Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Một cuộc thề nguyện

04/03/201103:31(Xem: 6501)
8. Một cuộc thề nguyện

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ NHẤT: BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ

MỘT CUỘC THỀ NGUYỆN

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Tại thành Xá-vệ, có hai vị Phạm-chí, một người tin sâu pháp Phật, thường ca ngợi tán thán công đức của đức Như Lai là cao quý nhất, trong ba cõi chẳng ai bằng được, người kia thì lạc theo tà kiến, tôn sùng các vị sư ngoại đạo như Phú-lan-na..., cho rằng các sư ngoại đạo này là cao quý hơn hết, chẳng ai bằng được.

Người tin theo nhóm ngoại đạo Phú-lan-na bảo rằng: “Các vị thầy như Phú-lan-na có thần lực cao trỗi hơn Phật nhiều.” Người tin theo Phật bảo rằng: “Đức Phật Thế Tôn là đấng giác ngộ hoàn toàn, trọn vẹn, có thần lực cao trỗi nhất.” Hai người chẳng ai nhường ai, tranh cãi mãi không dứt.

Bấy giờ, hai người này tranh cãi nhau rất kịch liệt. Ai cũng cho là mình nói đúng. Có người đem chuyện ấy nói đến tai vua Ba-tư-nặc. Vua liền cho triệu cả hai người đến mà hỏi nguyên do.

Cả hai đều nói rằng vị thầy mà mình tin theo là có thần lực cao trỗi hơn hết. Vua liền phán: “Mỗi người trong các ngươi đều tự cho mình là đúng, không thể phân xử được. Nay ta ra một kỳ hạn là bảy ngày, sẽ lập một hội thề mà thử nghiệm xem ai nói đúng. Nơi hội thề đó, mỗi người sẽ tự đốt hương, dâng hoa và rảy nước mà thỉnh nguyện bậc thầy của mình đến dự hội.”

Hai vị Phạm-chí nghe vua phán rồi đều lui về lo sắm sửa lễ vật hương hoa.

Đúng bảy ngày, vua Ba-tư-nặc truyền tụ họp dân chúng số đông đến muôn ngàn người cùng đến chứng kiến. Khi ấy, trước mặt dân chúng, hai vị Phạm-chí liền cùng nhau lập nguyện mà khấn cùng vị thầy mà mình tin theo.

Vị tin theo các sư ngoại đạo như Phú-lan-na... bước ra trước, đốt hương, tung hoa và rảy nước lên không trung, nguyện rằng: “Nếu quả Phú-lan-na với mấy vị giáo chủ kia là cao hơn hết, thì nguyện cho hoa, hương, với nước này bay đến chỗ các vị, khiến cho các vị được biết ý nguyện của tôi mà đến dự hội này. Nếu như các vị chẳng có thần lực gì, thì khiến cho các hương hoa lễ vật này vẫn ở yên nơi đây.” Người vừa dứt lời thì hoa rơi trên đất, hương tắt lửa và nước đổ xuống đất hết.

Mọi người ai nấy đều chứng kiến như vậy, liền nói với nhau rằng: “Phú-lan-na với mấy ông thầy ngoại đạo kia thật chẳng có thần lực chi cả, lâu nay uổng nhận sự cúng dường của nhân dân trong nước.”

Lúc bấy giờ, vị Phạm-chí tin Phật mới bước ra trước chúng hội, lấy hương hoa và nước sạch mà tung lên không trung, nguyện rằng: “Nếu đấng Như Lai thật có thần lực, xin cho các thứ hương hoa, nước sạch này đều bay đến chỗ của ngài, khiến cho ngài biết được ý nguyện của tôi mà đến dự hội này.” Phát nguyện vừa xong, khói hương liền bay tỏa ra khắp thành Xá-vệ, những hoa mà người tung lên cũng bay lên không trung, hóa thành một cái lọng hoa lớn bay thẳng đến chỗ Phật, che bên trên Phật. Nước rảy lên không trung cũng hóa thành trong suốt như lưu ly mà bay đến rưới xuống trước chỗ Phật. Rồi đức Thế Tôn với chúng tỳ-kheo đều hiện lại trước chúng hội. Bấy giờ mọi người ai ai cũng trông thấy, khen là việc chưa từng có, thảy đều sinh lòng tin sâu nơi Phật pháp, lìa bỏ không còn tin theo các thầy ngoại đạo nữa.

Vị Phạm-chí ấy thấy lời nguyện của mình được thành tựu liền phủ phục lễ bái trước Phật, phát lời nguyện lớn rằng: “Nhờ công đức dâng hương hoa cúng dường hôm nay, trong đời vị lai tôi nguyện sẽ có thể vì những chúng sanh mù lòa mà cứu giúp cho được sáng mắt, vì những chúng sanh chẳng quy y Phật mà độ cho quy y, những chúng sanh không người cứu hộ sẽ được cứu hộ, những chúng sanh không được an ổn sẽ được an ổn, những chúng sanh chưa nhập Niết-bàn sẽ được nhập Niết-bàn.”

Khi vị ấy phát nguyện rồi, đức Phật liền mỉm cười, từ nơi trán, giữa hai lông mày phóng ra một đạo hào quang năm sắc, bay quanh Phật ba vòng rồi lại theo chỗ trên trán Phật mà bay trở vào.

Khi ấy, A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai là đấng tôn quý, chẳng vô cớ mà cười bao giờ. Nay vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải cho được biết.”

Phật bảo A-nan: “Ngươi có nhìn thấy vị Phạm-chí này dâng hương hoa cúng dường ta chăng?” A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”

Phật nói: “Vị Phạm-chí này trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu là Bất Động, hóa độ chúng sanh nhiều vô số. Vì nhân duyên ấy mà ta mỉm cười.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8721)
Ðại sư Lục tổ Huệ Năng, một nhân vật lịch sử đang đi vào huyền thoại. Sự tích của ngài, mặc dù đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen là quyễn kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, thế nhưng, những mẫu chuyện huyền hoặc về cuộc đời ngài, thỉnh thoảng vẫn làm mờ đi phần nào sự thực.
08/04/2013(Xem: 15320)
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ý đến.
08/04/2013(Xem: 16631)
Bộ kinh Bách Dụ gồm 98 bài thí dụ của Phật nói do Ngài Pháp Sư Tăng Gia Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: "Thuốc hay hòa trong đường phèn", "Dùng là gói thuốc A Dà Ðà" là của Pháp Sư tự soạn, để tổng dụ cho diệu lý đủ trong những thí dụ trên.
08/04/2013(Xem: 33813)
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
08/04/2013(Xem: 12543)
Ước mong rằng người đọc cũng như người nghe truyện sẽ ghi nhớ mãi trong tâm cái nếp sống đạo đức chân chính cùng những lời khuyên dạy quý báu của vị Bồ Tát trong truyện để cùng nhau cố gắng noi theo hầu đạt được cái Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống hàng ngày.
08/04/2013(Xem: 14844)
Từ ngày Ngài xuất hiện đến nay, trên hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua bao nhiêu lớp người trồi sụp, bãi bể nương dâu đã mấy lần thay đổi: những vết tích đã xoá nhoà trong trí nhớ của người đời, những nét chữ đã lu mờ trong sách sử. Di tích của Ngài tuy được giừ gìn trong các đền chùa tháp điện, cũng không khỏi lấm màu sắc thời gian.
08/04/2013(Xem: 16191)
Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo... tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu. Viết xong từng đoan, đọc lại, cười. Như đọc văn của ai. Thích hơn khi viết về Người, bởi nghĩ rằng viết về Người đã có nhiều ngòi bút khác viết rồi. Ðằng này do mình tưởng tượng dựng ra thì hy vọng chúng mang trọn vẹn bản sắc của tâm hồn mình.
08/04/2013(Xem: 12599)
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí. Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, . . .
08/04/2013(Xem: 16479)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda. Cả hai vị này đã từng sống nhiều năm tại Tây Tạng, từng tu tập thiền định và đi khắp nơi trong xứ sở huyền bí này hơn bất cứ người nước ngoài nào khác. Có thể nói họ hiểu Tây Tạng với bất tất cả những khía cạnh tâm linh, tâm lý, địa lý nhiều hơn cả phần đông người Tây Tạng.
08/04/2013(Xem: 3759)
Tháng 10 mùa thu, đề tài muôn thuở để bao văn nhân thi sĩ trên thế gian này múa bút. Kẻ tán tụng, người than van. Nhưng tựu trung không ai phủ nhận mùa thu đẹp với những chiếc lá vàng rơi phủ đầy lối đi, đường phố. Rồi thì khách bộ hành, những cặp tình nhân tay đan tay rảo bước đạp xào xạc trên lá vàng khô. Họ kéo cao cổ áo, nép vào nhau khi một làn gió nhẹ mơn man thổi đến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]