Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Nước mắt mẹ hiền

09/03/201108:46(Xem: 6115)
9. Nước mắt mẹ hiền

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Nước mắt mẹ hiền

Nắng chiều trải vàng trên căn nhà mới dựng ở bãi biển thành Ba-la-nại. Đó là nhà của một người lái buôn giàu có. Hơn mười năm nay, anh ta đã bao lần lênh đênh trên biển cả, tìm đến những bến bờ xa lạ của các nước A Rập, tiếp xúc với nhiều dân tộc hiền lành cũng như hung dữ. Sau mỗi chuyến đi anh ta được lãi rất nhiều. Rồi anh trở thành một trong những người nhiều của cải nhất.

Vợ anh là một người đảm đang. Mắt nàng luôn ẩn chứa vẻ lo buồn. Và ngày về của chồng với bao món đồ quí giá vẫn không làm cho nàng vui lên, vì cái viễn ảnh của ngày ra đi, của cuộc chia ly sắp đến.

Hai vợ chồng sanh được một đứa con trai. Nàng đặt cho nó cái tên thật dài là Métracanyaca. Đứa bé đem lại cho nàng những nỗi khuây khỏa trong lúc xa chồng.

Métracanyaca đã lên sáu. Một đêm về mùa đông, nàng thao thức không ngủ được vì sắp đến ngày cha của Métracanyaca về. Đến gần sáng, trời bỗng trở gió. Gió càng lúc càng mạnh. Tiếng gió bể ầm ầm. Những nỗi lo ngại như nhiều lần trước trỗi dậy. Mãi đến chiều đoàn thuyền vẫn chưa thấy về. Người ta ra bãi ngóng trông.

Đến gần tối, một chiếc thuyền buồm xuất hiện. Trong số hàng chục chiếc ra đi chỉ có một chiếc trở về, và chiếc đó không phải là thuyền của chồng nàng. Người ta báo cho nàng cái tin hung dữ. Thuyền của chồng nàng bị đánh đắm. Nàng ngất đi, sự đau đớn lớn lao nhất của đời nàng ghi mãi nét buồn trên gương mặt. Và tất cả hi vọng còn lại nàng dồn cả vào cuộc đời của Métracanyaca.

Métra lớn lên khoẻ mạnh hơn người. Mắt cậu ta long lanh đen nháy, luôn luôn nhìn thẳng ra xa mơ ước một cuộc đời phiêu bạc. Nàng đã đoán trước được điều ấy nên tìm hết cách khuyên bảo con. Đôi lúc Métra hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Cha con thuở trước làm nghề gì?”. Câu hỏi đó đã làm nàng nhiều đêm không ngủ yên. Nàng thấy lại nỗi đau xót của mình trong buổi chiều đông năm xưa. Nàng nói dối con: “Cha con ngày trước làm nghề đi buôn trong nước.” Métra liền nuôi mộng đi buôn trong nước.

Năm năm sau, Métra trở thành một thanh niên cứng cỏi và đi buôn trong nước. Trong chuyến buôn đầu tiên, Métra lời được bốn đồng. Đó là một thành công lớn đối với kẻ còn thiếu kinh nghiệm như anh ta. Anh ta mang cả bốn đồng về cho mẹ và đề nghị mẹ cúng dường, giúp đỡ các vị sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ và hành khất. Người mẹ tưởng rằng con trai mình đã an phận và thích việc buôn bán ấy rồi.

Nhưng một hôm Métra trở về vẻ mặt buồn rười rượi. Anh ta muốn đổi nghề vì nghe người ta nói cha anh ngày trước làm nghề bán dầu thơm. Người mẹ đành chiều ý anh ta. Ngày hôm sau Métra mở một hàng quán trong thành phố. Lần này khá hơn lần trước, anh ta lãi được tám đồng. Nhưng cái nghề bán dầu thơm tầm thường nọ không làm anh ta hứng thú chút nào. Lại có người bảo cha anh ta trước kia làm nghề bán nữ trang. Thế là anh ta mang tám đồng về cho mẹ với ý định bỏ nghề bán dầu thơm.

Métra chuyển sang nghề bán nữ trang. Anh buôn bán thuận lợi và cạnh tranh được với những tiệm vàng lớn trong thành phố. Tháng đầu tiên anh lãi được mười sáu đồng. Tháng tiếp theo được ba mươi hai đồng. Thật là những món tiền to lớn. Métra mang về cho mẹ và cũng yêu cầu mẹ làm các việc công đức như những lần trước. Nhưng nghề này giữ chân Métra một chỗ và anh ta thấy bực bội. Sự hoạt động của anh ta bị bó hẹp, tầm mắt bị giới hạn. Rồi có một chủ tiệm vàng đến nói với hắn: “Sao anh không làm nghề đi biển như thân phụ anh ngày trước mà lại đi làm nghề buôn bán nữ trang hèn mọn tù túng này.” Métra bị kích thích đúng chỗ. Vậy là ngay hôm sau, Métra bán tất cả cửa hiệu nữ trang để được một số vốn lớn. Bể khơi với sóng gió ngàn trùng, với các bến bờ xa lạ kêu gọi anh ta. Anh ta đã nhất quyết rồi, liền về nói với mẹ: “Thưa mẹ có phải cha con trước kia làm nghề đi biển không? Xin mẹ cho con nối nghiệp cha đi buôn ngoài biển cả.”

Người mẹ sửng sốt. Bà đã cảm thấy trước điều mong muốn của con. Bà đã để ý đến cái nhìn đăm đăm của nó ra tận bể khơi như cố tìm đến bên kia bờ đại dương. Bà đã để ý con say sưa thèm thuồng cuộc đời của những thủy thủ trên các thuyền buồm từ xa đến. Bà cũng muốn cho con thỏa nguyện, nhưng hình ảnh của cuộc ra đi không ngày về của người cha Métra ngày nào đã thúc giục bà phải tìm mọi cách ngăn cản con: “Phải, Métra ạ! Cha con trước đây làm nghề đi biển, nhưng đã gặp nạn chết ngoài bể khơi. Mẹ đã đau khổ lắm rồi. Nay mẹ chỉ có mình con, con nỡ nào bỏ mẹ đi ra góc bể chân trời. Mẹ sẽ khô héo mà chết mất.”

Métra tuy cảm động nhưng lòng chàng đã quyết. Chiều hôm ấy, anh cho người đánh chuông rao khắp kinh thành Ba-la-nại: “Hỡi các thương gia đáng tôn kính! Métra sắp đi buôn xa, vậy ai muốn đưa hàng ra hải ngoại thì cứ đi chung với người”.

Người mẹ Métra khuyên can rất nhiều, nhưng anh ta vẫn không đổi ý định. Đến ngày ra đi, có năm trăm lái buôn cùng đi chuyến này với anh ta. Bà mẹ quá thương con, nhớ cảnh ra đi giống hệt như cảnh ra đi của người cha ngày trước làm bà vô cùng đau xót. Bà ngã nhào xuống ôm lấy chân con mà khóc. Mọi người đều cảm động, Métra ngồi xuống một lát, nhưng rồi anh ta đứng dậy, rút mạnh chân ra và dứt khoát bước qua đầu người mẹ để đi thẳng xuống thuyền không ngoái nhìn lại. Người mẹ chậm chạp ngồi dậy và nói qua làn nước mắt: “Con ơi! Mẹ cầu cho con tai qua nạn khỏi. Mẹ cầu cho con không phải bị quả báo vì đã bước ngang qua đầu mẹ, con ơi!”

Đoàn thuyền vượt sóng đã ba ngày dài, đến ngày thứ tư bầu trời bỗng nhiên thay đổi đột ngột rồi nổi gió mạnh. Gió cuộn từng hồi báo trước một cơn bão lớn. Mọi người lo ngại và cố sức chống chọi. Nhưng chuyện phải đến đã đến. Cơn bão to đánh tan cả đoàn thuyền.

Métra bám trên một tấm ván và may mắn trôi dạt vào một bờ biển xa lạ. Anh ta dần dần hồi tưởng lại và đi đến một thành phố. Đây là thành Ramana. Anh chàng thanh niên của kinh thành Ba-la-nại được người ta niềm nở tiếp đón. Có bốn nàng tiên đẹp đẽ đến chào anh, trước ngực mỗi nàng đều lấp lánh một đồng tiền vàng giống như đồng tiền vàng anh đã mang về cho mẹ ngày trước. Các nàng tiên nói với hắn: “Chào chàng Métra, đây là đền đài của các em. Đây là tất cả sự khoái lạc ở đời. Chàng vào đây chung vui với chúng em.” Métra nhận lời. Anh ta sống đầy đủ về mặt vật chất nhờ những phước đức đã làm ngày trước, nhưng hình như có một nguyên do vô hình thúc đẩy anh ra đi tìm xuống phía nam. Anh đến thành Sadamaham. Có tám nàng tiên trẻ đẹp đến chào đón. Trước ngực mỗi nàng lấp lánh một đồng tiền vàng giống như đồng tiền vàng anh đã mang về cho mẹ ngày trước. Các nàng tiên cũng nói với anh ta những lời dịu dàng như những nàng trước. Anh cũng nhận lời ở lại đây và cũng được sống đầy đủ về vật chất nhờ những phước đức đã làm ngày trước. Nhưng rồi sau anh lại ra đi, tiếp tục tìm xuống phía nam.

Métra đến thành Nandana. Mười sáu nàng tiên xinh đẹp lại đến chào đón. Trước ngực mỗi nàng cũng lấp lánh một đồng tiền vàng giống như đồng tiền vàng anh đã mang về cho mẹ ngày trước. Các nàng dịu dàng mời anh ta ở lại và chăm sóc như những nàng tiên trước đó. Métra đã sống đầy đủ về vật chất nhờ những phước đức đã làm ngày trước. Nhưng rồi anh cũng lại ra đi về phía nam.

Métra đến thành Brahmottora. Ba mươi hai nàng tiên xinh đẹp chào đón anh ta. Trước ngực mỗi nàng lấp lánh một đồng tiền vàng giống như đồng tiền vàng anh đã mang về cho mẹ ngày trước. Anh được mời ở lại hưởng khoái lạc trong thành. Đến đây, nhiều điều đã làm cho Métra suy nghĩ. Tại sao một kẻ có tội với mẹ như anh ta lại được hưởng những điều sung sướng như đã qua? Phải chăng đó là do ngày trước anh đã mang về những món tiền bốn đồng, tám đồng, mười sáu đồng, và ba mươi hai đồng cho mẹ để làm những việc thiện cao quý? Nhưng sự sung sướng được hưởng đối với anh ta đã quá nhiều rồi. Anh cảm thấy không thể ở lại đây được nữa. Métra lại muốn ra đi xuống phía nam, mặc dù các nàng tiên hết sức khuyên can.

Lần này Métra đi thật xa. Anh đến một bức thành bằng sắt. Khi anh đi vào thành thì cửa thành đóng lại. Anh vẫn cứ đi và không mấy chốc thì gặp một người to lớn, trên đầu đội một vành sắt cháy đỏ, lửa phun hừng hực. Máu mủ trên đầu người ấy chảy tràn xuống miệng, người ấy liếm hết tất cả. Métra đến gần và hỏi:

– Ông là ai? Tại sao lại bị hình phạt đau đớn khổ sở như thế này?

Người ấy nén đau xót, ngẩng nhìn Métra một lát rồi trả lời:

– Tôi là người đã làm cho mẹ tôi đau khổ, nên tôi phải gánh lấy quả báo như thế này. Tôi sẽ chịu quả báo này mãi cho đến khi có một người khác đã tạo nghiệp ác làm mẹ đau khổ đi ngang qua đây và thay thế cho tôi.

Hành động tội lỗi đã làm với người mẹ hiện lên rõ ràng trong tâm trí của Métra. Anh ta đã bước ngang qua đầu mẹ. Đứa con bất hiếu đó đang đứng đây và đáng nhận những hình phạt nặng nề nhất. Métra vừa nghĩ như thế thì vành lửa nóng đã bay sang chụp lên đầu chàng. Métra nhìn người kia, bây giờ đã khỏe mạnh, vết thương trên đầu đã lành hẳn. Métra hỏi:

– Tôi phải chịu vòng lửa này trong bao lâu?

Người kia đáp:

– Anh phải chịu hình phạt này đời đời kiếp kiếp, cho đến khi có người phạm tội đã làm mẹ đau khổ như anh đến thay thế.

Métra cảm thấy đau đớn vô cùng. Lửa cháy từng mảnh thịt, mặt như bị cắt xé ra từng mảnh, từng đường gân máu và tê liệt từng chỗ. Tuy vậy Métra vẫn bằng lòng với hình phạt mình đã chịu. Chàng nghĩ rằng: “Lại sẽ có người phạm tội với mẹ để đến chịu thay ta sao? Không nên như thế! Nguyện cho đừng có ai sanh tâm làm mẹ mình đau khổ, đừng ai làm cho nước mắt mẹ mình phải tuôn chảy vì mình.”

Rồi Métracanyana phát lời nguyện rằng: “Tôi xin nguyện đội vành sắt nóng này mãi mãi, xin chịu nỗi đau khổ này thay cho tất cả chúng sanh”.

Lời phát nguyện của Métracanyaca chứa chan tình yêu thương rộng lớn vô cùng. Lời phát nguyện chân thành ấy ngay lập tức đã giải thoát Métra khỏi vòng tội lỗi, và vòng lửa bỗng rời khỏi đầu Métra bay lên hư không trả lại cho Métra đời sống an lành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8436)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
21/03/2017(Xem: 5686)
Đây là một tập bút ký, ghi lại cảm nghĩ của tác giả từ các nơi chốn tùng lâm ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam. Không hề có một so sánh hay đánh giá ở đây, tất cả đều trình hiện như nó chính là nó. Chúng ta cũng vui đọc theo chân người đi, đôi lúc mình cũng là người đang đi như thế. Chiều thu muộn hay sáng hồng rực rỡ, một viên sỏi trong vườn thiền cũng chiếu rọi ánh tuyết lấp lánh. Tách trà xưa và nay cùng nâng lên để kỷ niệm giây phút tao phùng.
20/03/2017(Xem: 5259)
Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat. Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.
20/03/2017(Xem: 5473)
Cuộc sống của chúng ta có những lúc cần phải suy gẫm về ý nghĩa về đạo lý làm người. Ngày xưa có một người gánh nước, mang trên vai hai chiếc bình. Trong hai bình ấy có một bình bị vết nứt, còn bình kia thì nguyên vẹn. Suốt một chặng đường dài từ nơi mé sông về nhà, chiếc bình nứt chỉ còn một nửa. Thời gian đã tròn ba năm, ngày nào cũng vậy, người gánh nước chỉ mang về đến nhà chỉ có một bình rưỡi nước.
28/02/2017(Xem: 12883)
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
24/02/2017(Xem: 4041)
Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà như
23/02/2017(Xem: 4634)
Họ đã kết hôn được 78 năm, người chồng 103 tuổi, người vợ 100 tuổi, họ vẫn ở bên nhau suốt ngần ấy năm tháng, mạnh khỏe và hạnh phúc. Trong ngày Valentine năm nay, câu chuyện về họ được biết tới, chia sẻ và gây cảm động.
22/02/2017(Xem: 37182)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA CON TRAI CỦA TÔI (DALAI LAMA, MY SON) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tác giả: Diki Tsering Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup Việt dịch: Thích Nguyên Tạng Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
05/02/2017(Xem: 4140)
Khi tôi lên giường, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Thông thường vào giờ này, vốn dễ ngủ, không mộng mị, nếu có, chỉ toàn giấc mơ hoa, không bao giờ gặp ác mộng, tôi đã ngáy khò khò; thế mà hôm nay, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Nằm trăn trở trong đêm, tôi lắng nghe âm thanh của đêm. Sài Gòn giờ này đã trả lại sự yên vắng cho nó. Không còn tiếng rao hàng, không còn tiếng người qua lại, không còn tiếng xe cộ? Lâu lắm mới có chiếc Honda xẹt ngang của vị nào đi chơi khuya về.
03/02/2017(Xem: 3870)
Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ thêm lộng lẫy đẩy lùi tất cả vào dĩ vãng trong một ngăn nào đó của bộ nhớ, và tuổi già thường hay hoài niệm những ngày cũ mà ngậm ngùi nuối tiếc. Tuổi già đối với những người khác không biết thế nào nhưng riêng tôi lại thích tham dự những buổi họp mặt với bạn bè cũ, gặp lại nhau biết bao mừng vui tràn ngập cả tâm tư. Tôi lại định cư tại một nước xa xôi lạnh lẽo, bạn bè ngày xưa không có, thành ra tôi cứ ao ước được bay đến những vùng trời khác. Nơi đó có những người bạn thời trung học thật tuyệt vời, là niềm an ủi cho mái tóc đã điểm bạc trong cuộc sống cách biệt quê người vạn dặm này. Tôi nhớ lại lần tôi qua Cali dự lễ kỷ niệm 50 năm xa trường. Đêm Đại hội đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ; sự suy nghĩ với nhiều thứ pha trộn nhau. Với tôi, đó cũng là một sự hạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]