Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương II: Những quyền năng kỳ bí

10/03/201105:29(Xem: 7854)
Chương II: Những quyền năng kỳ bí

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG II: NHỮNG QUYỀN NĂNG KỲ BÍ

Một ngày kia, tôi trịnh trọng mang lên phòng sư phụ sáu cây bông cải do tôi trồng được ở khoảng vườn phía sau đạo viện.

– Bạch thầy, chính tay con đã chăm bón luống bông cải này, và đây là những cây tốt nhất con đã chọn ra để thành kính dâng lên thầy.

Sư phụ nhìn tôi cười hiền hòa:

– Ta cảm ơn thành ý của con. Có lẽ bản thân ta cũng sẽ không dùng hết những cây bông cải này, nhưng ta rất cần đến chúng trong vài ngày nữa để nấu một bữa cơm đãi khách. Vì thế, món quà tặng này của con là vô cùng giá trị. Nhưng tạm thời con hãy thay ta cất giữ cho đến lúc đó.

Tôi vâng lời sư phụ, mang những cây bông cải về phòng và xếp kỹ lưỡng vào một góc, dùng một tấm bìa cứng để che phía bên ngoài.

Sáng hôm sau, sau giờ điểm tâm sư phụ gọi tất cả chúng tôi đến và nói:

– Hôm nay là một ngày đẹp trời, ta muốn cùng tất cả các con đi dạo ra bờ sông. Trong không khí thoáng mát ở đó, ta sẽ có một vài chuyện trao đổi cùng các con.

Theo thông lệ, chúng tôi hiểu là sư phụ đang có ý định giảng giải với tất cả chúng tôi về một đề tài quan trọng chung nào đó. Vì nếu không như thế, người thường chỉ dành thời gian để chỉ dạy riêng cho mỗi người mà thôi. Vì thế, chúng tôi hối hả thu xếp và tập trung đầy đủ ở cổng đạo viện chỉ trong chốc lát.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar đi trước, chúng tôi xếp thành hai hàng theo sau người. Chúng tôi cùng thong thả tiến bước ra bờ sông.

Vừa được một quãng ngắn, sư phụ bỗng dừng chân và đưa mắt tìm tôi. Người gọi:

– Mukunda!

Tôi đáp lời thầy và bước ra khỏi hàng, tiến nhanh đến bên sư phụ. Thầy nhìn tôi nghiêm nghị:

– Dường như con đã quên đóng cổng sau của đạo viện?

Tôi đáp ngay mà không kịp suy nghĩ:

– Bạch thầy, con không quên đâu ạ.

Sư phụ im lặng. Người nhìn tôi một lúc nữa rồi nhoẻn cười và nói:

– Thật ra là con đã quên. Này con, công phu thiền định không phải chỉ để tỉnh giác trong lúc ngồi thiền, mà cho dù những chuyện nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống con cũng không được quyền xao lãng. Nhất là khi chuyện ấy thuộc về trách nhiệm mà tập thể đã giao phó cho con.

Lúc này tôi mới chịu suy nghĩ kỹ lại và thừa nhận thầy đã nói đúng. Sáng nay, vì quá vội vã đi ra cho kịp với các huynh đệ, tôi đã quên mất việc ra đóng cổng sau của đạo viện. Vì thế tôi im lặng cúi đầu.

Thầy tôi nói tiếp:

– Vì sự bất cẩn này là do nơi con, nên sẽ chỉ một mình con gánh chịu mà thôi.

Rồi sư phụ tiếp tục đi. Chúng tôi im lặng đi theo, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ về câu nói khó hiểu cuối cùng của thầy.

Khu vực chúng tôi ở tuy không mấy khi bị trộm cắp, nhưng thầy đã dạy chúng tôi phải hết sức cẩn thận đề phòng. Thầy thường nói:

– Người tu hành chúng ta không có tài sản riêng. Những gì chúng ta đang sở hữu thật ra chỉ là những gì chúng ta được giao cho gìn giữ. Chúng ta không thể để cho xảy ra bất cứ một sự mất mát nào do tính bất cẩn của mình. Hơn thế nữa, nếu chúng ta tạo điều kiện cho kẻ trộm thực hiện được hành vi trộm cắp, đó là đã gián tiếp khiến cho họ lún sâu vào tội lỗi.

Chính vì vậy, đạo viện chúng tôi xưa nay chưa hề bị kẻ trộm viếng thăm, vì các cổng trước và sau luôn được khóa cẩn thận. Tất cả chúng tôi không ai bảo ai đều lấy làm băn khoăn về lời dự báo của thầy. Tuy chúng tôi không có những tài sản rất quý giá để gợi lòng tham của kẻ trộm, nhưng ít ra thì những vật thực hay dụng cụ cá nhân của mỗi người cũng không dễ được bọn trộm từ chối.

Buổi giảng pháp của thầy vẫn được diễn ra bình thường trên bờ sông. Tuy vậy, riêng tôi không ghi nhớ được bao nhiêu vì luôn ám ảnh bởi việc cổng sau của đạo viện đang bỏ ngõ, mà tất cả huynh đệ thì chẳng còn ai ở nhà cả.

Chúng tôi trở về vào lúc đã gần đến giờ cơm trưa. Khi còn cách đạo viện chừng hơn hai trăm thước, sư phụ bỗng dừng lại, gọi chúng tôi và đưa tay chỉ về phía bên kia cánh đồng trống. Một người đàn ông dáng đi xiêu vẹo đang lần bước theo một con đường mòn, tay xách một cái túi lớn đu đưa theo từng bước chân của ông ta mà chúng tôi không sao nhận rõ được. Sư phụ nói:

– Ông ta vừa vào đạo viện và trở ra qua lối cổng sau. Vật mà ông ta lấy trộm là một tài sản thuộc về Mukunda. Các con không cần đuổi theo để lấy lại, vì ta cũng có một phần quyền hạn về tài sản ấy, nên ta đã quyết định vui lòng tặng cho ông ta.

Tất cả chúng tôi đều ngơ ngác, không hiểu sư phụ đang nói đến món đồ gì, và càng không hiểu khi kẻ trộm đang đi sờ sờ trước mắt chúng tôi nhưng thầy không cho chúng tôi đuổi bắt.

Về đến đạo viện, tôi lập tức kiểm tra lại phòng mình. Mọi thứ đều nguyên vẹn, ngay cả món giá trị nhất là chiếc đồng hồ trong phòng tôi cũng không bị mất.

Nhưng ... khi tôi nhìn đến góc phòng thì mấy cây bông cải đã không cánh mà bay.

Giờ thì tôi hiểu ra vì sao là tài sản của tôi nhưng sư phụ cũng có quyền quyết định. Bởi vì tôi đã dâng tặng nó cho người. Sự bất cẩn của tôi đã bị trừng phạt vì món quà mà tôi dâng cho sư phụ giờ đây vĩnh viễn không đến được tay người.

Lấy làm ân hận về việc đó, tôi tìm lên phòng thầy để sám hối. Sau đó, tôi đánh bạo hỏi thầy:

– Bạch thầy, chúng con thừa sức đuổi theo kịp tên trộm khi thầy chỉ cho chúng con. Vì sao thầy không cho chúng con làm điều đó?

Sư phụ cười bao dung:

– Con tưởng đó là một tên trộm bình thường hay sao? Thế tại sao hắn ta không lấy gì khác ngoài mấy cây bông cải? Thế tại sao hắn ta lại chọn đi ăn trộm vào khoảng thời gian rất dễ bị bắt gặp?

Tôi ngẩn người ra, suy nghĩ lại và thấy mình quả thật đã ngốc nghếch khi không đặt ra những câu hỏi này ngay từ đầu.

Sư phụ cười xòa và phá tan mọi sự nghi ngờ của tôi:

– Thật ra người ấy chẳng phải là một tên trộm. Đó là một người mất trí vẫn thường đi lang thang ở làng kế bên. Thay vì một bữa cơm đãi khách, ta đã đổi ý và muốn tặng những cây bông cải ấy cho ông ta để ông có được một bữa ăn thịnh soạn nhất từ sáu tháng nay. Giờ này ông ta đã bán những cây bông cải ấy ở chợ và đang dùng cơm với số tiền bán được. Chính ta đã thông báo cho ông ấy biết việc cổng sau đạo viện không khóa và ông ta có thể đi thẳng vào phòng con để lấy mấy cây bông cải. Ta mong rằng đây là một bài học có thể giúp con có cuộc sống tỉnh giác hơn nữa.

Tôi từ biệt sư phụ trở về phòng. Quả thật, càng ngày tôi càng hiểu ra sư phụ là một bậc chứng ngộ đầy quyền năng, nhưng người luôn thể hiện một cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác. Không bao giờ sư phụ bộc lộ những năng lực siêu nhiên của mình mà không vì một mục đích giáo hóa nhất định nào đó.

° ° °

Không bao lâu sau vụ những cây bông cải bị mất, lại một chuyện khác xảy ra làm cho tôi hiểu thêm nhiều hơn về sư phụ.

Một trong những cây đèn dầu hỏa lớn của chúng tôi bị thất lạc. Không ai biết nó ở đâu. Vào thời đó, một cây đèn dầu hỏa như thế là một tài sản rất giá trị, vì chỉ những nhà giàu có mới mua nổi.

Sau chuyện những cây bông cải, anh em chúng tôi không ai còn lo lắng về vụ mất mát này. Chúng tôi cho rằng sư phụ thừa sức biết được cây đèn dầu hỏa này đang nằm ở đâu.

Sư phụ hiểu được ý nghĩ đó của mọi người. Người tập trung anh em lại và tra hỏi kỹ lưỡng. Một người thú nhận là đã dùng cây đèn dầu để soi đường đi ra giếng nước phía sau. Sư phụ liền nói:

– Vậy thì các con hãy chia nhau đi tìm chung quanh giếng.

Chúng tôi yên chí là sẽ tìm thấy theo lời sư phụ. Nhưng hơn một giờ đồng hồ lục lọi khắp nơi vẫn không ai tìm thấy gì. Khi ấy, một đệ tử khác bỗng nhớ ra, liền đến thưa với thầy:

– Bạch thầy, nhưng mới tối hôm qua con còn dùng cây đèn ấy để soi đường đi lấy củi.

Sư phụ liền nói ngay:

– Vậy các con hãy đến tìm chung quanh nhà để củi.

Và thêm một giờ đồng hồ tìm kiếm vô ích nữa. Không ai tìm thấy cây đèn ở đâu cả.

Buổi tối, khi cùng ngồi hóng mát với sư phụ trên sân thượng, tôi hỏi thầy:

– Bạch thầy, lẽ nào thầy không biết cây đèn dầu hỏa ở đâu?

Sư phụ nhìn tôi cười hóm hỉnh:

– Thế con nghĩ tại sao thầy phải biết? Và biết để làm gì kia chứ?

Tôi chợt hiểu ra dụng ý của sư phụ. Năng lực siêu nhiên của người không dùng vào những mục đích nhỏ nhen vụn vặt!

° ° °

Ít lâu sau đó là một ngày lễ hội tôn giáo. Cùng với các đạo viện khác trong vùng, chúng tôi cũng tham gia bằng một cuộc diễu hành dự kiến sẽ đi băng qua thành phố, vòng ra theo bờ sông và trở về đạo viện theo một lối khác.

Sư phụ ủy thác cho tôi việc tổ chức cuộc diễu hành. Tôi sẽ phụ trách tất cả từ việc chuẩn bị cờ xí trang hoàng để mang theo cho đến sắp xếp giờ giấc và hướng dẫn lộ trình cho các anh em trong đoàn.

Sau khi đã hoàn tất mọi việc, tôi lên phòng tìm gặp sư phụ:

– Bạch thầy, con còn một điều chưa hiểu.

Sư phụ nhìn tôi với ánh mắt từ hòa:

– Con cứ hỏi.

– Bạch thầy, theo ý thầy thì trên lộ trình của đoàn diễu hành chúng con sẽ đi một đoạn khá dài trên bãi cát ven sông. Nhưng sau khi băng ngang qua thành phố, chúng con sẽ đến đó ít nhất cũng là gần trưa. Với nhiệt độ nóng bức của mùa này, bãi cát sẽ nóng bỏng, mà theo lễ phục tu sĩ của chúng con thì mọi người đều đi chân trần. Như vậy làm sao có thể chịu đựng qua khỏi bãi cát được?

Sư phụ đáp:

– Thầy đã có nghĩ đến chuyện ấy rồi. Như vậy con có thể yên tâm.

Rồi thầy không nói gì thêm nữa. Tôi không còn cách nào khác hơn là đặt niềm tin hoàn toàn vào lời thầy.

Buổi sáng hôm khởi đầu cuộc lễ, trời xanh ngắt không một chút mây. Nhưng khi vừa đi được khoảng một nửa đường băng ngang thành phố, chúng tôi nhìn thấy xa xa phía bờ sông bắt đầu nổi lên vài đám mây đen kịt. Khi chúng tôi ra đến bờ sông, không khí mát dịu và mặt cát hãy còn sũng nước, rõ ràng là ở đây vừa có một cơn mưa. Hơn thế nữa, những cụm mây trắng như còn đọng lại trên nền trời và là đà bay theo để thỉnh thoảng lại che mát cho chúng tôi. Nhờ đó, đoàn diễu hành với những cờ xí trang hoàng rườm rà đã đi suốt hết đoạn đường theo dự tính mà không mệt mỏi lắm.

Tôi không thể hiểu sự việc theo cách nào khác hơn là chính thầy tôi bằng cách nào đó đã tạo ra được cơn mưa và những đám mây bất ngờ che mát cho chúng tôi.

Khi tôi đem việc ấy nói với sư phụ, người cười nhẹ và bảo tôi:

– Một ngày nào đó rồi con sẽ hiểu được mọi việc. Khi ấy con sẽ thấy thật ra thì thiên nhiên và con người không hề xa cách nhau như người ta vẫn tưởng.

° ° °

Cuộc diễu hành chỉ là phần mở đầu cho cuộc lễ của chúng tôi, bởi vì buổi chiều hôm đó đạo viện còn phải đón tiếp đến hàng trăm quan khách cũng như những môn đệ cũ của thầy tôi từ khắp nơi quay về.

Tất cả anh em chúng tôi đều bận rộn tíu tít để lo cho mọi việc được chu toàn. Tuy thức ăn cũng chỉ đơn sơ với các món rau đậu và bánh hấp, nhưng vì số lượng rất đông nên việc phục vụ không phải là nhẹ nhàng. Đến chiều tối, khi chén bát đã được dọn rửa và một số anh em đang chia nhau quét dọn sân bãi, sư phụ cho gọi tôi đến và nói:

– Thầy rất hài lòng về tinh thần làm việc cũng như những gì con đã thực sự làm được trong thời gian chuẩn bị, và nhất là trong ngày hôm nay. Đêm nay con có thể ngủ lại cùng phòng với thầy. Thầy có chút việc sẽ cần đến con.

Tôi vô cùng sung sướng khi nghe sư phụ nói như vậy. Được ngủ lại phòng thầy cũng có nghĩa là sẽ có mấy tiếng đồng hồ tọa thiền gần bên thầy, và đây là một kinh nghiệm mà không một môn đồ nào lại không hết lòng ao ước. Nói cách khác, đây là một vinh dự mà không mấy khi một vị tôn sư ban cho đệ tử của mình. Vì thế, mặc dù đã vô cùng mệt mỏi vì sự gắng sức trong những ngày qua, nhưng tôi bỗng thấy hết sức phấn chấn và bao nhiêu sự mệt nhọc bỗng chốc đều tiêu tan.

Tối hôm đó, sau giờ tọa thiền, tôi ngả lưng nằm xuống vào khoảng đã gần nửa đêm. Tôi thấy thầy tôi lặng lẽ đứng dậy và mặc áo dài, chuẩn bị đi ra ngoài.

Lấy làm ngạc nhiên, tôi ngồi dậy thưa hỏi:

– Bạch thầy, con không hiểu thầy phải đi đâu vào giờ này?

– Có một nhóm đệ tử bị trễ tàu và lát nữa họ sẽ đến đây. Ta muốn chuẩn bị vài món thức ăn cho bọn họ.

Tôi lấy làm hoang mang, có ai lại đến thăm đạo viện vào lúc đã gần một giờ sáng kia chứ? Dù tôi biết là không nên nghi ngờ lời thầy, nhưng quả thật tôi cảm thấy khó mà tin được trong trường hợp này. Vì vậy, tôi nhổm dậy và mặc áo đi theo. Sư phụ nói:

– Con có thể nghỉ ngơi. Ta sẽ tự làm bếp. Hôm nay con đã làm quá nhiều việc và ta biết con đang rất mệt.

Sư phụ đã hoàn toàn nói đúng, nhưng có điều gì đó còn hơn cả sự nhọc mệt khiến cho tôi không thể nằm yên trở lại. Đó là sự nôn nao muốn biết xem lần này có quả thật thầy đã dự báo đúng hay chăng. Vì thế, tôi nói:

– Bạch thầy, con có thể giúp thầy một tay cho nhanh hơn.

Chúng tôi cùng vào bếp, và tôi lấy làm ngạc nhiên thấy rằng thầy tôi là một tay làm bếp hết sức nhanh lẹ và vén khéo. Chỉ trong chốc lát, chúng tôi đã nấu xong cơm nóng, canh rau và vài món đậu xào rất thơm ngon.

Sư phụ xoa đầu tôi và nói:

– Đêm nay con đã vượt qua được giới hạn của sự mệt mỏi và vui vẻ thực hiện một công việc bất ngờ. Từ nay về sau thầy có thể yên tâm là con sẽ đủ sức chịu đựng mọi khó nhọc trên con đường tu tập và hoằng pháp.

Khi thầy vừa nói dứt câu này thì tôi nghe có tiếng chân người ngoài sân. Sư huynh trực đêm vừa mở cổng đạo viện và đưa vào một nhóm môn đệ cũ của thầy!

Tôi xuống cầu thang và tiếp đón những vị khách muộn màng này. Một người trong bọn nói:

– Sư huynh không cần thông báo với sư phụ vào giờ khuya khoắt này. Chúng tôi quả thật lấy làm bối rối đã quấy rầy quý huynh, nhưng chúng tôi bị trễ tàu và không đến kịp cuộc lễ ngày hôm nay.

Tôi mỉm cười trấn an cả nhóm:

– Các sư huynh không cần lo lắng. Sư phụ đã biết trước việc trễ tàu của các vị và đã tự tay nấu mấy món ăn để chờ sẵn.

Tất cả đều lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng họ không thể nghi ngờ chút nào nữa khi tôi đưa họ vào phòng ăn với thức ăn nóng hổi rõ ràng là vừa mới được nấu xong.

Khi các vị khách đã dùng cơm xong và được hướng dẫn đi nghỉ, tôi trở lại phòng sư phụ. Người nhìn tôi, cười nhẹ và nói:

– Điều duy nhất hôm nay thầy có thể chưa hoàn toàn hài lòng về con là con đã có chút nghi ngờ khi nghe thầy thông báo một việc mà con cho là rất khó xảy ra.

Tôi lặng thinh cúi đầu nhận lỗi. Thầy nói tiếp, giọng vui vẻ:

– Tuy nhiên, đó cũng là việc rất bình thường. Một đệ tử thường chỉ đặt niềm tin hoàn toàn vào bậc thầy khi họ đã đạt được sự chứng ngộ giống như thầy, tuy rằng như thế quả thật là có phần muộn màng.

Tôi lặng thinh ghi nhớ lời thầy và tự hứa sẽ không còn bao giờ dám nghi ngờ lời nói của thầy một lần nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4767)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6758)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4939)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10195)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3688)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4912)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5114)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7946)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4307)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13602)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]