Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 6: Bóng mát cây hồng táo

13/01/201109:50(Xem: 10919)
Chương 6: Bóng mát cây hồng táo

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

2.

Chương 6

Bóng mát cây hồng táo

Hồi còn chín tuổi, Siddhatta đã nghe kể lại rằng ngày có mang Siddhatta, mẹ của Siddhatta đã nằm mông thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên trời đi xuống. Trên không nhã nhạc vang lừng và tiếng ca hát chúc tụng của chư thiên vọng lên không ngớt. Con voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của nó trắng như tuyết trên đỉnh núi và vòi của nó quấn một đóa sen hồng. Con voi tới gần bà, đưa đóa hoa chạm vào người bà. Rồi con voi ấy đi vào trong bà. Tự nhiên bà thấy trong người sảng khoái lạ thường. Bà có cảm tưởng rằng từ nay bà sẽ không bao giờ còn khổ đau, lo lắng, giận dữ và phiền muộn nữa.Bà thức giấc. Chưa bao giờ bà cảm thấy hạnh phúc như thế. Bà trỗi dậy. Những tiếng hát ca của chư thiên và nhạc trời êm ái còn như văng vẳng bên tai bà. Bà đi tìm vua Suddhodana và kể cho vua nghe về giấc mộng. Vua chia xẻ niềm vui với bà. Sáng hôm ấy, vua với những đạo sĩ và những thầy bà la môn nổi tiếng ở kinh đo vào cung để nhờ đoán mộng. Sau khi đã nghe kể về giấc mộng của hoàng hậu, các vị đều nói:

- Tâu bệ hạ, hoàng hậu sẽ hạ sinh một hoàng nam. Thái tử sau này sẽ là một người xuất chúng. Thái tử có thể sẽ là một vị chuyển luân thánh vương trị vì cả bốn cõi; thái tử cũng có thể sẽ đi tu và trở thành vị lãnh đạo tinh thần cho cả cõi người và cõi trời. Cõi đất của chúng ta, tâu bệ hạ, đã chờ đợi từ lâu rồi một người như thái tử.

Vua Suddhodana rất vui mừng. Sau khi hội ý với hoàng hậu, vua cho lệnh lấy bớt tài vật trong kho ban phát cho những người ốm đau và bệnh tật trong xứ. Thần dân ở vương quốc Sakya đều được thấm nhuần ơn dức của vua và hoàng hậu.

Mẹ của Siddhattatên là Maha Maya người nước Koliya. Hoàng hậu Maya là một người đức hạnh. Bà thương yêu con người, nhưng bà cũng biết thương yêu các loài cầm thú và cỏ cây. Mùa xuân năm sau, đúng vào ngày trăng tròn tháng tư, hoàng hậu hạ sinh thái tử trên đường từ Kapilavatthu về thủ đô Ramagama của vương quốc Koliya quê hương của bà. Tục lệ của nước bà là người con gái có chồng phải về sinh con tại nhà cha mẹ. Trên đường đi, bà đã ghé vào nghỉ tại vườn Lumbini. Trong vườn muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang ca hát vang lừng. Những con công xòe đuôi rực rỡ trong nắng mai. Thấy một cây Vô ưu hoa nở rực đầy cành, bà bước tới. Khi tới gần cây này, bà thấy hơi lảo đảo. Bà vội đưa tay nắm chặt một cành cây vô ưu. Một giây sau đó, bà sinh em bé. Thái tử Siddhatta được các thị nữ nâng lên và bọc lại trong một tấm khăn choàng bằng lụa màu vàng. Các thị nữ biết rằng chuyến đi Ramagama không cần thiết nữa cho nên dìu hoàng hậu ra xe bốn ngựa đi trở về Kapilavatthu. Thái tử được đem tắm bằng nước ấm rồi được đặt lên giường bên cạnh hoàng hậu.

Được tin, vua Suddhodana lập tức vào thăm hai mẹ con. Vua vui mừng khôn xiết. Mặt vua sáng rỡ. Vua đặt tên cho thái tử là Siddhatta.

Hôm đó tất cả quần thần đều được nghe tin, mọi người đều đến chúc mừng vua và hoàng hậu. Vua Suddhodana truyền mời các ông thầy tướng giỏi đến coi tướng cho Siddhatta. Ông thầy nào cũng nói rằng Siddhattacó tướng của một vị chuyển luân thánh vương, và cũng đều tiên đoán rằng thái tử sẽ là một vì vua trị vì không phải một phương mà cả bốn biển.

Một tuần lễ sau đó, có một ông đạo sĩ bà la môn tên là Asita Kaladevala đến thăm. Đạo sĩ Asita là một ẩn sĩ trên núi. Vị đạo sĩ này đã già lắm, lưng ông đã còm. Ông phải chống gậy đi từ trên núi xuống.
Khi được quân hầu báo tin, vua Suddhodana đích thân ra khách đường chào ông và đưa ông vào cung thăm thái tử. Ông nhìn thái tử một hồi mà không nói năng gì. Bỗng nhiên ông nấc lên khóc. Thân hình ông rung rung trên chiếc gậy. Vua hoảng kinh, hỏi:

- Tại sao, tại sao thầy khóc như thế? Có điều gì không hay sẽ xảy ra cho trẫm hoặc cho thái tử đây không?

Đạo sĩ Asita lấy tay quệt nước mắt. Ông lắc đầu:

- Tâu bệ hạ không có chuyện gì xấu cả. Tôi khóc là khóc cho số phận tôi. Tôi biết thái tử sau này sẽ thành một bậc vĩ nhân, thấu suốt được mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ. Thái tử sẽ không làm vua đâu: thái tử sẽ làm một vị đạo sĩ lấy trời đất làm quê hương, lấy muôn loài làm thân tốc. Tôi khóc là vì tôi sẽ chết trong nay mai, và chẳng có diễm phúc được nghe tiếng nói chân thốt ra từ miệng Người. Bệ hạ có phúc lớn lắm, nước nhà có phúc lớn lắm mới có được thái tử.

Tâu xong đạo sĩ Asita lập tức rời bỏ hoàng cung để về núi: vua Suddhodanatìm đủ mọi cách để lưu ông lại, nhưng vua không thành công.

Cuộc viếng thăm của đạo sĩ Asit làm vua buâng khuâng. Vua không muốn rằng sau này Siddhattađi tu. Vua chỉ muốn sau này Siddhatta nối nghiệp vua để làm vua, và mở rộng bờ cõi. Vua nghĩ rằng vị đạo sĩ Asita chỉ là một đạo sĩ trong hàng trăm hàng ngàn vị đạo sĩ khác. Có thể là ông nói sai. Và có thể những vị đạo sĩ khác đã nói đúng. Nghĩ như thế, vua thấy yên dạ

Hoàng hậu Maya sinh thái tử được tám ngày thì mất. Cả nước thương tiếc bà. Vua Suddhodana tuyển ngay em ruột của bà là bà Mahapajapati vào cung và đưa lên ngôi hoàng hậu. Phu nhân Pajapati cũng được gọi là Gotami. Bà thay thế chị để chăm sóc Siddhatta. Siddhatta là cháu gọi bà bằng dì, nhưng bà thật sự xem Siddhatta như con ruột của chính bà. Lớn lên, Siddhatta đã nhiều lần hỏi bà về mẹ. Siddhatta biết rằng dì Gotami thương mẹ lắm và cũng biết rằng trong trời đất có lẽ ngoài dì Gotami không ai có thể thương mình bằng mẹ của mình. Được săn sóc và thương yêu, Siddhatta lớn lên rất mau.

Một hôm đang ngắm Siddhatta chơi ngoài vườn ngự, bà Mahapajapati nghĩ:

- Đã đến lúc mình có thể dạy cho con trai đeo vòng và đeo ngọc.

Bà truyền thị nữ đem đủ các thứ vòng và chuỗi đến để bà đeo thử cho Siddhatta. Bà thử hết mọi loại vòng vàng và một loại chuỗi ngọc, nhưng không thứ nào đeo vào mà có thể làm cho Siddhatta đẹp hơn và dễ thương hơn, Siddhatta cũng tỏ ý không thích các loại trang sức này. Cuối cùng Gotami nhận thấy rằng cứ để cho Siddhatta tự nhiên thì Siddhatta lại đẹp hơn và dễ thương hơn, và bà truyền lệnh cất hết các thứ vòng vàng và chuỗi ngọc.

Đến tuổi đi học, Siddhatta được học đọc, học viết, học vẽ, học âm nhạc và học thể thao. Siddhatta được học chung với các vương tử khác trong dòng họ Sakya. Tất ca đều là con trai. Trong số các bạn học của Siddhatta, có Devadatta, Kaludayu và Kimbila. Devadatta là em chú bác của Siddhatta. Kaludayi là con của một vị đại thần trong triều, Kimbila là một người em cô cậu của Siddhatta. Vì tư chất thông minhh, Siddhatta học rất mau chóng. Thầy dạy chữ của Siddhatta là giáo sư Visvamitra. Devadatta đã là một đứa trẻ thông minh đối với ông, nhưng Siddhatta mới là đứa trẻ làm cho ông kinh ngạc. Ông chưa bao giờ dạy một đứa trẻ thông minh đến như thế.

Năm lên chín, Siddhatta được cùng các bạn đi dự lễ cày ruộng đầu năm. Ba Gotami đã tự tay mặc áo và mang giày cho Siddhatta. Các bạn cùng lớp học đều được đi theo Siddhatta Chính vua Suddhodana sẽ đứng ra chủ tọa buổi lễ này. Các vị đạo sĩ và tu sĩ Bà la môn ở những cấp cao đều được mời tới tham dự. Các thầy mặc áo và đội mũ rất sặc sỡ. Buổi lễ được cử hành ở những thửa ruộng tốt nhất của vương quốc không xa vòng ngoài hàng thành là mấy. Đây là mùa xuân. Cờ xí treo đầy đường đầy ngõ. Thức ăn thức uống và rượu được bày la liệt trên các đài cúng thần. Các đội âm nhạc và ca vũ chia nhau đi các ngã đường để giúp vui cho ngày hội. Không khí tưng bừng náo nức. Các thầy Bà la môn xướng tụng rất uy nghiêm. Phụ vương của Siddhatta mặc áo hoàng bào và các vị đại thần trong triều phục lớn đều đang đứng xoay mặt về phía lễ đài. Siddhatta đứng với các bạn phía sau, một bên là Devadatta, một bên là Kaludayi. Các thị nữ nói rằng sau buổi lễ thì sẽ có ăn cỗ, và cỗ sẽ được bày ngay trên các bãi cỏ. Siddhatta thích lắm, vì ít khi Siddhatta có dịp được ngồi trên bãi cỏ mà ăn cơm, nhưng các thầy tụng kinh lâu quá, bọn trẻ nóng ruột chờ không nổi. Chúng rủ nhau đi chơi. Kaludayi kéo tay Siddhatta. Bọn trẻ kéo nhau về phía có ca vũ và âm nhạc. Trời đã bắt đầu nắng gắt. Áo quần các nhạc công đều đã ướt đẫm mồ hôi. Trán các nàng vũ nữ cũng lấm tấm mồ hôi. Chạy chơi một hồi lâu, Siddhatta cũng thấy nóng bức. Siddhatta bỏ các bạn đến núp nắng dưới một cây táo đỏ bên đường. Dưới bóng cây im mát, Siddhatta cảm thấy dễ chịu. Vừa lúc ấy bà Gotami đi đến. Bà nhìn Siddhatta:

- Mẹ đi tìm con từ hồi nãy. Con đi đâu lâu thế? Có lẽ con nên trở về dự cho xong buổi lễ để cho phụ vương vui lòng.

- Thưa mẹ, buổi lễ kéo dài quá. Các thầy đọc kinh gì mà lâu vậy hả mẹ?

- Họ đọc kinh Vệ Đà đó con, Kinh đó nghĩa lý huyền diệu lắm. Mai này con sẽ được học. Kinh này do chính Thiên chúa Brahma mặc khải cho các thầy Bà la môn tự không biết bao nhiêu đời rồi.

- Thế sao phụ vương không đọc kinh mà lại phải mời các thầy ấy đọc thưa mẹ?

- Chỉ những người sinh ra trong dòng họ Bà la môn mới có quyền xướng tán và đọc tụng kinh này thôi con ạ. Họ thuộc giai cấp tăng lữ. Vì vậy các nhà chính trị như phụ vương con uy quyền nhiều như thế mà cũng cần phải nhờ tới họ.

Siddhatta suy nghĩ về những điều mà bà Gotami vừa nói. Cậu lặng yên hồi lâu rồi chắp tay hai tay lại:

- Xin mẹ trở lại với phụ vương con đi. Mẹ xin phép cho con được ở lại đây chơi. Ngồi dưới cây hồng táo này con thấy vui và khỏe quá thưa mẹ.

Chiều con, bà Gotami gật đầu. bà lấy bàn tay vuốt lại tóc trên đầu Siddhatta, mỉm cười rồi trở lại lối cũ.

Các thầy Bà la môn đã kết thúc việc đọc kinh. Vua Suddhodana đã bước xuống ruộng, nắm lấy cán cày, và với sự phụ tá của hai vị võ quan, đi luống cày đầu tiên của mùa làm ruộng mới. Quần chúng hoan hô vang dội. Các nông dân trong vùng bắt đầu xuống ruộng làm theo vua, cày những luống đầu tiên trên ruộng họ. Nghe tiếng hò reo, Siddhatta cũng chạy ra đứng ở bờ ruộng. Cậu thấy một con trâu đang nặng nhọc kéo cày, theo sau là một bác nông dân thân hình lực lưỡng, nước da như đồng đen. Tay trái bác cầm cày, tay phải bác cầm roi quất vào lưng trâu. Trời nắng gắt và mồ hôi ông ta chảy ra nhễ nhại. Đất lật ngửa rẽ ra thành luống hai bên lưỡi cày, thật đẹp. Có những con giun bị lưỡi cày xắn làm hai khúc, quằn quại trên luống đất mới cày. Có những con chim bay sà xuống xuống thấp, mổ những con giun và đứng ăn giun trên luống đất mới. Rồi cậu thấy một con chim lớn sà xuống, cặp một con chim nhỏ bay lên.

Siddhatta đứng xem mải mê một hồi ngoài nắng, và đến lượt cậu, cậu cũng thấy mồ hôi chảy ướt trong người. Trời nóng quá, Siddhatta chạy về núp ở dưới cây hồng táo. Những hình ảnh mà cậu vừa chứng kiến đối với cậu thật là mới lạ. Những hình ảnh ấy kích thích cậu. Siddhatta tới dưới cây hồng táo, ngồi xếp bằng và nhắm mắt lại để chiêm nghiệm về những gì đã thấy. Cậu ngồi rất thẳng, rất đẹp và khá lâu. Khắp nơi quần chúng đã bắt đầu tập họp ca hát, đàn địch, nhảy múa. Có những người đã bắt đầu dọn cỗ bàn trên những bờ ruộng hay dưới những bóng cây. Nhưng Siddhatta vẫn ngồi yên chăm chú vào những hình ảnh trong nội tâm, không nghe thấy gì. Một lát sau, khi vua và hoàng hậu tới cây hồng táo để tìm con thì Siddhatta vẫn còn ngồi đó. Hoàng hậu Gotami cảm động đến muốn khóc khi thấy Siddhatta ngồi đẹp như bức tượng nhỏ dưới gốc cây, nhưng vua Suddhodana thì khác. Vua cảm thấy lo ngại, chín tuổi mà con mình đã biết ngồi trầm tư như thế thì lời ông đạo sĩ Asita có thể thành sự thực. Phiền muộn, vua truyền lấy xa giá về cung trước, không ở lại dự tiệc trên bãi cỏ với quần thần.

Một đám trẻ con dân dã đi ngang qua đùa giỡn lớn tiếng. Bà Gotami đưa tay ra hiệu cho bọn trẻ im lặng. Bà chỉ cho bọn trẻ thấy Siddhatta đang ngồi dưới gốc hồng táo. Bọn trẻ đứng lại im lặngnhìn, bỗng nhiên Siddhatta mở mắt. Thấy hoàng hậu, thái tử mỉm cười:

- Mẹ ơi, đọc kinh cũng không giúp được những con chim và những con giun, mẹ ạ.

Siddhatta đứng dậy chạy đến cầm tay bà Gotami. Cậu nhìn bọn trẻ con nhà dân dã đang đứng yên nhìn cậu. Các em bé này cũng trạc tuổi với Siddhatta nhưng ăn mặc rách rưới, mặt mày lấm láp và tay chân gầy ốm. Nhìn lại sắc phục của mình, Siddhatta thấy ngượng. Tuy nhiên cậu rất ưa chơi với bọn này. Siddhatta cười và đưa tay vẫy bọn trẻ. May cho Siddhatta là có một đứa con trai cười đáp lại. Được khuyến khích bằng nụ cười đó, Siddhatta quay lại xin phép mẹ cho bọn trẻ con được tới tham dự cuộc vui trên bãi cỏ với mình, Bà Gotami lưỡng lực một chút rồi gật đầu chiều ý thái tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 2989)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20255)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3861)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8382)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7948)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9454)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4724)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2919)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4074)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3732)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]