Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 47: Cứ theo Chánh pháp mà hành trì

13/01/201110:42(Xem: 10962)
Chương 47: Cứ theo Chánh pháp mà hành trì

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

10.

Chương 47

CỨ THEO CHÁNH PHÁP MÀ HÀNH TRÌ

Dưới cây sala, người cảm thấy có nhiều an lạc và thoải mái. Đây là một khu rừng xanh tốt, có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Bụt thấy dễ chịu hơn khi có đông đảo đệ tử. Ở Kosambi, hiện giờ nhiều vị khất sĩ đang sống trong phiền não, và phiền não lan tới cả giới đệ tử tại gia. Người cảm thấy buồn vì chính đệ tử của người cũng không chịu nghe lời người khuyên bảo. Người biết đó là sự buồn giận đang che mất tâm trí họ.

Trong rừng Rakkhita, Bụt gặp rất nhiều loài thú vật. Có cả một đàn voi nữa. Con voi mẹ vốn là một con voi chúa thường hay đem những con voi khác và đàn voi con xuống tắm dưới hồ. Nó dạy cho những con voi con uống nước, ăn cỏ và ăn những cây bông súng. Bụt nhìn con voi mẹ dạy đàn voi con ăn những cây bông súng. Nó lấy vòi nhổ một đám bông súng, khỏa những cây bông súng để rửa ở mặt nước cho bùn đất trôi đi rồi mới đưa vào miệng. Các con voi con tập một hồi rồi cũng làm được như con voi mẹ.

Mấy con voi coi này rất có cảm tình với Bụt. Voi và Bụt rất thân cận và yêu mến nhau. Có khi voi mẹ hái cả trái cây để cúng dường Bụt. Bụt ưa vuốt đầu những con voi con và đưa chúng xuống bờ hồ. Con voi chúa thường dùng tiếng rống để triệu tập đàn voi và những con voi con. Tiếng rú của con voi chúa rất là oai vệ. Bụt đã học và bắt chước được tiếng rú này Có một lần sau khi con voi chúa rú lên tiếng rú oai vệ của nó, Bụt cũng bắt chước rú lên, con voi chúa nghe tiếng rú lập tức nhìn về phía Bụt, và nó tới trước Bụt rồi quỳ hai chân trước xuống, Bụt vuốt ve và đỡ nó dậy.

Bụt ở lại an cư tại đây. Đây là mùa an cư thứ mười của Bụt sau ngày thành đạo. Đây là lần thứ hai người an cư một mình. Suốt này người ở trong rừng. Chỉ buổi sáng vào giờ khất thực người mới rời khỏi khu rừng xanh tốt của người để đi vào tụ lạc mà thôi.

Sau mùa an cư, Bụt từ giã đàn voi và khu rừng xinh đẹp. Người đi về hướng Đông Bắc. Nửa tháng sau người về tới tu viện Cấp Cô Độc ở Savatthi. Đại đức Sariputta thấy Bụt về mừng lắm. Rahula cũng có mặt tại đó. Nhiều vị đại đệ tử cũng có mặt tại đó: các đại đức Mahamoggallana, Mahkassapa, Mahakunda, Upali, Mahakotthiya, Mahakappina, Mahakunda, Revata, và Devadatta ... Các đại đức Anuruddha, Kimbila, Nandiya từ công viêng Rừng Trúc ở Karagama cũng đã về tới. Ni sư Gotami cũng có mặt tại Savatthi. Thấy Bụt ai nấy đều mừng rỡ.

Bước vào tịnh xá, Bụt gặp thầy Ananda đang sắp đặt và quét dọn lại tịnh xá. Một năm và bốn tháng trời, Bụt đã vắng mặt tại đây. Thấy Bụt, đại đức Ananda mừng quá. Thầy buông chổi vái chào Bụt, Bụt hỏi thăm thầy về tình trạng ở Kosambi. Thầy nói:

- Sau khi Bụt bỏ đi, một số huynh đệ đến tìm con và nói: “Này sư huynh, Thế Tôn đã bỏ đi rồi, người đi một mình. Tại sao sư huynh không tìm theo Bụt để làm thị giả cho người. Nếu sư huynh không đi thì chúng tôi đi vậy”. Con trả lời: “Nếu Bụt đi mà không cho ai biết mà cũng không từ giã huynh đệ chúng ta, đó là vì người muốn đi một mình. Chúng ta không nên làm phiền người". Sau đó khoảng sáu tháng, một số huynh đệ lại tới nói với con: “Này sư huynh, lâu nay chúng mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp trực tiếp từ miệng của bậc thầy nói ra. Chúng ta nên đi tìm người”. Chúng con đã lên đường tìm Bụt nhưng không được gặp. Không ai biết Bụt ở đâu. Cuối cùng chúng con tìm về Savatthi. Về tới đây chúng con cũng không thấy Bụt. Chúng con tự bảo nên kiên nhẫn chờ Bụt tại đây. Thế nào người cũng về. Thế nào người cũng không bỏ các đệ tử xứng đáng của người.

- Khi thầy rời Kosambi, tình trạng như thế nào? Các vị khất sĩ còn cãi cọ nhau nhiều không?

- Thế Tôn, hồi ấy tình trạng còn căng thẳng lắm. Căng thẳng hơn này Thế Tôn ra đi nhiều, không bên nào chịu thua bên nào. Không khí thật là khó thở. Mỗi lần đi vào thành phố khất thực là chúng con lại bị giới cư sĩ hỏi nhau về vụ tranh chấp. Chúng con nói: “Có nhiều vị khất sĩ đứng ngoài vụ tranh chấp. Xin quý vị biết cho điều đó”, và đó là điều duy nhất mà chúng con có thể làm. Dần dần giới cư sĩ bắt đầu phản ứng. Họ tìm tới tu viện và nói với các vị khất sĩ trong vụ tranh chấp: “Quý thầy đã không nghe lời Bụt để cho Bụt phải buồn lòng mà bỏ đi. Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Giới tại gia của chúng tôi đã mất rất nhiều niềm tin. Xin quý thầy xét lại”. Thưa Thế Tôn, ban đầu thì các thầy không chú ý tới lời cảnh cáo của giới tại gia, nhưng sau đó, giới tại gia cương quyết bảo nhau không cúng dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Hỏi tại sao không cúng dường tăng bảo, họ trả lời: “Quý vị không xứng đáng với Bụt, bởi vì quý vị không có sự hòa hợp. Nếu quý vị nghe lời Bụt mà hòa giải được với nhau, rồi sau đó đi tìm Bụt để sám hối, thì chúng tôi sẽ khôi phục được niềm tin. Lúc đó chúng tôi mới hành trì lại phép cúng dường với tất cả tâm thành của chúng tôi được". Thưa Thế Tôn, giới tại gia ở Kosambi cương quyết lắm. Họ nói thì họ làm. Ngày rời Kosambi, con nghe nói là hai bên định ngày tập hợp để đi tới sự hòa giải. Con nghĩ là họ sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về tới đây để xin sám hối với Bụt.

Bụt nói:

- Ananda, đưa chổi đây để tôi dọn dẹp tiếp cho. Thầy hãy đi kiếm đại đức Sariputta về để tôi nói chuyện.

Ananda đi rồi, Bụt lấy chổi quét tịnh xá. Người làm công việc này một cách thong thả và thoải mái. Rồi người bắc một chiếc ghế ra ngoài sân ngồi. Tu viện Cấp Cô Độc quả là một nơi đẹp đẽ. Cây cối xanh tươi và chim chóc ca hát vang lừng cả bốn mặt. Người ngồi chơi một lát thì đại đức Sariputta tới. Hai thầy trò ngồi bên nhau im lặng một hồi lâu. Rồi Bụt nói cho đại đức nghe điều người đang quan tâm. Bụt bảo: phải làm mọi cách để những cuộc cãi cọ vô nghĩa lý đừng xảy ra ở trung tâm tu học xinh đẹp này. Hai người bàn bạc với nhau khá lâu.

Một buôi chiều nọ, đại đức Sariputta được báo tin là các thầy ở Kosambi đang lục tục kéo về. Họ đông tới cả mấy trăm người. Họ còn ở dưới phố, chưa lên tới tu viện. Thầy đi tìm Bụt và hỏi người:

- Thế Tôn, con nghe là các huynh đệ tử Kosambi đã về đến và sắp tới nơi rồi. Chúng con phải tiếp xử với họ như thế nào?

- Thì cư tiếp xử đúng chánh pháp.

- Lạy Bụt, đúng chính pháp nghĩa là sao, xin người dạy cho.

- Thầy mà cũng còn hỏi một câu như thế sao?

Đại đức Sariputta im lặng. Vào lúc đó, các thầy Moggallana, Kassapa, Kaccana, Kotthiya, Kappina và Anuruddha tìm tới tịnh thất của Bụt. Các thầy hỏi:

- Lạy Bụt, các huynh đệ sắp về tới. Chúng con phải tiếp xử với họ như thế nào?

- Thì các vị cứ tiếp xử đúng như chính pháp.

Các thầy đưa mắt nhìn đại đức Sariputta. Đại đức chỉ mỉm cười, Bụt nhìn những vị đệ tử lớn của người. Rồi người nói chậm rãi:

- Phải lắng tai nghe cả hai bên, phải đừng có thành kiến với bên nào hết. Những điều giới mình nghe từ một phía, mình phải trầm tĩnh xét đoán, xem cái gì đúng với chánh pháp và cái gì không đúng với chánh pháp. Chánh pháp là những gì tôi đã trình bày như là con đường đưa đến an lạc và giải thoát, những điều mà chính tôi, tôi đang làm theo. Không phải chánh pháp là những gì tôi đã khuyên răn không nên làm và chính tôi, tôi không bao giờ làm. Khi quý vị biết được cái gì là chánh và cái gì là không chánh ở mỗi bên thì quý vị có thể giúp đỡ họ trong công việc hòa giải.

Vừa lúc ấy các vị thí chủ lớn của tu viện do cư sĩ Anathapindika lãnh đạo cũng tìm tới tịnh thất. Họ hỏi:

- Thế Tôn, những vị khất sĩ ở Kosambi sắp tới. Chúng con phải đối xử như thế nào? Chúng con nên cúng dường hay không nên cúng dường? Nếu cúng dường thì Bụt dạy nên cúng dường phía bên nào?

Bụt mỉm cười:

- Nên cúng dường cả hai bên, và nên tỏ lòng yểm trợ và tán thành mỗi khi có người nói lên những điều đúng với chánh pháp.

Lúc đó, thầy Ananda xuất hiện. Thầy báo tin cho đại đức Sariputta biết là hiện các thầy Kosambi đã về tới cổng tu viện đầy đủ. Tất cả đang đứng chờ bên ngoài tu viện vì chưa dám đi vào. Đại đức Sariputta hướng về phía Bụt:

- Lạy Bụt, các anh em của con từ Kosambi đã tới. Con có nên mở cửa cho họ vào không?

Bụt nói:

- Nên mở cửa cho họ vào.

Sariputta bạch tiếp:

- Rồi con sẽ giải quyết thế nào về sự cư trú của họ.

- Cho hai phe ở riêng ra hai bên.

- Lạy Bụt, có thể là không đủ chỗ cư trú riêng cho tất cả mọi người.

- Nếu vậy thì chịu khó ở chật chật hơn một chút. Tuy nhiên, đừng nên để ai phải ngủ ở ngoài trời, nhất là các thầy lớn.

- Còn về thực phẩm và thuốc men?

- Thực phẩm và thuốc men thì cũng được phân phát cúng dường đồng đều như nhau.

Theo lệnh của đại đức Sariputta, các thầy tri khách mở cửa đón tiếp các vị khất sĩ từ Kosambi tới. Các vị được chia chỗ ở và những những tiện nghi cư trú theo đúng như lời Bụt dạy. Tất cả mọi việc đều được diễn tiến trong im lặng.

Sáng ngày hôm sau, tất cả các vị mới đến đều được lệnh cho đi khất thực, nhưng trước khi họ đi, thầy Sariputta đã chia họ thành từng toán và chỉ định đi từng địa phương khác nhau theo tinh thần lời Bụt dặn. Buổi chiều, các thầy ngỏ ý muốn đại đức Sariputta dàn xếp cho họ được làm lễ sám hối Bụt. Đại đức nói:

- Theo sự hiểu biết của tôi thì việc sám hối với Bụt không phải là việc căn bản. Việc căn bản là các thầy đạt được sự hòa giải. Với sự hòa giải đó như một thành quả, lễ sám hối mới có ý nghĩa và mới có bản chất chân thực.

Tối hôm ấy, vị kinh sư chủ chốt của sự bất phục tùng tìm tới vị luật sư thù nghịch. Thầy chắp tay lại và làm lễ vị này. Thầy quỳ xuống và tác bạch:

- Bạch đại đức, tôi xin công nhận là tôi đã phạm giới, và sự kết tội của đại đức vào mùa hè năm ngoái là đúng luật. Tôi sẵn sàng sám hối trước đại chúng, để được trở lại tình trạng giới thể thanh tịnh.

Vị kinh sư làm được như vậy vì thầy không thấy có một nẻo thoát nào khác cho giáo đoàn khất sĩ. Ông sẵng hy sinh tự ái để đem lại hòa khí cho giáo đoàn. Biết thế, vị luật sư liền phản ứng một cách mau lẹ. Ông cũng quỳ xuống trước vị kinh sư. Ông nói:

- Tôi cũng xin sám hối với đại đức là tôi đã thiếu khiêm nhượng và thiếu khéo léo trong vụ này. Xin đại đức từ bi chứng minh cho tấm lòng thành khẩn của tôi.

Ngay buổi tối hôm đó, lễ phát độ của vị kinh sư được tổ chức, và vị kinh sư khôi phục được giới thể thanh tịnh. Ai nấy đều thở phào, nhất là các vị khất sĩ từ Kosambi đến, trong số đó có nhiều thầy chưa bao giờ có dính líu đến cuộc tranh chấp.

Bụt được báo tin này vào lúc nửa đêm. Chính đại đức Sariputta đem tin này tới cho người. Người chỉ gật đầu không nói năng gì. Cuộc tranh chấp đã chấm dứt, nhưng vết thương vẫn còn. Phải một thời gian nữa thì vết thương mới có thể lành hẳn.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4638)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43763)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4370)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4316)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4218)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6339)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4610)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4021)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24915)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23985)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]