Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương IV: Những trường hợp lạ lùng

10/03/201105:29(Xem: 7899)
Chương IV: Những trường hợp lạ lùng

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG IV: NHỮNG TRƯỜNG HỢP LẠ LÙNG

Một trong những người bạn của tôi, anh Santosh, là con trai của một bác sĩ thú y, ông Chunder Roy.

Chunder Roy là một kiểu người trí thức nửa mùa, hiểu biết thì nông cạn nhưng lòng tự cao tự đại thì rất lớn. Ông chưa từng có thái độ tin tưởng vào bất cứ điều gì khác hơn là những điều ông đã học được ở trường lớp.

Santosh là một người giàu lòng tin, và chính anh đã khẩn khoản nhờ tôi nói với sư phụ Śrỵ Yukteswar để người giúp đỡ trong việc cải hóa con người của cha anh.

Chúng tôi thành công trong việc thuyết phục ông Roy đến viếng thăm đạo viện một lần. Tuy nhận lời nhưng ông nói với giọng rất trịch thượng:

– Tôi đã nghe lắm người ca ngợi ông đạo này, nên cũng muốn đến thăm một lần xem sao.

Cuộc gặp gỡ hết sức tẻ nhạt với vài ba câu chào hỏi xã giao và những khoảng im lặng kéo dài. Sư phụ tôi có vẻ như không muốn chủ động đưa ra vấn đề gì cả.

Khi ông bác sĩ đã ra về, sư phụ hỏi tôi:

– Con đưa một người sắp chết đến đây làm gì?

Tôi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi ấy:

– Bạch thầy, nhưng ông ta là một người đang khỏe mạnh.

– Người ấy sắp chết đến nơi rồi.

Tôi thật sự bàng hoàng, vì tôi biết sư phụ không nói đùa và càng không nói sai sự thật:

– Bạch thầy, con trai ông ấy vẫn nuôi hy vọng là thời gian sẽ giúp cải hóa ông ta. Nhưng nếu như thế thì quả là tuyệt vọng. Cầu xin thầy hãy cứu vớt ông ta.

Sư phụ đáp:

– Điều quan trọng vẫn là những quyết định cải hối từ phía ông ta. Nhưng theo lời khẩn cầu của con và tấm lòng thành của người con trai, ta sẽ tạo cho ông ấy thêm một số cơ hội.

Dừng một lát, sư phụ nói tiếp:

– Tuy ông ta là bác sĩ thú y, nhưng ông đã không tự biết được là ông đang bị chứng tiểu đường rất nặng. Khoảng một tuần nữa ông ta sẽ bắt đầu nằm liệt giường. Các y sĩ sẽ bó tay, và ông ta sẽ chết trong vòng 5 tuần lễ kể từ hôm nay. Với sự giúp sức của ta, nếu ông ấy chịu đeo một món linh phù đã được chú nguyện, ông sẽ khỏi bệnh cũng vào ngày mà lẽ ra ông phải chết. Ta biết là ông sẽ phản đối dữ dội trước khi chịu đeo món linh phù vào người.

Sư phụ lại im lặng. Một lát, người đưa cho tôi món linh phù nhỏ bé và nói tiếp:

– Sau khi khỏi bệnh, con hãy khuyên ông ta ăn chay, không được ăn thịt. Nếu ông ta không nghe lời khuyên đó, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tháng sau, đúng vào ngày mà ông ta nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khỏi bệnh.

Ngày hôm sau, tôi mang món linh phù đến tìm Santosh và chúng tôi cùng thuyết phục bác sĩ Roy đeo nó vào người. Ông ta phản ứng dữ dội bằng những lời nặng nề và xúc phạm:

– Đừng hù dọa ta với những lời tiên tri này nọ. Ta đang rất khỏe và sẽ không bệnh hoạn gì cả. Hãy dẹp những món linh phù vớ vẩn ấy đi.

Nhưng một tuần sau thì Santosh lại đến tìm tôi và thông báo là cha anh đã đồng ý đeo món linh phù. Ông ta đang trong tâm trạng hốt hoảng vì quả thật ông đã ngã bệnh và bác sĩ điều trị xác định đúng là bệnh tiểu đường như lời thầy tôi nói. Hơn thế nữa, bác sĩ còn tuyên bố bệnh của ông đã đến giai đoạn mà y học lúc ấy hoàn toàn bó tay và chỉ còn chờ ngày chết. Hết sức kinh ngạc trước những dự báo chính xác của thầy tôi, ông lập tức bảo Santosh đến tìm tôi để xin được đeo món linh phù như một tia hy vọng cuối cùng.

Khi chúng tôi đến chỗ ông thì bác sĩ điều trị cũng vừa bước ra. Ông nói nhỏ với Santosh:

– Bệnh của cha em đã nguy kịch đến mức không sao cứu chữa được nữa rồi.

Tôi nhìn ông ta, lắc đầu và nói:

– Không, sư phụ tôi đã nói là ông ta sẽ khỏi bệnh. Căn bệnh của ông ta chỉ kéo dài một tháng thôi.

Ông bác sĩ trố mắt nhìn tôi như nhìn một người mất trí, rồi không buồn cãi lại, ông xếp y cụ ra về.

Một tháng sau, ông ta tình cờ gặp tôi trên đường phố và đón tôi lại, nói với vẻ hết sức kinh ngạc:

– Này em, tôi không biết sư phụ của em là ai, nhưng chắc chắn ông ta là một nhà tiên tri hoặc một người chữa bệnh thần bí. Ông Roy đã hoàn toàn bình phục một cách rất đột ngột. Trong đời thầy thuốc của tôi, tôi chưa gặp một trường hợp nào tương tự như vậy trước đây cả.

Tôi liền ghé qua thăm ông Roy và nói cho ông biết là ông nên ăn chay nếu như muốn giữ gìn được sức khỏe và sinh mạng của mình. Ông ta im lặng lắng nghe nhưng không có vẻ gì là tin nhận.

Sáu tháng sau, tôi lại tình cờ gặp ông tại một cửa hiệu bán tạp hóa. Ông chào tôi và nói:

– Em hãy chuyển lời tôi đến với sư phụ em rằng tôi đã hồi phục sức khỏe rất nhanh nhờ ăn nhiều thịt. Lời khuyên phản lại khoa học dinh dưỡng của ông ta không gạt gẫm được tôi đâu.

Tôi nhìn ông ta, quả thật ông rất mập mạnh và không còn chút dấu hiệu nào của bệnh tật.

Nhưng sáng hôm sau, Santosh hốt hoảng chạy đến đạo viện tìm tôi và thông báo:

– Cha tôi đã bất ngờ qua đời hồi sáng nay mà không có dấu hiệu gì báo trước cả.

Tôi lặng thinh. Lời cảnh báo của sư phụ là hoàn toàn chính xác. Tiếc thay, ông ta đã không có đủ phước duyên để nghe theo!

° ° °

Một trong những đặc ân mà sư phụ dành cho tôi là được quyền đưa bạn bè của tôi về đạo viện để hội kiến cùng sư phụ. Rất nhiều người trong số đó đã được sư phụ dắt dẫn vào con đường tín ngưỡng.

Anh bạn Sasi của tôi cũng là một người trong số đó. Từ khi được quen biết sư phụ tôi, anh thường xuyên đến đây vào những ngày cuối tuần, lắng nghe những buổi giảng của sư phụ một cách rất thích thú. Sư phụ tôi cũng tỏ ra rất mến anh.

Nhưng Sasi là một thanh niên phóng đãng, ăn chơi vô độ. Một hôm sư phụ nhìn thẳng vào anh và nói rất nghiêm nghị:

– Sasi, nếu con không thay đổi cách sống, con sẽ mắc bệnh nặng, và đừng trách ta là đã không khuyên can con trước.

Sasi cười và nói:

– Bạch thầy, con tin lời thầy, nhưng có lẽ chỉ biết nhờ thầy cầu nguyện cho mà thôi. Con không đủ ý chí để thay đổi lối sống từ lâu nay.

Sau đó tôi đã nhiều lần gặp riêng Sasi để cố gắng thuyết phục anh thay đổi, vì tôi hiểu rất rõ tầm quan trọng trong lời cảnh báo của sư phụ. Nhưng anh ta nói:

– Không phải tôi nghi ngờ lời nói của thầy, nhưng quả thật tôi không thể nào thay đổi được cuộc sống hiện nay.

Ít lâu sau Sasi không còn ở gần chúng tôi nữa. Anh đến Bénarès và ở lại đó khá lâu.

Hơn một năm sau, một hôm tôi đang cùng sư phụ uống trà thì sư huynh trực nhật vào báo là có khách. Sư phụ nhìn tôi và nói:

– Sasi đến đấy. Nó đã không nghe lời ta. Con hãy ra nói là ta không muốn gặp nó nữa.

Tôi bước ra sân đón khách và thấy quả đúng là Sasi, vóc dáng hết sức tiều tụy. Tôi liền nói với anh rằng sư phụ đã biết anh đến và người không muốn gặp anh. Sasi ứa nước mắt nói:

– Mukunda, tôi không chỉ đến đây để viếng thăm. Tôi cần gặp người để cầu xin người cứu mạng tôi.

Vừa nói, anh vừa đẩy tôi ra để đi thẳng vào phòng sư phụ. Khi tôi theo vào đến nơi, tôi nghe anh đang nói với thầy qua tiếng khóc:

– Bạch thầy, bác sĩ điều trị bảo rằng con đã mắc bệnh lao đến thời kỳ bất trị. Họ nói rằng con chỉ sống được không quá ba tháng nữa. Con biết chỉ có thầy mới cứu được con vào lúc này mà thôi. Con khẩn cầu thầy hãy từ bi cứu vớt lại cuộc sống cho con.

Sư phụ nhìn anh lắc đầu:

– Đã quá muộn rồi con ạ. Ta đã thấy trước ngày này từ lâu nhưng tiếc là con đã không nghe lời ta.

Sư phụ nói rồi yên lặng nhắm mắt lại chìm sâu vào thiền định.

Sasi kiên nhẫn quỳ trước mặt người như vậy trong khoảng hai giờ đồng hồ. Quả nhiên, cuối cùng người cũng mở mắt ra. Tôi biết sư phụ chỉ muốn thử thách niềm tin của Sasi mà thôi. Người nói:

– Thôi con hãy về đi. Trong hai tuần nữa con sẽ khỏi bệnh. Và sau đó thì con hãy liệu mà cân nhắc lối sống của mình.

Sasi mừng rỡ lộ ra nét mặt:

– Bạch thầy, con có cần phải uống thuốc không?

– Tùy con. Dù uống hay không cũng chẳng có vấn đề gì. Dù sao thì con cũng sẽ không chết vì bệnh lao đâu.

Tôi hơi băn khoăn vì câu nói có vẻ hơi bí ẩn của sư phụ. Nhưng Sasi không hoài nghi gì. Sư phụ bỗng nói thêm với giọng nghiêm nghị:

– Con về đi, đừng để có khi ta lại đổi ý đấy.

Sasi hối hả từ biệt về ngay.

Tôi lấy làm quan tâm đến trường hợp của anh và vì thế thường ghé thăm anh trong những ngày sau đó. Và tôi thật thất vọng khi thấy bệnh tình của anh ngày càng nguy kịch, không có vẻ thuyên giảm chút nào. Vào ngày cuối cùng của tuần lễ thứ hai theo lời dự báo của sư phụ, tôi đến thăm anh và anh không còn nói được nữa, chỉ nằm yên trên giường đưa mắt nhìn tôi. Ánh mắt của anh như khẩn cầu tôi hãy thay anh mà van xin cùng sư phụ. Ông bác sĩ điều trị nói với tôi:

– Anh ta không thể qua khỏi đêm nay.

Tôi tức tốc trở về đạo viện, tìm lên phòng sư phụ. Người nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng mà tôi chưa thấy trước đó bao giờ:

– Sao con lại cuống lên như thế? Ta chẳng đã nói là Sasi sẽ khỏi bệnh hay sao?

Không đợi tôi nói ra lấy một lời, sư phụ đã bảo tôi như thế. Tôi không còn cách nào khác hơn là cúi chào và lui ra.

Không ngủ được khi nghĩ đến bạn mình đang hấp hối trên giường bệnh, tôi rời đạo viện và tìm đến nhà Sasi ngay trong đêm.

Khi đến nơi, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Sasi đang ngồi uống sữa trên giường. Nhìn thấy tôi, anh tươi cười nói:

– Mukunda! Thật là kỳ diệu! Chỉ cách đây không đầy nửa giờ, tôi đột nhiên nhìn thấy sư phụ Śrỵ Yukteswar hiện ra trong phòng này. Người đứng nơi cửa phòng nhìn tôi không nói gì, nhưng ánh mắt ngài như có sức nóng truyền đến chỗ tôi. Kể từ lúc đó tôi thấy cơn đau và sự mệt mỏi như tan biến dần. Chỉ một lúc sau thì sư phụ không còn ở đó nữa. Tôi cảm thấy đói bụng cồn cào, liền ngồi dậy đòi uống sữa.

Tôi không còn biết nói gì, chỉ lặp lại lời khuyên Sasi là sau khi hết bệnh hãy liệu mà tu tỉnh cuộc sống.

Chỉ hai tuần sau thì Sasi hồi sức và lên cân rất nhanh trước sự kinh ngạc của bác sĩ điều trị cho anh. Ông tuyên bố đây là một trường hợp chưa từng có và không thể nào giải thích được bằng những kiến thức y học mà ông hiện có.

Nhưng tiếc thay đoạn kết của câu chuyện này lại thật đáng buồn. Sasi vẫn chứng nào tật nấy, thậm chí còn tránh né không lui tới nơi đạo viện như trước nữa. Có lần anh bảo tôi là vì anh cảm thấy xấu hổ khi gặp mặt sư phụ.

Chỉ sáu tháng sau thì anh ngã bệnh trở lại. Và lần này tôi đã vĩnh viễn mất anh.

° ° °

Một bạn học cùng lớp của tôi, Dijen Babu, là người đang đứng giữa ngã ba đường về mặt tâm linh. Tôi nói thế, vì anh ta một mặt muốn đặt niềm tin vào tín ngưỡng tôn giáo, một mặt lại cũng hoài nghi về những giáo lý đôi khi rất trừu tượng và không dễ gì chứng minh được bằng toán học.

Và vì thế, một ngày kia tôi mời anh đến thăm đạo viện của chúng tôi.

Dijen theo tôi đến viếng thăm đạo viện vào một buổi chiều và được tiếp chuyện cùng sư phụ Śrỵ Yukteswar. Sau lần đó, anh thực sự quan tâm đến tín ngưỡng và thường xuyên lui tới đạo viện ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, những kiến thức khoa học của trường đại học dường như đã làm cho anh không sao dứt sạch mối nghi ngờ về những đạo lý trừu tượng mà người ta đòi hỏi anh phải tin nhận thay vì là lý luận và chứng minh. Chẳng hạn, có lần anh thú nhận với tôi là vẫn không tin được vì sao một điều tệ hại xảy ra cho chúng ta hôm nay lại dứt khoát phải là hậu quả của một hành vi xấu trong quá khứ, khi mà chẳng ai có thể chỉ ra được mối liên hệ đó cả!

Tôi thầm mong có một dịp nào đó để Dijen hiểu ra rằng không phải mọi sự thật trong cuộc đời này đều có thể được chứng minh bằng toán học.

Một ngày kia, sư phụ có việc phải đi Calcutta trong mấy hôm. Sư phụ để lại một mảnh giấy, bảo tôi và Dijen hãy ra ga đón người trở về vào sáng thứ Tư, chuyến xe lửa 9 giờ sáng.

Nhưng vào khoảng 8 giờ 30 hôm thứ Tư, khi đã sắp sửa cùng Dijen ra ga đón thầy, tôi bất chợt có linh cảm là thầy đang muốn nhắn gửi tôi điều gì đó. Tôi liền vào phòng và ngồi xuống tập trung tư tưởng, giữ cho tâm hồn thật yên tĩnh. Trong trạng thái đó, một lúc sau tôi nghe thấy tiếng sư phụ như vang lên trong thinh lặng: “Thầy còn một số công việc chưa giải quyết kịp, nên sẽ không về vào chuyến xe lửa 9 giờ như đã định. Các con không cần phải đi đón thầy.”

Tôi đi ra cổng, gọi Dijen lại và cho anh biết rằng qua giao cảm tôi đã được sư phụ cho biết là người sẽ không về kịp như đã định và vì thế không cần phải đi đón. Dijen nhìn tôi với vẻ hoài nghi và nói:

– Thầy đã dặn lại chúng ta bằng giấy mực hẳn hoi. Còn giờ đây anh chỉ dựa vào cái linh cảm trừu tượng chẳng ai thấy được của anh để tuyên bố thay đổi, tôi làm sao có thể tin là anh nói đúng được kia chứ?

Tôi không thể nói thêm gì hơn, chỉ bày tỏ thái độ cương quyết là sẽ không đi. Dijen có vẻ bực tức, bỏ ra cổng một mình. Anh ta không thể tin vào thông báo có tính cách đầy bí ẩn của tôi.

Quay trở về phòng, tôi bỗng thấy nhớ sư phụ lạ thường. Chỉ mấy ngày không gặp mà tôi thấy như đã xa cách người quá lâu, không được nghe giọng nói ấm áp, không được nhìn dáng đi khoan thai, ánh mắt hiền từ của người... tôi cảm thấy một sự trống vắng không sao bù đắp được.

Tôi ngồi xuống tọa cụ của mình, bắt đầu thư giãn và tĩnh tọa. Không khí yên tĩnh và tâm trạng thư thái làm cho tôi thấy nhẹ nhõm đi bao nhiêu ý tưởng phiền toái. Tôi thấy đầu óc mình trở nên minh mẫn lạ thường và một cảm giác lâng lâng sảng khoái như chưa từng có được.

Trong trạng thái kỳ lạ đó, bất chợt tôi hình dung thấy sư phụ như đang hiện ra trước mặt tôi. Không phải ở Serampore, cũng không phải Calcutta, mà là trên một toa xe lửa, trong bộ y phục màu vàng sậm thường ngày mà lúc này tôi có thể thấy rõ đến từng nếp gấp... Cùng đi với người là một tiểu đồng ôm cái bình bằng bạc sáng chói đang ngồi ở phía bên trái. Sư phụ quay lại nhìn và cười với tôi:

– Chắc con chưa quen lắm với cách giao tiếp như thế này. Nhưng xem ra cũng tiện lợi đấy chứ.

Rồi thầy chỉ tay về phía chú tiểu đồng:

– Con thấy đấy. Ta vừa thu nhận thêm một đệ tử nhỏ. Và vì việc này mà ta phải chậm trễ một đôi chút. Nhưng chuyến xe lửa ta đang đi đây sẽ đến ga vào lúc 10 giờ. Con có thể cùng Dijen đến đón ta cũng vừa kịp đấy.

Những âm thanh, tiếng nói ấy vang lên rõ ràng trong im lặng như thể tôi không nghe chúng bằng tai mà bằng vào một thứ giác quan khác. Cũng vậy, những hình ảnh không đi vào trí óc tôi bằng nhãn quan thông thường mà bằng một khả năng tiếp nhận hoàn toàn khác...

Rồi trạng thái kỳ diệu ấy tan biến dần đi. Tôi trở lại với tâm trạng bình thường khi nghe có tiếng bước chân vang lên từ phía ngoài sân. Một cách mơ hồ, tôi biết đó là Dijen đã trở lại từ nhà ga xe lửa.

Khi tôi mở cánh cửa phòng khách để nhìn ra sân thì quả đúng là Dijen. Anh nhìn tôi có vẻ hơi bẽn lẽn vì biết rằng mình đã sai khi không nghe lời tôi. Tuy vậy, anh không giấu được sự ngạc nhiên về điều ấy:

– Mukunda! Tôi không sao tin nổi là anh nói đúng, nhưng quả thật là vậy. Sư phụ đã không về trên chuyến xe lửa lúc 9 giờ. Tôi đã chờ đến chuyến 9 giờ 30 và cũng không thấy.

Tôi mỉm cười với anh ta:

– Nhưng thầy sẽ về trên chuyến xe lửa lúc 10 giờ. Vì vậy tôi với anh phải đi ngay kẻo không kịp.

Dijen mở to mắt nhìn tôi kinh ngạc và cuối cùng cũng miễn cưỡng đi theo tôi. Chúng tôi đến nhà ga vừa lúc xe lửa đến. Dijen hỏi tôi:

– Anh biết chắc là sư phụ sẽ về trên chuyến xe lửa này?

– Đúng vậy. Tôi đã tiếp chuyện với thầy qua thần giao cách cảm. Tôi biết sư phụ có đưa về một tiểu đồng, và cậu bé ấy ôm một cái bình bằng bạc đi cùng sư phụ. Người mặc bộ y phục màu vàng sậm.

Khi tôi vừa nói dứt câu ấy thì cũng vừa lúc Dijen nhìn thấy được sư phụ từ trong đám đông hành khách vừa xuống tàu. Anh trố mắt nhìn thầy rồi quay sang nhìn tôi như đang quan sát một hiện tượng kỳ lạ mà bộ óc của anh không sao lý giải được. Bởi vì quả thật sư phụ mặc bộ y phục màu vàng sậm và đang cùng đi với một chú bé ôm cái bình bằng bạc sáng chói!

Bản thân tôi cũng bàng hoàng không ít. Lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấy được một cách hoàn toàn chính xác những hình ảnh vượt qua không gian. Chính những hình ảnh của sư phụ và chú bé ôm bình bạc này đã được tôi nhìn thấy lúc nãy, khi họ ngồi trên toa xe lửa còn tôi thì đang ngồi trong phòng. Nhưng giờ đây thì thực tế chứng minh rằng đó không phải là những ảo giác mà là những hình ảnh hoàn toàn có thật!

Sư phụ đã đi đến chỗ chúng tôi khi mà cả hai đều còn chưa lấy lại được tâm trạng bình thường. Người hiểu được điều đó và nói với cả hai:

– Các con không phải suy nghĩ quá nhiều về những điều vốn vượt quá tầm hiểu biết của các con. Cách tốt nhất là hãy thừa nhận những gì là sự thật, và chính kinh nghiệm bản thân sẽ dần dần giúp các con hiểu rõ.

Trên đường về, tôi kể cho Dijen nghe việc tôi đã nhìn thấy sư phụ khi người còn trên xe lửa. Lúc này, anh đã hoàn toàn tin lời tôi và quay sang hỏi:

– Tôi không biết các nhà khoa học sẽ nghĩ sao nếu họ cũng chứng kiến việc này như tôi và anh.

Tôi mỉm cười:

– Cách đây một thế kỷ, anh cũng có thể đặt ra câu hỏi tương tự nếu có ai đó đã sử dụng đến vô tuyến điện. Khoa học không phải đã hiểu hết những năng lực của con người cũng như trong vũ trụ. Nhưng điều đáng mừng là có vẻ như dần dần rồi người ta cũng hiểu, cho dù việc lý giải sự việc bao giờ cũng đi sau rất nhiều so với việc tiếp nhận nó bằng trực giác. Biết đâu chừng trong khoảng một thế kỷ nữa, khoa học cũng có thể làm được điều tương tự như chúng ta hôm nay nhờ vào một loại thiết bị nào đó.[1]

Dijen có vẻ trầm ngâm rất nhiều:

– Vâng, có lẽ anh nói đúng. Chỉ có điều giờ đây tôi thấy không còn hứng thú để tiếp tục theo học ở trường đại học nữa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/06/2020(Xem: 10510)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
02/06/2020(Xem: 10525)
THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HẠNH PHÚC (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ TỬ SINH, TỰ TÌNH KHÚC (thơ Ns. Hạnh Đạt), trang 13 ¨ TÀI SẢN SẼ MẤT, TẠO PHƯỚC THÌ CÒN (Quảng Tánh), trang 14 ¨ TÂM THƯ CẦU NGUYỆN BỆNH DỊCH CORONA VŨ HÁN CHẤM DỨT (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ CHÚC NGUYỆN THƯ PHẬT ĐẢN 2564 (TK. Thích Tuệ Sỹ), trang 16 ¨ THỌ GIỚI (HT. Thích Huệ Hưng), trang 18 ¨ SAU MÙA GIÓ LOẠN (thơ Mặc Phương Tử), trang 23 ¨ CHÙA CỔ THIÊN TỨ... (Tâm Không Vĩnh Hữu), trang 24
31/05/2020(Xem: 4646)
-Các con biết đây là gì không? Đây là chiếc Gối Gỗ của Sư Ông. Bốn huynh đệ chúng tôi trố mắt nhìn nhau, lần đầu tiên trong đời mới thấy chiếc gối gỗ. Thì ra, món đồ Sư Phụ để trên bàn thờ mấy năm qua được bọc vải vàng là cái Gối Gỗ của Sư Ông, chúng tôi nhiều lần thắc mắc nhưng không ai biết được đấy là gì, cũng không dám hỏi Sư Phụ. Tôi còn nhớ như in buổi chiều khi hay tin Sư Ông viên tịch, Thầy trò đang ngoài ruộng lúa chuẩn bị cho vụ mùa. Thầy vội vã về chùa để ra quê cho kịp chuyến xe tối. Hạnh Trí nhanh nhẹn chuẩn bị cho Thầy bộ Y, mấy bộ quần áo và vài gói mì lá Bồ Đề bỏ vào trong cái túi đãi đã bạc màu. Hạnh Tú thì tranh thủ dắt chiếc xe đạp ra ngoài trong tư thế đưa Thầy ra quốc lộ. Hạnh Lưu nhanh tay lo cho Thầy mấy trái bắp luộc để lót dạ trên đường. Thầy đi chỉ dặn dò mấy con ở chùa nhớ công phu bái sám đều đặn, công việc nặng thì nhờ quý bác Phật tử giúp giùm.
29/05/2020(Xem: 3787)
Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh… - Tâm hả con, vào nhanh đi. Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo: - Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!
27/05/2020(Xem: 5527)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
10/05/2020(Xem: 4267)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona. Thí chủ nào muốn cúng dường gạo sữa, hoa quả chỉ dám nhấn chuông rồi lặng lẽ để phẩm vật trước cửa Chùa. Không thể nào thực hiện được hạnh nguyện cúng dường ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhưng tấm lòng nhớ đến Tam Bảo như thế cũng đáng được tán thán! Chùa trở nên sống động nhờ ý tưởng độc đáo của Sư Bà Linh Thứu, phải làm một cái gì hữu ích cho xứ sở mình đang sống để trả ơn cho họ trong cơn đại dịch. Sư Bà huy động tất cả các Phật tử có tay nghề may vá, kêu gọi họ may khẩu trang đem đến Chùa quyên tặng và các Sư Cô của Chùa cũng phải ngày đêm may cắt làm sao cho đủ số. Ít nhất phải đến con số 3000 chiếc khẩu trang ân tình Sư Bà mới dám triệu Ngoại Vụ của Chùa đi làm việc. Sư Bà muốn mời một vị khách quý của Chùa đến nhận món quà ấy, ông Thị Trưởng của quận Spandau nơi chùa Linh Thứu sinh hoạt.
01/05/2020(Xem: 12685)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
30/04/2020(Xem: 4994)
Hãy mau mau buông bỏ mọi mê lầm ngay tại đây và ngay bây giờ. Xin giới thiệu với độc giả hoàn cảnh ra đời của bài này. Tác giả là nhân viên làm việc trong một nhà tù thuộc tiểu bang Victoria. Trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19, mọi người dân đều phải chấp hành lệnh của chính phủ tiểu bang và liên bang để giữ gìn an toàn sức khỏe cho cộng đồng. Không được tụ tập trên mười người và phải giữ giản cách xã hội (cách nhau hơn một sải tay). Vì phải làm lễ cầu siêu cho một tù nhân vừa qua đời sau hơn hai năm mang nhiều thứ bệnh trong hoàn cảnh đặc biệt này cho nên chúng tôi chọn cái đề tựa như trên.
27/04/2020(Xem: 3434)
Ra khỏi bến xe Vinh, xe rẽ về ngả Thanh Chương. Hàng cây hai bên đường như lui dần, biến vào trong đám bụi đất đỏ phía sau xe. Sáng sớm trời còn mờ sương. Hơi lạnh từ các hốc núi tỏa ra lãng đãng tan vào không khí. Gió mát dịu, tôi khoan khoái ngả người vào thành ghế phía sau lơ đãng nhìn những đám mây xám lơ lửng trong bầu trời âm u. Dường như có một chút ánh sáng ửng hồng ở phương xa, bên kia ngọn đồi trước mặt. Xe tiến tới. Ánh sáng như thật gần rồi sáng bẵng. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng. Người trong xe như trở mình sau một cơn ngáy ngủ. Họ lấm lét nhìn tôi soi mói như nhìn một quái vật từ cung trăng rớt xuống. Chắc là tôi lạ lắm. Tôi nghĩ vậy. Mái tóc ngắn, chiếc áo bà ba bó sát thân hình, chiếc quần đen hàng vải ú, nhưng dáng người ốm ốm, cao cao, tôi không giấu được tôi là người miền Nam vừa đến. - Chị ra Bắc thăm bà con đấy hẳn? Người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi tôi. Tôi quay lại mỉm cười rồi gật đầu dạ nhỏ.
27/04/2020(Xem: 2967)
Năm tôi mười hai tuổi, tôi đã biết mộng mơ. Nhưng tôi không mơ công tử đẹp trai con nhà giàu học giỏi hay các chàng bạch diện thư sinh mặt hoa da phấn mà tôi mơ hình ảnh thiếu nữ áo dài xanh (màu xanh nước biển), có đôi găng tay trắng, ở cổ áo gắn hai đầu rồng nho nhỏ, xinh xinh, huy hiệu của tiếp viên phi hành hàng không Air Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]