Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

99. Hai cậu cháu

04/03/201103:31(Xem: 6101)
99. Hai cậu cháu

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ MƯỜI: CÁC NHÂN DUYÊN KHÁC

HAI CẬU CHÁU

Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có một vị Phạm-chí tên là Điệt-sử, sanh được hai con. Một gái tên là Xá-lỵ và một trai tên là Câu-hi-la.

Câu-hi-la thông minh, uyên bác, mỗi khi luận đàm chẳng ai thắng được. Người chị là Xá-lỵ tuy cũng rất mực thông minh, nhưng khi luận đàm với em thì thường đuối lý, chẳng tranh cãi lại.

Đến khi người chị có thai, bỗng nhiên luận giải sắc bén, Câu-hi-la không lần nào thắng được. Ông liền suy nghĩ rằng: “Chị ta trước giờ luận đàm thường không thắng nổi ta. Nay có thai rồi bỗng nhiên lại thay đổi, tất nhiên là do oai đức của đứa bé này. Nay nó còn trong bào thai mà đã như vậy, mai sau khôn lớn ta làm sao thắng nổi?”

Lòng ông đầy kiêu mạn, nghĩ đến sau này phải thua kém đứa cháu ấy thì không chịu được, liền bỏ nhà đi xuống phương Nam, tìm học tất cả kinh luận. Ông phát lời thề rằng: Chưa trở thành vị luận sư giỏi nhất thì chưa cắt móng tay. Bởi vậy, móng tay ông ngày càng dài ra, liền có biệt danh là Trường Trảo.

Người chị ông là Xá-lỵ sau đó sanh ra một người con trai, đặt tên là Xá-lỵ-phất, hình dung đẹp đẽ, lại thông minh trí tuệ hơn người, học tập các bộ kinh luận đều thông đạt, chẳng mấy ai đối đáp lại nổi.

Ngày kia, trong thành Vương-xá tổ chức một hội lớn, quy tụ hết thảy các vị luận sư để cùng tranh luận với nhau. Nơi hội trường rộng lớn thấy kê bốn chỗ ngồi cao rộng, oai nghiêm. Xá-lỵ-phất năm ấy vừa được 8 tuổi, đến chơi nơi đó, thấy vậy liền hỏi người chung quanh rằng: “Bốn chỗ ngồi cao rộng ấy là dành cho ai vậy?” Người chung quanh đáp: “Chỗ thứ nhất dành cho nhà vua, chỗ thứ hai dành cho thái tử, chỗ thứ ba dành cho đại thần, chỗ thứ tư dành cho người lên tranh luận.”

Xá-lỵ-phất nghe xong liền xăm xăm đi đến, leo lên chỗ ngồi dành cho người tranh luận mà ngồi.

Bấy giờ, các vị Phạm-chí cao niên, luận sư kỳ cựu, thảy đều kinh hoảng. Họ lại suy nghĩ rằng: “Nếu chúng ta ra tranh luận, dù có thắng đứa trẻ này cũng chẳng lấy gì là vinh dự. Bằng như thua, thật là nhục nhã chẳng làm sao nói hết.” Nghĩ vậy rồi, chẳng ai muốn lên, liền sai những người bà-la-môn thuộc hàng thấp kém hơn lên tranh biện. Tất cả liền bị Xá-lỵ-phất bẻ gãy lý luận của từng người, chẳng ai thắng nổi. Dần dần mới đến các vị luận sư kỳ cựu, cũng đều thua hết.

Xá-lỵ-phất từ sau lần tranh luận thắng hết các vị luận sư, liền nổi tiếng khắp mười sáu nước lớn. Ngày kia, lên chơi trên lầu cao, nhìn xuống thấy người xe đi lại xôn xao bên dưới, bỗng nảy ra ý nghĩ rằng: “Đến trăm năm nữa, những người đi lại dưới kia rốt cùng rồi cũng chỉ còn là con số không, liệu có ý nghĩa gì?” Nghĩ như vậy rồi, từ trên lầu đi xuống, liền tìm theo các sư ngoại đạo mà tu học.

Khi ấy, đức Thế Tôn vừa mới thành đạo quả, khắp mười sáu nước lớn đều chưa ai hay biết. Như Lai thương tưởng muốn giáo hóa chúng sanh, liền sai tỳ-kheo A-bệ đến thành Vương-xá khất thực mà hóa đạo. Xá-lỵ-phất nhìn thấy dáng đi oai nghiêm, thanh thản của tỳ-kheo A-bệ, liền cảm nhận được ngay rằng người này đã tìm được một lối sống giải thoát khỏi mọi ràng buộc, nghĩ rằng: “Vị này là ai mà có phong thái ung dung như thế? Ta nên đến chào hỏi xem sao.” Nghĩ rồi liền bước đến hỏi rằng: “Xin hỏi người đã theo học đạo với vị nào? Dạy người những pháp chi mà được ung dung thanh thản như vậy?”

Tỳ-kheo A-bệ đọc kệ đáp rằng:

Các pháp do nhân duyên mà sanh,
Lại cũng do nhân duyên mà diệt.
Thuyết rõ nhân duyên sanh và diệt,
Bậc đại sư soi đường đến giải thoát.

Xá-lỵ-phất nghe kệ, tâm liền khai mở, chứng quả Tu-đà-hoàn.

Khi trở về, người bạn của ông là Mục-kiền-liên thấy vẻ mặt hớn hở khác thường, liền nói rằng: “Tôi với ông trước có lời giao ước: Ai tìm được đạo giải thoát sẽ cùng dẫn đường cho người kia đi. Nay tôi thấy vẻ mặt ông, có thể đoán biết là ông đã tìm được con đường giải thoát rồi. Có đúng vậy chăng?”

Xá-lỵ-phất đáp: “Đúng vậy.” Rồi đọc lại cho Mục-kiền-liên nghe bài kệ của A-bệ ba lần. Mục-kiền-liên nghe xong liền chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hai người đều đã chứng đắc đạo quả, liền tụ tập đồ chúng lại, thuật chuyện cho nghe rồi bảo rằng: “Nay chúng ta đều muốn lên đường đến chỗ Phật mà cầu được xuất gia nhập đạo. Ý các ngươi thế nào?” Chúng đệ tử đều xin đi theo.

Xá-lỵ-phất với Mục-kiền-liên liền dẫn theo 250 người đệ tử, cùng đi theo tỳ-kheo A-bệ đến tinh xá Trúc Lâm. Đến nơi, thấy đức Thế Tôn với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân, oai nghi rực rỡ thù thắng vô cùng, liền sanh lòng hoan hỷ, tín kính, lễ Phật cầu xin xuất gia.

Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Bấy giờ, người cậu của Xá-lỵ-phất là ông Trường Trảo nghe tin Xá-lỵ-phất xuất gia theo Phật, trong lòng tức giận, tự suy nghĩ rằng: “Thằng cháu của ta sanh ra đã thông minh xuất chúng, uyên bác hơn người, các vị luận sư ở mười sáu nước lớn thảy đều kính phục, nay tại sao lại chịu đi theo mà phụng sự lão Cù-đàm?”

Liền từ Nam Thiên Trúc tìm về, đến chỗ Phật mà tranh luận. Trường Trảo đến chỗ Phật rồi, liền nói rằng: “Này ông Cù-đàm, chỗ sở đắc của ta đây là không nhận bất cứ một pháp nào cả.”

Đức Phật liền nói: “Ông không chấp nhận pháp nào cả, như vậy có chấp nhận cách nghĩ như thế đó chăng?”

Trường Trảo giật mình, nhận ra chỗ sơ hở trong lập luận của mình, vì ông nói như thế tức là đã mặc nhiên “chấp nhận việc không chấp nhận”. Để chống đỡ, ông liền nói: “Ta không chấp nhận cả cách nghĩ như thế nữa.”

Phật nói: “Nếu không chấp nhận mọi pháp, cũng không chấp nhận cả cách nghĩ như thế, như vậy ông có khác gì những kẻ phàm phu không hiểu biết? Tại sao phải sanh tâm ngạo mạn mà coi thường hết thảy mọi người như thế?”

Trường Trảo không đáp được, liền khi đó sanh tâm tín phục, kính ngưỡng, quỳ lạy Phật xin được xuất gia nhập đạo. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán.

Chư tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị tỳ-kheo này do nhân duyên gì mà nay có thể xả bỏ tà kiến, quy y theo Phật, được thành đạo quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị Phật Bích-chi ở nơi rừng sâu mà thiền định.

Bấy giờ có 500 tên cướp, cướp được của người rồi muốn trốn vào nơi rừng vắng, mới cử một tên đi trước dò xem trong rừng có người hay chăng. Tên cướp ấy thấy Phật Bích-chi ngồi nơi gốc cây, liền bắt lấy, dùng dây trói lại mang đến chỗ tên đầu đảng. Cả đám đều muốn giết ngài đi.

Khi ấy Phật Bích-chi tự nghĩ rằng: “Nếu để chúng ngu si không biết mà giết hại ta, nghiệp ác đó tất đọa địa ngục chẳng mong ngày thoát. Ta nên hiện thần biến mà thu phục chúng.”

Nghĩ vậy rồi, liền bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa. Bọn cướp nhìn thấy như vậy, tinh thần hoảng hốt, kinh sợ, tức thời quỳ xuống lễ bái cầu xin sám hối tội lỗi. Phật Bích-chi nhận cho sự sám hối đó rồi, liền cùng nhau thiết lễ trọng thể mà cúng dường Phật Bích-chi.

“Nhờ công đức ấy, trong vô số kiếp chẳng còn đọa vào các nẻo dữ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trong cõi trời người thường được hưởng nhiều điều khoái lạc, sung sướng, cho đến nay gặp Phật, xuất gia đắc đạo.”

Phật lại dạy rằng: “Người đầu đảng của bọn cướp lúc ấy, nay là tỳ-kheo Trường Trảo đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 4859)
Mẹo hay Đánh cược với hòa thượng, cậu bé thắng một gánh củi nhưng để mất thứ quý giá gấp nhiều lần
30/03/2018(Xem: 9748)
Ngày xưa có chú nai hiền Nhởn nhơ vui sống giữa miền hoang sơ Trong khu rừng rậm ven bờ Sông Hằng cuồn cuộn sóng mờ nhân gian. Dáng nai đẹp đẽ dịu dàng Sừng trong nước ngọc, thân vàng ánh châu Nhưng mắt nai lắng u sầu Thương cho trần thế nhuốm mầu bi ai, Nai nghe, nói được tiếng người Nai là Bồ Tát một thời hiện thân. Bên nai muông thú quây quần Coi nai như mẹ muôn phần yêu thương
21/03/2018(Xem: 9776)
Tu Viện Quảng Hương Già Lam, thường được công chúng gọi ngắn gọn là Chùa Già Lam, tọa lạc tại quận Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, đây chính là nơi đào tạo tăng tài (cấp đại học) để hoằng dương chánh pháp, phụng sự Phật đạo. Ban đầu, chùa có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam, do lấy tên của một vị học tăng pháp danh Quảng Hương đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Sài Gòn.
16/03/2018(Xem: 15748)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 10318)
Đại hành giả yogi Milarepa sinh trưởng tại tỉnh Gungthang miền Tây Tây Tạng. Ngài là con trai của một chúa đất giàu có tên là Mila Sherab Gyaltsen. Nhưng năm lên bảy tuổi, cha Ngài lâm trọng bệnh và qua đời, trước đó ông đã giao phó toàn bộ gia sản và gửi gắm vợ con mình cho chú thím của Milarepa rồi dặn dò khi nào Milarepa trưởng thành thì chú thím phải trả lại tài sản cho Milarepa và cô em gái. Thế nhưng sau khi cha Ngài mất, người chú và người thím xấu xa tước đoạt toàn bộ gia tài, họ còn bắt ba mẹ con Milarepa phải làm việc như những kẻ nô bộc trên đồng ruộng mà không được trả công. Khi Milarepa lớn lên, chú thím không những không trả lại gia sản mà còn cho rằng đó là phần mà cha Ngài phải trả nợ cho họ. Tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục, mẹ của Milarepa gửi Ngài đi học huyền thuật để trừng phạt những kẻ vong ân bội tín. Chẳng bao lâu sau, Milarepa thành thục quyền năng huyền thuật hủy diệt và trong khi trả thù chú thím, Ngài đã sát hại rất nhiều người vô tội. Vô cùng hối hận t
13/03/2018(Xem: 8882)
Tôi rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật giáo, trên website của Gia đình Mũ đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn & Phụ cận, Trước khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân mình, điều mà rất hiếm khi tôi thường nói đến. Vì tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí gì về võ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, thì khi nói đến ai mà tin. Vì vậy tôi phải nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật giáo sau này.
09/03/2018(Xem: 12214)
Tuy là thầy của Nhật Hoàng Thiền sư vẫn thích lang thang du hành Ngài tuy đã rất nổi danh Vẫn làm khất sĩ dạo quanh khắp vùng. Một hôm ngài chợt tạm ngừng Ghé ngôi làng nhỏ trên đường lãng du Trời chiều tăm tối âm u Mưa rơi tầm tã, gió ru lạnh lùng Thân ngài thấm ướt vô cùng Dép rơm tơi tả muốn bung đứt rồi. Tại ngôi nhà nhỏ ven đồi Thấy vài đôi dép bày nơi cửa ngoài Ngài bèn ghé lại tìm người Hỏi mua dép mới thay đôi cũ này, Một bà ở tại trong đây Biếu ngài đôi dép. Lòng đầy xót xa
01/03/2018(Xem: 9421)
Con người còn sống là còn nhiều chuyện để làm, để nói, và suy nghĩ. Ngay cả sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác. Dù tu chứng đến thành Phật hay Bồ tát thì các ngài vẫn có chuyện để làm, đó là tiếp tục ra vào sinh tử độ sinh, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt nhưng sự sống và dòng đời trôi chảy bất tận.
01/03/2018(Xem: 14658)
Từ lâu Kinh Phật dạy rồi: "Những điều chứa ẩn ở nơi Tâm người Luôn luôn biểu lộ ra ngoài: Tâm như họa sĩ đại tài khéo tay Vẽ muôn hình tượng giống thay, Chúng sanh nên gắng tu ngay Tâm mình!".
04/02/2018(Xem: 5167)
Các trung tâm Bưu điện Úc ( Australia Post – Mail Centre ) có thể nói là nơi dung nạp hay nói đúng hơn là nơi lựa chọn công việc để nương thân của một số những người VN tỵ nạn trong những năm đầu tiên được định cư nơ xứ sở tốt đẹp nầy. Công việc được tuyển dụng vào các trung tâm thư tín nầy là lựa thư ( mails sorting ) và đã được hệ thống Bưu điện Úc gọi cho một cái tên tương đối cũng vui vui là “Mail Officer “ . Việc làm tương đối không có gì cực nhọc, lương bổng cũng tạm hài lòng so với những công việc hiện thời, nhiều over time nên càng có cơ hội để kiếm thêm tiền, công việc vững vàng, ổn định, vì là thuộc diện Job chính phủ, rất hợp cho hoàn cảnh của những người VN tỵ nạn nữa thầy, nữa thợ nơi đây, nói vậy chứ một số lớn người VN làm cho ngành Bưu điện Úc, ngoại trừ một số người có mưu cầu cao hơn, thì cũng ít người bỏ việc nữa chừng, họ đã từ cái job nầy mà được ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao, của rộng, xe cộ xênh xang, đời sống khá vững vàng, đủ điều kiện lo cho con cái ăn học nê
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]