Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bên Cội Mai Già

20/01/201107:35(Xem: 3557)
Bên Cội Mai Già
hoa mai 2
Tôi giật mình thức giấc khi nghe tiếng chim hót líu lo líu rít bên ngoài: - “Ôi! Tiếng chim hót ở đâu, sao giống miền quê mình đến thế...” Vươn vai đứng dậy, tôi nói trong tiếng ngáp dài rồi chợt im bặt lại khi kịp nhớ ra... đây chẳng phải là những nơi mà mình từng đến từng đi trong suốt mấy chục năm qua.

Phải rồi. Tôi đang trở lại với ngôi chùa của mình. Ngôi chùa của ngày xưa. Trở lại khi tất cả cảnh vật và thời gian đã quá nhiều thay đổi. Ngôi chùa sau mấy lần tu sửa, bây giờ là một ngôi bảo điện với những nét hoa văn kiến trúc thời hiện đại. Tuy vị Sư huynh đáng kính cố gắng bảo tồn vài di tích cũ mà cũng không thể làm gì hơn được. Người nói với vẻ nuối tiếc trong ngày đầu tiên tôi trở về:

- Sư huynh muốn giữ lại mấy cây cột kèo nơi chánh điện, nhưng mối mọt đã đục khoét gần hết. Mấy cây cột Thầy và mấy huynh đệ đã vào rừng đốn về. Kỷ niệm của một thời. Cũng là tâm huyết của Thầy mình ngày ấy...

- Thôi Sư huynh ạ! - Tôi buột miệng ngắt lời - Những cột gỗ non đó làm sao có thể chống chọi mãi với thời gian. Con người còn không thể giữ được nữa là...

Sân chùa còn lại cội mai già được vun đắp thêm bởi lớp đất đen xốp và bao bọc bằng những viên gạch thẻ để giữ gốc. Cây mai này Sư phụ mang về trồng từ hồi con đường đến chùa còn là lối mòn quanh co đi qua các xóm nhà lá thưa thớt. Trải bao phong sương tuế nguyệt, gốc mai như được tiếp sức thêm từ hơi ấm và khí lạnh của lòng đất nên càng to gốc lớn cành. Đây là di vật của Thầy mà Sư huynh còn giữ. Sư huynh đã giữ được nhiều thứ. Bởi chỉ có người là còn ở lại nơi này, là chứng nhân duy nhất cho bao lớp người đi qua và một thế hệ người đang còn hiện hữu...

Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa. Đâu đó còn đọng lại chút hình ảnh thân quen ngày nào. Cảnh vật và con người mặc nhiên tươi tắn như nắng sớm buổi ban mai còn ướt đẫm sương trời. Rồi mai này nắng sẽ lên cao, cỏ cây rồi sẽ lớn. Mưa nguồn và cát gió sẽ vun mầm cho những thân cây non vươn lên hấp thụ tinh khí mặt trời mà xanh mầm trổ quả. Nhưng đã có lúc, gió bão nơi vùng quê hương đã đẩy mỗi người con Phật đi về một phương trời. Nơi bến bờ xa thẳm, lòng người ra đi vẫn còn lưu giữ chút hồn quê đọng lại bên mái hiên chùa.

Một cảnh chùa nghèo yên tĩnh nơi vùng đất còn hoang hóa. Ngày ngày mấy Thầy trò vào rừng chặt tre nứa cắt cỏ tranh. Sau đó lại ỳ ạch đèo về bằng xe thồ để làm cột chùa cất mái lá. Chùa mới thành lập mà chúng điệu cũng ngót nghét gần hai chục. Mấy Sư huynh lớn có thể phụ giúp Sư phụ làm vườn trồng lúa trồng khoai, lo tất mọi việc trùng tu xây dựng. Tôi và cả chục chú đồng trang lứa, tuổi đời mới lên tám lên mười, ăn chưa no lo chưa tới, thì được Thầy cho đi học văn hóa trường làng. Trường ở ngoài xóm chợ, hằng ngày phải lội bộ gần nửa giờ mới tới. Có hôm trời mưa lớn, đường đi ngập lụt. Sư phụ bảo Sư huynh chở đến lớp. Chiếc xe đạp sườn ngang, gắn yên xe thồ phía sau để tiện việc chuyên chở bắp đậu ra chợ đổi gạo. Sư huynh đặt tôi ngồi ở sườn trước, phía sau đèo thêm hai chú nhỏ nữa. Xe chạy phăng phăng qua mấy vũng nước lầy lõm. Sình đất văng đầy, hai chú ngồi sau lãnh đủ. Gặp mấy đoạn cua gấp, hay phải tránh các chướng ngại vật, Sư huynh bèn đưa thẳng chân phải lên ngay bánh trước để thắng lại. Loại xe này thường không gắn thắng và cũng chẳng có chắn bùn. Thế là kẻ ngồi trước mặc sức hứng lấy những tia nước đục ngầu bắn lên tung tóe. Phải như ngày ấy người ta tổ chức giải đua xe đạp đường lầy, chắc thế nào Sư huynh tôi cũng giật được thứ hạng cao nhất. Chỉ tội cho chúng nhỏ đi học mà mặt mày lúc nào cũng lem luốc, áo quần thì bê bết lấm bùn, nom chẳng ra dáng một học sinh tí nào.

- Ngày ấy chúng mình hành điệu thật kham khổ vất vả, nhưng cũng có nhiều kỷ niệm vui, Sư huynh hỉ? - Ừ! Thiếu thốn mọi thứ. Ăn thì chỉ nước tương với rau hái ngoài vườn, mà cơm chẳng no lòng, nói chi đến quà vặt trái cây. Mặc thì chỉ được vài bộ vải thô sơ, lại chẳng mấy lúc được lành lặn sạch sẽ. Vậy mà cảnh thiền môn vẫn tràn đầy tiếng cười nói ý vị. Mọi người vẫn hồn nhiên vui, hồn nhiên sống một đời an bần lạc đạo. Nếp sống thanh bạch chẳng khác gì cây cỏ giữa rừng xanh, chỉ nhờ hấp thụ tinh khí của đất trời mà sanh sôi nảy nở.

- Sư huynh nói chuyện văn vẻ và có ý vị ghê. Ngày xưa Thầy nhìn người quả không lầm mà. Biết ngày sau huynh sẽ kế thừa tông phong, làm rạng danh Đạo pháp nơi quê nhà.

Sư huynh cười sau cái lắc đầu nhẹ nhàng tế nhị. Vẫn nụ cười hiền khô như ngày nào. Nụ cười hàm chứa bao vẻ thân tình dễ dãi. Người huynh trưởng luôn là niềm kỳ vọng tin tưởng của Sư phụ, lại luôn sống cần kiệm hài hòa và hết lòng thương yêu huynh đệ. Mà những sư đệ của người thì phần nhiều tâm hồn còn trẻ con nên ưa thích chuyện vui đùa nghịch ngợm, do đó mà không ít lần gây phiền lụy đến người anh cả. Những “sự cố” về thời hành điệu thì nhiều vô kể, nhưng tôi vẫn nhớ sự kiện trốn Thầy đi xem hát vào một đêm trăng Rằm. Hôm ấy có gánh cải lương về đình. Chúng tôi thích đi xem, nhưng sợ Sư phụ nghiêm khắc không dám xin. Đến tối sau giờ tụng kinh, Sư huynh bảo: - “Mấy chú cứ giăng mùng, bỏ đồ đạc tập vở vào đó rồi đắp chăn lên, giả như đang nằm ngủ. Huynh sẽ mở cửa cho đi và canh chờ lúc mấy chú về”. Quả là cao kiến. Hôm ấy đèn nhà Tổ vẫn để sáng. Như thường lệ, Sư phụ đinh ninh Sư huynh ngồi học bài với huynh đệ nên không xuống tuần tra. Mọi việc diễn ra thuận lợi. Nào ngờ sáng hôm sau, Thầy gọi tất cả lên tra hỏi ai bày ra cớ sự trốn đi xem hát hồi đêm. Sư huynh đứng ra chịu hết trách nhiệm và xin Thầy tha cho mấy sư đệ... Lại có lần tôi và điệu Tri chơi giỡn làm bể chậu hoa sứ. Chúng tôi sợ hãi chưa biết làm thế nào, thì thấy Sư huynh đã mặc áo tràng bước vào hậu liêu xin nhận tội với Sư phụ... do mình tưới cây sơ ý làm rớt chậu hoa mà người rất yêu quý...

- Đệ nhớ nhiều chuyện thật. Huynh thì chỉ nghĩ làm sao huynh đệ mình có được một ngày hội tụ. Mọi người có những giây phút tâm tình cùng ôn cố tri tân. Nhắc lại chuyện xưa để nhớ tưởng bao ân đức các bậc Tôn sư khai sáng và cũng là nhắc nhở sách tấn cho đàn hậu học...

Mấy ngày trở về, huynh đệ cứ luôn miệng nói đến cây mai già - kỷ vật của Sư phụ và cũng vì mùa xuân sắp về rồi. Cây mai có tuổi thọ đã hơn ba mươi năm rồi chứ ít gì. Mỗi năm gốc càng to thì nhánh táng càng vươn rộng, hoa nở càng nhiều. Tôi chưa từng thấy và cũng không ngờ chùa quê mình còn có cây mai đẹp như vậy. Hồi đó, cứ mỗi lần lặt lá mai tôi lại hỏi Thầy: - Sao mùa đông mà cây mai không tự rụng lá như mấy cây khác để mình phải mất công lặt... mất công chờ đúng ngày nó mới chịu ra hoa.

Sư phụ cười rồi phân tích theo lập luận của mình: - Đó là đặc tính của giống mai đấy. Vì nó là cây sống nơi vùng nhiệt đới, không từng nếm trải cái rét buốt của mùa đông, nên quanh năm lá cứ xanh, bất chấp thời tiết nắng mưa thay đổi. Hoa chỉ nở trong mấy ngày xuân, khi lá đã được lặt sạch chỉ đủ cho con người thưởng thức trong lúc nhàn hạ vui xuân này. Sau đó những mầm lá non nhú lên, thân mai lại có một cuộc sống mới. Mỗi năm người ta có thể chiết cành lá đem đi khắp nơi. Nhưng cội mai già vẫn sống, vẫn vươn cành trổ nhánh, chờ đợi một lần trổ hoa khác, một mùa xuân khác trở về.

Khi xa hẳn mái chùa tôi mới có dịp nghiền ngẫm lại những lời Thầy dạy về sự sống của cây mai. Ôi ! Lòng Thầy và mảnh đất một thời sỏi đá đã dưỡng nuôi biết bao mầm xanh thơ dại. Thời gian dài giúp cho cội rễ càng đâm sâu vào lòng đất, thì nhành lá cũng mặc sức vươn cao. Khi chu kỳ đến... cây mai lại lan tỏa chút hồn khí trinh nguyên để cho trời đất kịp bước sang mùa đơm hoa thay lá.

- Huynh đệ mình ngồi đây thưởng thức chén trà sớm đi.

Chú tiểu bưng ra bộ tách trà và bình nước nóng đặt trên chiếc bàn đá, bên gốc mai già. Tôi ngồi xuống đối diện, lặng lẽ nhìn Sư huynh châm trà ra tách. Từng cụm khói bay lên, lan nhẹ vào không gian chút xuân tình ý vị...

- Hằng năm Tết đến, Sư huynh có thể cắt và tỉa ra mấy chục nhánh mai. Đem cắm trên chùa, nhà Tổ, phòng khách và cho khắp cả xóm. Cành lá cứ vẫn sum suê như vậy đấy. Hồi mới làm chùa lại thì gốc mai chưa lớn lắm mà đã có người tới hỏi mua. Nhưng huynh nhất định không bán. Dưới cội mai này, để huynh đệ về thăm có chỗ ngồi lại uống trà đàm đạo. Nhành lá có thể cho, còn gốc thì không thể bứng. Đó là lời Sư phụ từng dạy. Gốc rễ còn thì còn tất cả. Người tu sĩ mình đi hành hóa muôn phương, nhưng không thể quên nguồn cội tâm linh... với nơi mình đã từng gieo lên những hạt mầm niềm tin và trí huệ ban đầu...

Một cuộc hành trình mới đi hết hơn nửa đoạn đường, một chén trà sớm còn chưa vơi cạn đáy; rồi đây cũng sẽ vụt qua nhanh như mọi vết mờ quá khứ. Những gì còn đọng lại không gì hơn là tình sư môn nghĩa đạo mầu... trải qua năm tháng vẫn ấm áp như ánh xuân hồng bên cội mai vàng tươi sắc thắm.

Lam Khê
(Hoằng Pháp)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8779)
Ðại sư Lục tổ Huệ Năng, một nhân vật lịch sử đang đi vào huyền thoại. Sự tích của ngài, mặc dù đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen là quyễn kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, thế nhưng, những mẫu chuyện huyền hoặc về cuộc đời ngài, thỉnh thoảng vẫn làm mờ đi phần nào sự thực.
08/04/2013(Xem: 15396)
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ý đến.
08/04/2013(Xem: 16718)
Bộ kinh Bách Dụ gồm 98 bài thí dụ của Phật nói do Ngài Pháp Sư Tăng Gia Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: "Thuốc hay hòa trong đường phèn", "Dùng là gói thuốc A Dà Ðà" là của Pháp Sư tự soạn, để tổng dụ cho diệu lý đủ trong những thí dụ trên.
08/04/2013(Xem: 33885)
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
08/04/2013(Xem: 12620)
Ước mong rằng người đọc cũng như người nghe truyện sẽ ghi nhớ mãi trong tâm cái nếp sống đạo đức chân chính cùng những lời khuyên dạy quý báu của vị Bồ Tát trong truyện để cùng nhau cố gắng noi theo hầu đạt được cái Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống hàng ngày.
08/04/2013(Xem: 14914)
Từ ngày Ngài xuất hiện đến nay, trên hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua bao nhiêu lớp người trồi sụp, bãi bể nương dâu đã mấy lần thay đổi: những vết tích đã xoá nhoà trong trí nhớ của người đời, những nét chữ đã lu mờ trong sách sử. Di tích của Ngài tuy được giừ gìn trong các đền chùa tháp điện, cũng không khỏi lấm màu sắc thời gian.
08/04/2013(Xem: 16291)
Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo... tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu. Viết xong từng đoan, đọc lại, cười. Như đọc văn của ai. Thích hơn khi viết về Người, bởi nghĩ rằng viết về Người đã có nhiều ngòi bút khác viết rồi. Ðằng này do mình tưởng tượng dựng ra thì hy vọng chúng mang trọn vẹn bản sắc của tâm hồn mình.
08/04/2013(Xem: 12657)
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí. Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, . . .
08/04/2013(Xem: 16551)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda. Cả hai vị này đã từng sống nhiều năm tại Tây Tạng, từng tu tập thiền định và đi khắp nơi trong xứ sở huyền bí này hơn bất cứ người nước ngoài nào khác. Có thể nói họ hiểu Tây Tạng với bất tất cả những khía cạnh tâm linh, tâm lý, địa lý nhiều hơn cả phần đông người Tây Tạng.
08/04/2013(Xem: 3803)
Tháng 10 mùa thu, đề tài muôn thuở để bao văn nhân thi sĩ trên thế gian này múa bút. Kẻ tán tụng, người than van. Nhưng tựu trung không ai phủ nhận mùa thu đẹp với những chiếc lá vàng rơi phủ đầy lối đi, đường phố. Rồi thì khách bộ hành, những cặp tình nhân tay đan tay rảo bước đạp xào xạc trên lá vàng khô. Họ kéo cao cổ áo, nép vào nhau khi một làn gió nhẹ mơn man thổi đến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]