Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VI: Một trường hợp cải hối

10/03/201105:29(Xem: 7523)
Chương VI: Một trường hợp cải hối

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG VI: MỘT TRƯỜNG HỢP CẢI HỐI

Người anh rể của tôi, chồng chị Roma, là một người thiếu đức tin. Mặc dù chị Roma đã được tôi dạy cho cách ngồi thiền và vẫn thường xuyên thực hành ở nhà, nhưng chị gặp trở ngại rất lớn với người chồng của mình. Anh ta thường hay chế giễu việc ngồi thiền cũng như có thái độ thiếu cởi mở đối với các vị tu sĩ. Trong mắt anh, chỉ có những gì đã được khoa học chứng minh mới là đáng tin cậy. Điều đó có một phần lý do xuất phát từ nghề nghiệp của anh: một kế toán viên luôn luôn phải làm việc với những con số khô khan và chính xác.

Roma là chị cả của tôi. Từ khi mẹ tôi mất, chị đảm nhiệm cả vai trò người mẹ trong việc chăm sóc cho anh em chúng tôi. Vì thế, tôi đặc biệt có một cảm tình sâu đậm đối với chị. Tôi vẫn thường dành thời gian ghé thăm nhà chị ở Calcutta bất cứ khi nào có thể được.

Chị Roma nhiều lần tâm sự với tôi nỗi khổ tâm của chị về người chồng. Thật ra anh cũng là người rất tử tế và tốt bụng, nhưng những đức tin và đạo lý không có gì chứng minh đã không thuyết phục được anh. Anh cho rằng việc ngồi thiền chẳng làm ra được của cải vật chất gì, và như thế quả là lãng phí thời gian vô ích. Còn những tiến bộ về tâm linh gì gì đó thì chẳng ai có thể chỉ ra cho anh thấy được cả...

Tuy không nói ra, nhưng chị Roma hy vọng là một ngày nào đó tôi sẽ có thể giúp chị thuyết phục được người chồng, giúp anh ta trở thành một người có đức tin. Bởi vì trong mắt chị thì tôi là một người có đức tin rất sâu vững và cũng có nhiều năng lực đặc biệt hơn hẳn các anh em khác trong gia đình.

Chính tôi cũng có ý định ấy, nhưng chưa gặp dịp nào thuận tiện để thực hiện. Hơn thế nữa, tôi biết rằng đối với con người này, những cuộc tranh luận sẽ không dễ dàng gì thuyết phục được anh ta. Anh luôn đòi hỏi phải có một sự chứng minh cụ thể nào đó.

Gần đây, tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn cho chị Roma khi anh bắt đầu công khai phản đối việc chị ngồi thiền và dành thời gian cho công phu tu tập tại nhà. Thậm chí thỉnh thoảng anh còn công kích cả những tu sĩ mà anh cho là những “kẻ ăn bám xã hội”. Một đôi khi sự công kích cũng hướng cả về tôi khi chị tôi đưa tôi ra như một tấm gương tu tập để mong thuyết phục anh một cách vô vọng.

Chị Roma thông báo tình hình ấy cho tôi trong sự tuyệt vọng. Tôi cũng rất lấy làm lo lắng cho chị nhưng quả thật chưa nghĩ ra cách gì. Tôi âm thầm cầu nguyện, mong sao có một dịp thuận tiện nào đó để có thể thuyết phục người anh rể mình.

Một hôm, tôi mang chuyện này ra thưa với sư phụ Śrỵ Yukteswar. Sư phụ nhìn tôi cười và nói:

– Con đừng lo, chỉ trong vòng tuần tới con sẽ có dịp để thực hiện điều đó. Thầy hy vọng là con sẽ có đủ khả năng để tự xoay xở làm được.

Tôi vẫn chưa hiểu được ý sư phụ, nhưng tin là sư phụ không nói đùa. Tuy nhiên, năm ngày sau đó trôi qua không có việc gì đáng chú ý, và tôi gần như quên mất lời nói của thầy.

Vào cuối ngày thứ sáu, chị Roma hớt hãi đến tìm tôi và nói:

– Anh của em nguy rồi. Lần này chắc không ai có thể cứu được anh ấy nữa.

Tôi gặn hỏi nguyên nhân nhưng chị lắp bắp mãi không nói được điều gì rõ ràng. Tôi liền vội vã theo chị đến nhà.

Anh Satish Chandra Bose, chồng chị Roma, đang ngồi gật gù trước một chai rượu lớn, trên bàn vất đầy những mẩu thuốc lá. Mặt anh ta đỏ bừng, dấu hiệu của những người xưa nay rất ít khi đụng đến rượu.

Tôi kéo ghế ngồi xuống cạnh anh ta và hỏi:

– Chuyện gì thế? Vì sao anh lại như thế này?

Satish nhìn tôi, thật ra anh vẫn còn rất tỉnh táo:

– Mukunda, lần này thì tôi không sao qua khỏi được rồi.

Tôi cố gặng hỏi:

– Nhưng anh đã gặp chuyện gì thế?

Anh nói dằn từng tiếng một:

– Tôi sắp bị đuổi việc, và còn có thể vào tù nữa.

Phải vất vả lắm tôi mới hiểu được toàn bộ câu chuyện, vì anh chỉ nói rời rạc từng đoạn ngắn. Nguyên là anh đã gặp rắc rối to trong một báo cáo về tài chánh. Một trong những cộng sự dưới quyền anh đã vô tình hay cố ý làm sai lệch một số tiền khá lớn. Lẽ ra anh phải là người phát hiện, nhưng anh đã sơ sót không phát hiện ra và để nguyên sai sót ấy báo lên cấp trên. Sự việc được phát hiện và người ta quy cho anh tội cố ý gian lận. Anh có ba ngày để cứu vãn tình hình bằng cách tìm ra chỗ sai lệch trong các báo cáo của cấp dưới. Trong trường hợp đó, anh chỉ phải chịu kỷ luật vì tội tắc trách, thay vì là tội cố ý gian lận. Thêm nữa, nếu số tiền sai lệch đã bị tẩu tán và anh không vạch rõ được thủ phạm, chính anh sẽ phải chịu đền bù hoặc bị kiện ra tòa. Anh đã cố gắng trong hai ngày qua nhưng hoàn toàn vô ích. Trong những con số phức tạp chằng chịt, với một tâm trạng rối bời, anh đã không tìm ra được sai sót nằm ở nơi nào. Và ngày mai là hạn chót để anh giải trình với cấp trên.

Vấn đề không chỉ là chuyện mất việc, mà còn là sự tổn thương danh dự nếu như anh không vạch trần được kẻ cố ý gian lận trong vụ này.

Sau khi nghe xong câu chuyện, tôi nói với Satish:

– Hiện giờ chưa thể làm gì được cả. Nhưng chúng ta vẫn còn một ngày mai. Nếu anh có một đức tin vững chắc, tôi tin là anh sẽ vượt qua chuyện này.

Satish thở dài thật não nuột:

– Tôi không nghĩ là đức tin lại có thể làm được gì trong chuyện này. Hơn nữa, xưa nay tôi vốn chưa từng có đức tin.

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi sẽ cố gắng giúp anh trong chuyện này, và cũng để chứng tỏ cho anh thấy là đức tin có thể giúp con người làm nên mọi việc, kể cả những việc khó làm nhất.

Đêm hôm đó, sau khi từ nhà chị Roma về, tôi suy nghĩ và cảm thấy dường như đây chính là cơ hội mà sư phụ Śrỵ Yukteswar đã dự báo trước. Vì thế, tôi quyết tâm sẽ làm được điều cực kỳ khó khăn này để chứng tỏ cho Satish thấy là anh ta sẽ không thể sống tốt đẹp nếu như không có đức tin.

Sáng hôm sau, tôi đến nhà chị Roma thật sớm. Satish đang ngồi trầm ngâm hút thuốc lá, khuôn mặt bơ phờ có vẻ như cả đêm qua anh ta đã không ngủ được vì lo lắng.

Tôi dùng một tách trà do chị Roma mang đến rồi nói với Satish:

– Về chuyện này, tôi không giỏi lắm. Tuy tôi đã có học qua ít nhiều ở trường, nhưng chắc chắn không phải là một nhân viên chuyên nghiệp như anh. Tuy nhiên, tôi cho rằng tôi có một đức tin chắc chắn và tôi đã cầu nguyện để đạt được thành công trong việc này. Vì thế, tôi sẽ cố gắng giúp anh vạch mặt kẻ xấu.

Satish nói:

– Mukunda, nói thật lòng là tôi không sao tin nổi việc chú sẽ làm được. Nhưng nếu đức tin của chú có thể giúp chú làm được chuyện này, tôi xin thề là rồi tôi cũng sẽ có một đức tin không kém gì chú hôm nay.

Tôi có cảm giác chính lời nói này của Satish là mục tiêu tôi đang nhắm đến chứ không phải là đống giấy tờ sổ sách rối tung của anh.

Không trả lời anh ta, tôi lặng lẽ bắt đầu ngồi vào bàn giấy và tập trung toàn bộ tư tưởng của mình vào công việc. Bỗng dưng tôi cảm thấy đầu óc mình hết sức sáng suốt, minh mẫn hơn bao giờ hết. Với sự phụ giúp của Satish, tôi kiên nhẫn dò tìm trong đống sổ sách những chỗ đáng nghi từng điểm một và đối chiếu tổng quát với nhau một cách thật khoa học.

Sau bữa cơm trưa, công việc lại tiếp tục chừng một giờ đồng hồ thì tôi bắt đầu tìm ra manh mối. Satish mừng rỡ lộ rõ ra mặt. Chúng tôi phăng dần ra và hai giờ sau nữa thì đã có thể giải thích rõ ràng về khoản tiền chênh lệch.

Vấn đề xuất phát từ sự gian lận cố ý của một người chịu trách nhiệm thu tiền cho công ty của anh ở các tỉnh miền Bắc. Người này đã cố tình sửa đổi các số liệu một cách tinh vi và giữ lại số tiền tương ứng thay vì nộp đủ cho công ty. Sự việc được tiến hành khéo léo và chia đều trong các báo cáo nộp tiền của anh ta nên rất khó phát hiện.

Sau khi Satish giải trình rõ được sự việc với cấp trên, kẻ gian lận đã bị vạch mặt và phải trả đủ số tiền cho công ty cùng với một khoản bồi hoàn những thiệt hại do sự gian lận của anh ta gây ra và tất nhiên là bị đuổi việc.

Do công ty đã thu hồi được số tiền gian lận, và xét thấy anh hoàn toàn vô tội, Satish chỉ bị khiển trách nhẹ và không phải bị buộc thôi việc. Tuy nhiên, chỉ riêng việc này có vẻ như cũng đã là một chuyện ít khi xảy ra đối với một nhân viên kế toán cao cấp mắc sai phạm.

Satish không quên lời đã nói. Khoảng một tuần sau thì chị Roma rất sung sướng đến thông báo mời tôi cùng tham gia một chuyến viếng thăm điện thờ đức Quán Thế Âm ở Dakshineswar do chính Satish đề nghị. Tôi vui vẻ nhận lời.

Chuyến đi kéo dài một ngày với bữa cơm chay vui vẻ tại chùa. Satish đã dành khá nhiều thời gian để trao đổi và tìm hiểu về những kinh nghiệm tâm linh mà tôi đã thực sự trải qua. Anh lấy làm hứng thú với những câu chuyện kể của tôi và tự cho rằng mình quả thật rất dại dột vì đã bỏ phí đi một thời gian dài không tìm hiểu về tín ngưỡng. Khi về đến nhà, anh đề nghị tôi cho anh một cái hẹn và giới thiệu để anh được tiếp chuyện với sư phụ Śrỵ Yukteswar.

Câu chuyện cải hối của người anh rể tôi kết thúc tốt đẹp. Bởi vì nhiều năm sau, khi tôi từ xa trở về thăm lại gia đình anh chị, anh đã trở thành một người sùng tín và thực hành thiền tọa tại nhà rất tinh tấn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3782)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3038)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2856)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2708)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3101)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2512)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4085)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3115)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3247)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]