viếng là người đã thực hành tịnh khẩu trong chín năm qua, và ngài chỉ dùng toàn trái cây mà không động đến bất cứ loại thức ăn nào khác. Chúng tôi cũng gặp một tu sĩ mù tên là Pragla Chaksu, người nổi tiếng là tinh thông tất cả kinh điển và được mọi người rất kính trọng.

Tôi cũng thực hiện một buổi thuyết pháp ngắn ngủi, và sau đó đến thăm một đạo viện khác. Tại đây, tôi gặp gỡ tu sĩ Krishnan, người có vóc dáng lực lưỡng và khuôn mặt rất khôi ngô tuấn tú. Ông này đã thuần phục được một con sư tử, lúc nào cũng nằm cạnh ông khi ông ngồi thiền. Điều đặc biệt là con sư tử không còn ăn thịt như đồng loại của nó mà chỉ ăn cơm với sữa. Con vật cũng biết sùng kính người chủ nhân đức độ của nó.

Sau đó, chúng tôi đến viếng một vị tu sĩ trẻ nhưng là một học giả nổi tiếng. Vị này tên là Kara Patri, đã có học vị tiến sĩ của Đại học Bénarès và còn được tôn xưng danh hiệu Shasti, một danh hiệu chỉ dành cho những vị bác học đã tinh thông tất cả thánh kinh của các tôn giáo.

Chúng tôi được biết vị tu sĩ này đã chọn cuộc sống lang thang không nhà từ khi còn rất trẻ. Tôi hỏi ông ta:

– Khi trời rét, ngài có mặc thêm chiếc áo nào khác hay không?

Tu sĩ nhoẻn miệng cười:

– Tất nhiên là không, bởi vì tôi chỉ sở hữu duy nhất có một chiếc áo. Và tôi cho như thế là quá đủ.

Sau đó, ông vui vẻ kể cho tôi nghe về cuộc sống phiêu dạt không hề định cư ở bất cứ nơi đâu, với sự thanh thản vì không bao giờ bận tâm lo nghĩ bất cứ điều gì... Tôi bỗng thấy hối tiếc vì từ trước mình đã không chọn lấy một cuộc sống như ông.

Tôi lại hỏi ông:

– Thế ngài có mang theo kinh sách gì không?

– Không. Khi tôi thuyết pháp, tôi chỉ dùng trí nhớ. Những kinh điển tôi học được đều nằm trong trí nhớ của tôi.

– Thế ngài có thường bận rộn vì một công việc gì khác nữa không?

– À, thỉnh thoảng tôi có nhu cầu phải đi dạo trên bờ sông Hằng.

Tôi biết mình còn quá nhiều những nhiệm vụ đang chờ đón, không thể nghĩ đến việc thong thả dạo chơi trên bờ sông Hằng như ông, nhưng khi nghe ông nói tôi cũng chợt thấy thèm thuồng một đời sống vô tư không bận bịu.

Chúng tôi còn tiếp tục trao đổi rất nhiều về những kinh nghiệm tâm linh trên đường tu tập. Tôi lấy làm kinh ngạc xiết bao khi thấy vị tu sĩ trẻ này đã có được những trình độ tu chứng không hề thua kém những vị tu sĩ đã khổ tu lâu năm.

Khi nghe tôi kể sơ qua về công cuộc hoằng pháp ở Hoa Kỳ, ông tỏ vẻ khâm phục và nói:

– Thật ra những người như tôi dù có muốn cũng không có khả năng làm được những việc như thế. Đại đức quả là đã đóng góp to lớn vào việc truyền bá đạo pháp.

Khi chúng tôi chia tay ra về, tôi nói với ông Wright:

– Người ấy là một ông vua không cần ngai vàng.

Buổi chiều, chúng tôi dùng cơm trên một chiếc chiếu trải trên mặt đất, dưới bầu trời trong xanh với những vì sao mọc sớm lung linh sáng ở phương xa.

Chúng tôi tiếp tục lưu lại nơi hành lễ trong hai ngày nữa rồi mới lên đường đi Agra, dọc theo con sông Jumma. Sau đó tôi đến viếng lăng mộ cổ Taj Mahal, và cuối cùng ghé đến thăm tu sĩ Keshab ở đạo viện Brindaban.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/06/2020(Xem: 10296)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
02/06/2020(Xem: 10241)
THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HẠNH PHÚC (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ TỬ SINH, TỰ TÌNH KHÚC (thơ Ns. Hạnh Đạt), trang 13 ¨ TÀI SẢN SẼ MẤT, TẠO PHƯỚC THÌ CÒN (Quảng Tánh), trang 14 ¨ TÂM THƯ CẦU NGUYỆN BỆNH DỊCH CORONA VŨ HÁN CHẤM DỨT (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ CHÚC NGUYỆN THƯ PHẬT ĐẢN 2564 (TK. Thích Tuệ Sỹ), trang 16 ¨ THỌ GIỚI (HT. Thích Huệ Hưng), trang 18 ¨ SAU MÙA GIÓ LOẠN (thơ Mặc Phương Tử), trang 23 ¨ CHÙA CỔ THIÊN TỨ... (Tâm Không Vĩnh Hữu), trang 24
31/05/2020(Xem: 4520)
-Các con biết đây là gì không? Đây là chiếc Gối Gỗ của Sư Ông. Bốn huynh đệ chúng tôi trố mắt nhìn nhau, lần đầu tiên trong đời mới thấy chiếc gối gỗ. Thì ra, món đồ Sư Phụ để trên bàn thờ mấy năm qua được bọc vải vàng là cái Gối Gỗ của Sư Ông, chúng tôi nhiều lần thắc mắc nhưng không ai biết được đấy là gì, cũng không dám hỏi Sư Phụ. Tôi còn nhớ như in buổi chiều khi hay tin Sư Ông viên tịch, Thầy trò đang ngoài ruộng lúa chuẩn bị cho vụ mùa. Thầy vội vã về chùa để ra quê cho kịp chuyến xe tối. Hạnh Trí nhanh nhẹn chuẩn bị cho Thầy bộ Y, mấy bộ quần áo và vài gói mì lá Bồ Đề bỏ vào trong cái túi đãi đã bạc màu. Hạnh Tú thì tranh thủ dắt chiếc xe đạp ra ngoài trong tư thế đưa Thầy ra quốc lộ. Hạnh Lưu nhanh tay lo cho Thầy mấy trái bắp luộc để lót dạ trên đường. Thầy đi chỉ dặn dò mấy con ở chùa nhớ công phu bái sám đều đặn, công việc nặng thì nhờ quý bác Phật tử giúp giùm.
29/05/2020(Xem: 3678)
Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh… - Tâm hả con, vào nhanh đi. Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo: - Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!
27/05/2020(Xem: 5364)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
10/05/2020(Xem: 4181)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona. Thí chủ nào muốn cúng dường gạo sữa, hoa quả chỉ dám nhấn chuông rồi lặng lẽ để phẩm vật trước cửa Chùa. Không thể nào thực hiện được hạnh nguyện cúng dường ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhưng tấm lòng nhớ đến Tam Bảo như thế cũng đáng được tán thán! Chùa trở nên sống động nhờ ý tưởng độc đáo của Sư Bà Linh Thứu, phải làm một cái gì hữu ích cho xứ sở mình đang sống để trả ơn cho họ trong cơn đại dịch. Sư Bà huy động tất cả các Phật tử có tay nghề may vá, kêu gọi họ may khẩu trang đem đến Chùa quyên tặng và các Sư Cô của Chùa cũng phải ngày đêm may cắt làm sao cho đủ số. Ít nhất phải đến con số 3000 chiếc khẩu trang ân tình Sư Bà mới dám triệu Ngoại Vụ của Chùa đi làm việc. Sư Bà muốn mời một vị khách quý của Chùa đến nhận món quà ấy, ông Thị Trưởng của quận Spandau nơi chùa Linh Thứu sinh hoạt.
01/05/2020(Xem: 12428)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
30/04/2020(Xem: 4866)
Hãy mau mau buông bỏ mọi mê lầm ngay tại đây và ngay bây giờ. Xin giới thiệu với độc giả hoàn cảnh ra đời của bài này. Tác giả là nhân viên làm việc trong một nhà tù thuộc tiểu bang Victoria. Trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19, mọi người dân đều phải chấp hành lệnh của chính phủ tiểu bang và liên bang để giữ gìn an toàn sức khỏe cho cộng đồng. Không được tụ tập trên mười người và phải giữ giản cách xã hội (cách nhau hơn một sải tay). Vì phải làm lễ cầu siêu cho một tù nhân vừa qua đời sau hơn hai năm mang nhiều thứ bệnh trong hoàn cảnh đặc biệt này cho nên chúng tôi chọn cái đề tựa như trên.
27/04/2020(Xem: 3335)
Ra khỏi bến xe Vinh, xe rẽ về ngả Thanh Chương. Hàng cây hai bên đường như lui dần, biến vào trong đám bụi đất đỏ phía sau xe. Sáng sớm trời còn mờ sương. Hơi lạnh từ các hốc núi tỏa ra lãng đãng tan vào không khí. Gió mát dịu, tôi khoan khoái ngả người vào thành ghế phía sau lơ đãng nhìn những đám mây xám lơ lửng trong bầu trời âm u. Dường như có một chút ánh sáng ửng hồng ở phương xa, bên kia ngọn đồi trước mặt. Xe tiến tới. Ánh sáng như thật gần rồi sáng bẵng. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng. Người trong xe như trở mình sau một cơn ngáy ngủ. Họ lấm lét nhìn tôi soi mói như nhìn một quái vật từ cung trăng rớt xuống. Chắc là tôi lạ lắm. Tôi nghĩ vậy. Mái tóc ngắn, chiếc áo bà ba bó sát thân hình, chiếc quần đen hàng vải ú, nhưng dáng người ốm ốm, cao cao, tôi không giấu được tôi là người miền Nam vừa đến. - Chị ra Bắc thăm bà con đấy hẳn? Người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi tôi. Tôi quay lại mỉm cười rồi gật đầu dạ nhỏ.
27/04/2020(Xem: 2871)
Năm tôi mười hai tuổi, tôi đã biết mộng mơ. Nhưng tôi không mơ công tử đẹp trai con nhà giàu học giỏi hay các chàng bạch diện thư sinh mặt hoa da phấn mà tôi mơ hình ảnh thiếu nữ áo dài xanh (màu xanh nước biển), có đôi găng tay trắng, ở cổ áo gắn hai đầu rồng nho nhỏ, xinh xinh, huy hiệu của tiếp viên phi hành hàng không Air Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]