Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 33: Cái đẹp không tàn hoại

13/01/201110:14(Xem: 10374)
Chương 33: Cái đẹp không tàn hoại

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

7.

Chương 33

CÁI ĐẸP KHÔNG TÀN HOẠI

Một hôm nọ, khi mùa an cư chỉ còn nửa tháng nữa thì được hoàn mãn, có một người thiếu phụ rất đẹp đến viếng thăm Bụt. Người thiếu phụ này đi xe song mã. Hai con ngựa đều trắng và xe cũng sơn màu trắng. Thiếu phụ bước xuống xe cùng với một chàng con trai khoảng mưòi lăm hay mười sáu tuổi. Thiếu phụ trang sức cực kỳ lộng lẫy và dáng đi rất quý phái. Tại cổng tu viện bà gặp một vị khất sĩ trẻ tuổi và hỏi thăm về Bụt. Vị khất sĩ này hương dẫn bà và cậu thanh niên vào đến tận túp lều của Bụt. Bụt không có đó. Người đang đi thiền hành. Vị khất sĩ mời thiếu phụ và cậu con trai ngồi xuống trên hai chiếc ghế tre đặt trước sân tịnh xá. Chiếc ghế thứ ba là để Bụt ngồi.

Một lát sau Bụt về tới, cùng với Kaludayi, Sariputta và thầy thị giả. Thiếu phụ và cậu con trai cùng đứng dậy vái chào người. Bụt mời hai mẹ con an tọa. Người cùng ngồi xuống chiếc ghế đặt sẵn cho người. Người biết đây là ca nương Ambapati và cậu con trai là Jivaka.

Kaludayi chưa bao giờ thấy một người đàn bà đẹp như thế và duyên dáng như thế. Thầy chỉ mới đi tu được có một tháng nên thầy bỡ ngỡ, không biết nhìn ngắm một người đàn bà đẹp như vậy thì có đúng phép không. Nghĩ như vậy, thầy nhìn xuống đất. Thầy thị giả Nagsamala cũng có phản ứng giống hệt như vậy. Cả hai thầy đều nhìn xuống đất. Duy chỉ có Bụt và Sariputta là nhìn thẳng vào mặt thiếu phụ mà thôi.

Sariputta nhìn thiếu phụ rồi xoay sang nhìn Bụt. Thấy sắc diện của Bụt không khác gì sắc diện của một mặt trăng rằm, tự nhiên, hiền lành, trong sáng. Phút chốc, thầy cảm thấy cái tự tại và an lạc của Bụt thấm vào lòng thầy.

Thiếu phụ có tên là Ambapati cũng đang nhìn Bụt. Bà chưa thấy ai nhìn bà như vậy bao giờ. Từ xưa tới nay mỗi khi có một người đàn ông hay một thanh niên nhìn bà, bà đều thấy trong ánh mắt người đó hoặc một thoáng bối rối, hoặc một thoáng ao ước, hoặc một dự tính chiếm hữu. Bụt đang nhìn bà như đang nhìn một đám mây, một dòng sông hay một bông hoa. Hình như người thấy được tận trong chiều sâu thẳm của tâm hồn bà.

Ambapali chắp tay bạch Bụt:

- Con là Ambapali, và đây là con trai của con, Jivaka, năm nay mười lăm tuổi. Cháu nó đang học nghề y, con đã được nghe nói về thầy và con rất ao ước cháu sẽ được có duyên tới học hỏi cùng thầy.

Bụt hỏi thăm Jivaka về chuyện học văn và đời sống của chàng, Jivaka trả lời rất lễ phép. Đây là một chàng trai đôn hậu, hiền lành và thông minh. Cùng cha khác mẹ với thái tử Ajatasattu, nhưng chàng trông có đức độ hơn và cũng có vẻ thông minh hơn. Sau một vài câu chuyện với Bụt, Jivaka bỗng thấy trào dâng trong lòng một mối cảm tình sâu đậm đối với ông thầy tu này. Chàng tự hẹn là sau khi học xong nghề thuốc chàng sẽ xin ở gần bên Bụt.

Ambapali đã tưởng rằng Bụt chỉ là một ông thầy tu nổi tiếng như những ông thầy tu nổi tiếng khác mà bà đã gặp, nhưng không, bà chưa từng gặp một người nào như Bụt. Bà chưa từng thấy ai có cái nhân cách như nhân cách Bụt. Cái nhìn của Bụt hiền dịu làm sao. Bà có cảm tưởng là bà không cần than thở gì với Bụt mà Bụt vẫn thấy và hiểu được những niềm khổ đau sâu kín trong tâm bà. Được nhìn Bụt và được Bụt nhìn như thế, bà đã thấy vơi bớt rất nhiều nỗi khổ. Một giọt nước mắt ứa ra trên khóe mi bà. Bà nói:

- Lạy thầy, đời con khổ lắm. Tuy rằng con không thiếu thốn gì trên phương diện tiền của và vật chất nhưng con chưa bao giờ có được một niềm tin. Hôm nay là ngày sung sướng nhất của đời con.

Ambapali là ca nhi, nhưng nàng không hát cho bất cứ ai muốn nghe nàng hát. Những người mà nàng không ưa hoặc nàng nhận thấy thiếu phong độ và tư cách thì dù có đem đến cả trăm vạn đồng nàng cũng từ chối. Từ năm mười sáu tuổi, nàng đã gặp một cuộc tình trắc trở. Sau đó, nàng đã gặp vua Bimbisara khi vua còn là thái tử. Có những người trong triều đã không muốn hoàng gia công nhận Jivaka là con của thái tử. Họ nói Jivaka là con hoang mà thái tử bắt gặp ở trong một cái thúng để ở bên vệ đường. Điều này cũng đã làm cho Ambapali đau khổ. Nàng đã gánh chịu rất nhiều khổ đau vì ghen ghét và vì thù hận. Nàng trân quý tự do như bảo vật duy nhất còn lại trong đời, cho nên từ ấy đến nay không ai và chưa ai trói buộc được nàng.

Bụt dạy:

- Nhan sắc cũng chịu luật sinh diệt và cũng sẽ tàn phai như bao nhiêu hiện tượng khác. Của cải và sự giàu sang cũng vậy Chỉ có niềm an lạc và cái tự do công phu quán chiếu đem tới mới là niềm vui chân thật mà thôi. Này Ambapali, đã đến lúc con phải tập đời sống tỉnh thức an lạc. Phải trân quý từng giây phút còn lại của đời mình, đừng lãng phí chúng trong sự vui chơi quên lãng. Điều này rất quan trọng cho con và cho Jivaka.

Rồi Bụt dạy cho Ambapali cách tổ chức lại đời sống hàng ngày, cách hành trì năm giới, cách thở, cách ngồi, cách sử dụng thì giờ, cách cúng dường và làm việc phúc thiện. Ambapali sung sướng ngồi nghe những lời dạy quý báu của Bụt. Cuối cùng trước khi từ giã Bụt, bà nói:

- Tại ngoại ô thành Vesali, con có một vưòn xoài rất mát và rất thanh tịnh. Con mong có ngày đi hoằng hóa ngang đó, Bụt và chư vị khất sĩ sẽ ghé nơi ấy để nghỉ ngơi. Đây sẽ là một vinh hạnh lớn cho con và cho Jivaka. Kính xin đức Từ Bi hoan hỷ nhận lời cho con.

Bụt mỉm cười nhận lời.

Ambapali đi rồi, thầy Kaludayi xin phép được ngồi xuống bên Bụt. Thầy thị giả cũng mời đại đức Sariputta ngồi xuống trên chiếc ghé còn lại, còn thầy thì vòng tay đứng hầu sau lưng Bụt. Một số các vị khất sĩ đang đi thiền hành gần đấy thấy khung cảnh ấm cúng cũng ghé vào. Đại đức Sariputta mỉm cười nhìn Kaludayi, rồi nhìn thầy thị giả Nagasamala. Cuối cùng thầy hỏi Bụt:

- Lạy đức Thế Tôn, người tu hành nên có thái độ nào đối với nữ sắc? Cái đẹp, nhất là nữ sắc, có phải là một trở ngại cho công phu tu tập không?

Bụt mỉm cười. Người biết Sariputta hỏi câu hỏi này không phải là để cho bản thân thầy mà là cho các thầy khác. Người nói:

- Các vị khất sĩ, tự tính của vạn pháp vượt ra ngoài ý niệm đẹp và xấu. Đẹp và xấu là những ý niệm tạo ra do tri giác và nhận thức dung thường.

Đứng về tục để mà nói, ta thấy có đẹp và có xấu. Đẹp và xấu tùy thuộc rất nhiều vào cơ cấu của năm uẩn. Đối với con mắt của người nghệ sĩ, cái gì cũng có thể đẹp và cái gì cũng có thể xấu, một dòng sông, một đám mây, một chiếc lá, một bông hoa, một tia nắng sớm hay một buổi chiều vàng đều có thể có cái đẹp riêng của nó. Những bụi tre vàng xung quanh đây cũng có những vẻ đẹp riêng của chúng, Nhưng chưa có cái đẹp nào có thể trói buộc và làm tiêu ma chí khí của một kẻ nam nhi bằng nữ sắc. Tham đắm vào nữ sắc rồi thì chí nguyện có lớn lao đến mấy và sự nghiệp có lẫy lừng đến mấy cũng có thể bị tàn hại. Vì vậy tôi muốn căn dặn quý vị hãy rất cẩn thận đối với nữ sắc.

Đối với những người đã quán chiếu và đạt đạo, cái đẹp vẫn là cái đẹp, những vị đã đạt tới giải thoát và tự do, họ không còn bị cái đẹp hay cái xấu khống chế nữa. Không phải là họ dửng dưng không thấy cái đẹp; sự thực là họ không bị nô lệ cho cái đẹp. Nhìn vào cái đẹp, họ thấy được những cái không đẹp đã góp phần làm ra cái đẹp. Nhìn vào cái xấu, họ thấy được những cái không xấu đã góp phần làm ra cái xấu. Họ thấy được tính cách vô thường của vạn pháp, đẹp cũng như xấu, vì vậy họ không bị cái xấu làm cho chán nản cũng không bị cái đẹp làm cho đam mê. Đối với những người tu hành chưa đủ công phu quán chiếu, chưa có được bản lĩnh nhận thức, tôi muốn khuyên họ đừng gần gũi nữ sắc. Những vị này phải để hết thì giờ vào việc học hỏi và thiền tập.

Chỉ có một cái đẹp không bao giờ tàn hoại và không gây khổ đau: đó là lòng từ bi và tâm giải thoát. Từ bi là thứ tình thương không có điều kiện và không cần sự đền trả. Tâm giải thoát cũng là thứ tâm không thối chuyển, như con gà con một khi ra khỏi vỏ trứng rồi thì không còn chun trở lại nằm trong vỏ trứng nữa. Đã không còn lệ thuộc vào điều kiện cho nên cái đẹp của lòng từ bi và tâm giải thoát là cái đẹp chân thực, và niềm an lạc do cái đẹp ấy cống hiến cũng do đó mà là thứ an lạc chân thực. Này các vị khất sĩ, các vị hãy tinh tiến mà thực hiện cho được cái đẹp ấy.

Kaludayi và các vị khất sĩ có mặt đều rất sung sướng được nghe lời Bụt dạy.

Mùa an cư đã được hoàn mãn. Bụt cho gọi Kaludayi và Channa, và đề nghị hai người về Kapilavatthu trước một tháng để báo tin là Bụt sẽ về.

Kaludayi lĩnh mệnh. Ngay ngày hôm đó thầy và Channa chuẩn bị cho chuyến hồi hương, Kaludayi đã trở nên một kẻ xuất gia, có đủ uy nghi của một vị khất sĩ rồi. Ông nghĩ thế nào khi về tới quê nhà ông cũng sẽ làm cho mọi người ngạc nhiên. Ông vui mừng vì được giao trách vụ về báo tin mừng, nhưng ông cũng tiếc là thời gian được học hỏi với Bụt tại Trúc Lâm còn ngắn ngủi quá.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/04/2020(Xem: 11700)
Không chỉ là một trong những cuốn sách xuất sắc về nội dung, "Hành trình về Phương Đông" còn có một số phận kỳ lạ. Và không chỉ bây giờ mà suốt vài chục năm qua rất nhiều diễn đàn trong và ngoài nước đã tranh luận rất nhiều về nguồn gốc, xuất xứ cuốn sách này. Mà người đã tạo ra nó lại yên lặng như không hề có liên quan.
20/04/2020(Xem: 2718)
Thắp xong mấy nén hương trầm, lâm râm khấn vái, dâng lên bàn thờ Phật, rồi bàn thờ gia tiên, dì Thêm thở dài, bước từng bước năng nề xuống bậc cấp cầu thang lát đá nhám màu đen sậm, mắt dõi theo hai bàn chân của mình đổi phiên nhau đặt từng bước xuống lần bên dưới. Cũng là những bước đó trước giờ, nhưng sao tối nay tự dưng dì cảm thấy như mình đang bước dần xuống hố sâu u ám đang chứa đầy nỗi thất vọng, buồn tênh… Hết bậc cấp, dì lê gót đến ngồi phịch xuống ghế sofa êm ái, nhìn bâng quơ qua cửa kính ra ngoài sân, cổng trước… Dì Thêm đang nghĩ về đứa con gái của mình.
16/04/2020(Xem: 4546)
Đường phố vắng hoe. Quán xá đều đã đóng cửa. Chỉ những khu vực chợ búa mới thấy có người tập trung qua lại với biểu hiện vội vội vàng vàng, Đã bước sang ngày thứ mười một của đợt giãn cách xã hội phòng chống dịch COVID-19.
13/04/2020(Xem: 3203)
Mỗi người trong chúng ta ít nhiều đều có những kỷ niệm lần đầu tiên mà mình nhớ mãi và chắc rằng Đại dịch năm nay cũng sẽ là kỷ niệm lần đầu tiên mà cả thề giới sẽ không bao giờ quên khi trận dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất nhiều đến mọi mặt trong xã hội và làm đảo lộn mọi thứ… Trong những ngày này, mọi người bị bắt buộc ở nhà và hạn chế đi lại, mỗi người chọn cho mình một cái gì đó để giải trí, để thư giản, để học hỏi, v.v… QT thỉnh thoảng tìm đọc những quyển sách tiếng Anh có những câu chuyện để chia sẻ trong Ngày Nhớ Ơn Mẹ, Ngày Nhớ Ơn Cha, Mùa Vu Lan… Những con số người chết hằng ngày mỗi gia tăng làm mình cũng xúc động… và QT tìm thấy câu chuyện này xin chia sẻ với cả nhà như là một kỷ niệm của riêng mình… Nguyện cầu Chư Phật gia hộ cho tất cả được nhiều bình an và đại dịch sớm qua mau. Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
01/04/2020(Xem: 4130)
Có một thứ được cất giấu, nếu nói là bí mật thì hơi quá, chỉ là hơi kín đáo trong cốp chiếc xe Future còn mới cáu xèng của anh. Anh lẳng lặng ghé chỗ cửa hàng bán vật liệu ống nước và sắt thép để mua nó, cất kỹ, lấy chiếc khăn lông dùng để lau bụi xe mà phủ úp lên che lại. Vợ con của anh chắc là không biết, vì xe là xe riêng của anh, không ai tò mò táy máy mở cốp ra làm gì. Vậy nên, người ngoài càng không hề biết.
01/04/2020(Xem: 5301)
Truyện ngắn "Trong cốp xe" của TK Vĩnh Hữu được đăng trên Thư Viện Hoa Sen vào ngày 16/02/2020, có đoạn: ... "Anh chú tâm niệm Phật, đúng ra là niệm Chuẩn Đề đà-la-ni, chỉ để thêm đạo lực, thêm ý chí mà vượt qua thời khắc khó khăn thử thách, quên đi mệt nhọc thân xác..." Tác giả chỉ nhắc qua việc "niệm chú" thật ngắn, không diễn bày hay kể lể gì thêm, lướt qua thật nhanh để trở về với mạch truyện. Chắc rất ít người lưu tâm để ý đến chi tiết vô cùng huyền diệu này, vì đang bị cuốn hút theo dòng trôi của câu chuyện "hết xăng, dắt xe đi bộ".
20/03/2020(Xem: 2887)
Tình yêu không chỉ là cảm xúc của con người, nó còn là cội nguồn của sức mạnh, của tinh thần lạc quan, của lòng dũng cảm và sự kiên cường. Tình yêu giúp chúng ta giải quyết rất nhiều vấn đề trong cuộc sống, giúp ta dễ dàng tha thứ cho những sai lầm và dẫn dắt ta tới những bến bờ hạnh phúc. Đó là buổi tối tháng 6 lộng gió, chàng trai gặp cô gái tại một bữa tiệc ở một nhà hàng gần biển. Cô là người xinh đẹp, dịu dàng và phần lớn khách trong buổi tiệc đều chú ý đến cô. Trong khi đó, chàng trai lại là một người rất bình thường, không có gì đặc biệt, cũng chẳng ai để ý tới anh. Anh cũng dõi theo cô ngay từ khi cô bước vào.
20/03/2020(Xem: 4329)
Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Chiều về trên sông vắng, Chàng ngồi trầm ngâm ngắm cảnh sông nước của Sài Gòn. Tức cảnh sinh tình Chàng nhẹ nhàng lôi máy điện thoại iPhone vẫn luôn nhét trong túi ra nhắm một pô thật tình cảm, rồi trong ký ức thời còn đi học luôn bị ông Thầy dạy văn bắt học thuộc lòng các bài thơ Đường hay "Kẻ sĩ" trẹo vần của Nguyễn Công Trứ, Chàng liền xuất khẩu thành thơ ra ngay một câu đã chứa sẵn trong đầu "Bên sông khói sóng cho buồn lòng ai". Trước là để giải tỏa nỗi buồn cho quê hương đất nước đang điêu linh, sau là xả stress với các tin tức thế giới về con vi-rút độc hại, lỡ mang cái tên mỹ miều là Corona. Tên cúng cơm đầy đủ phải là Covid-19 nghe như mật mã của một điệp viên nổi tiếng cỡ 007 không bằng. Đại để chỉ nêu rõ xuất xứ của cô nàng vi-rút xuất hiện tại Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019.
17/03/2020(Xem: 9244)
Nước kia có một ông vua Nghe lời đồn đãi khó ưa về mình Ngoài đời có kẻ phê bình Rằng mình bạo ngược, tính tình tàn hung Còn về chính trị chẳng thông, Vua nghe tức bực trong lòng lắm thay
17/03/2020(Xem: 12899)
Ngày nay, Sự hiện hữu lạ lùng của mấy con trùng nhỏ nhoi codv19 lại có một sức tấn công vô hình mà mãnh liệt làm các nhà chánh trị gia hùng cường nhất thế giới khi đưa tay để bắt tay nhau trong một tư thế quen thuộc của nền văn hóa âu tây lại vội vả rút tay về rồi họ cùng chấp hai bàn tay lên ngực để chào nhau và cùng rộ lên cười những tiếng cười hoan lạc, mỹ miều, khoan khoái, từ xưa nay chưa từng có ! Hay thay, Một khoản khắc trở về chân lý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]