Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mây Tần, mây Hàng...

09/12/201005:53(Xem: 2584)
Mây Tần, mây Hàng...


Hàn Dũ (768-823) tự Thoái Chi, người đất Nam Dương, Châu Đăng (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), làm quan về đời vua Đường Hiếu Tông (806-820).
Theo "Liệt tiên truyện" thuật lại: một hôm Hàn Dũ mở tiệc hạ thọ, có người cháu gọi Hàn là chú tên là Hàn Tương tu tiên trong núi về bái mừng. Hàn Dũ thấy cháu lông bông, không chịu học hành lập chí bèn ngỏ lời khuyên. Tương thưa với chú:
- Cháu có học, nhưng học lối xuất thế.
Hàn không bằng lòng cho là hoang đường. Tương lại thưa:
- Đó là túc căn của cháu, cháu phải theo.
Hàn hỏi:
- Học như thế có ích gì? Kết quả ra sao?
Tương thưa:
- Sự học của cháu mênh mông như biển xanh, bàng bạc như mây trắng, nói khôn xiết. Chỉ biết khi học được tất chiều được ý muốn mọi người. Như chú thích rượu ngon, cháu xin dâng. Chú thèm quả ngọt, cháu cũng có.
Nói xong, Tương lấy nước lã đổ vào bình to để trước án. Một lúc, Tương đem bình ấy rót dâng Hàn và tân khách trong tiệc. Mọi người nâng chén đưa lên ngửi thấy mùi thơm, nhấp vào môi thấy rượu ngon quý. Quả là một thứ rượu tuyệt ngon, trên đời khó kiếm nên lấy làm kỳ lạ.
Tương lại hỏi chú:
- Cháu thấy chú thích ướp trà sen, cháu xin dâng chú loại sen Đông hải để dùng.
Hàn ngạc nhiên:
- Nay cuối đông làm gì có sen. Vả lại sen Đông hải làm sao mà hái về được? Cháu đoạt được cả quyền của Tạo hóa hay sao?
Tương mỉm cười, đoạn lấy vuông lụa phủ lên một lọ cắm bông. Khoảnh khắc mở ra có bó bông sen, hương thơm nức khắp phòng. Bông tuy lớn nhưng cánh lại nhỏ, nhụy trắng toát. Rõ ràng là sen Đông hải.
Sen còn hàm tiếu nhưng chỉ một lúc sau, sen nở lớn. Lạ thay, nhìn vào bông sen lại có hai câu thơ:
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại,
Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.
Nghĩa:
Mây ngang Tần Lĩnh nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.
Xem qua hai câu thơ, Hàn nói:
- Hai câu thơ rất hay nhưng không có ý nghĩa gì cả.
Tương thưa:
- Xin chú cứ nghiệm về sau sẽ rõ.
Năm sau, nhân việc Đường Hiến Tông cho rước xương Phật vào cung để thờ, Hàn dân biểu can gián bằng những lời rất mạnh. Xin trích một đoạn:
"... Tự hoàng đế cho đến vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Vũ đều hưởng thọ lâu dài, trăm họ yên vui mà thuở ấy chưa có Phật vậy. Đến đời vua Minh Đế nhà Hán mới có Phật pháp, về sau cứ loạn lạc mãi, các vua trị vì chẳng được bao lâu. Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần cùng nhà Ngụy thờ Phật càng ngày càng thêm kính cẩn thế mà niên đại rất chóng. Duy có vua Vũ Đế nhà Lương ở ngôi được 48 năm, ba kỳ xả thân đi làm tăng, sau bị giặc Hầu Cảnh bức phải chết đói. Thờ Phật cầu phúc mà lại phải vạ. Lấy đó mà xem, thờ Phật không nên tin cũng khá biết vậy ..." (Bản dịch của Lệ Thần Trần Trọng Kim).
Vua Hiến Tông cả giận hạ lịnh đem Hàn ra xử tử. May nhờ tể tướng Bùi Độ và các quan đồng liêu hết sức kêu xin hàn mới thoát khỏi tội chết. Nhà vua liền giáng chức Hàn làm thứ sử ở Triều Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Đông), và hạn trong 8 ngày phải có mặt tại sở nhậm. Nếu trễ sẽ chết chém.
Đường từ Trường An (kinh đô nhà Đường) ra đến Triều Châu đến 8 ngàn dặm, đường sá lại gập ghềnh hiểm trở, đèo núi cheo leo. Đi ngựa cả tháng chưa chắc đã đến nơi, thế mà lịnh vua chỉ có 8 ngày. Tuy vậy, Hàn không dám trái lịnh, lập tức cùng hai gia nhân lủi thủi lên đường. Bè bạn sợ vạ lây không ai dám đưa tiễn.
Ba thầy trò Hàn đi suốt ngày đêm, ăn cơm khô, uống nước bầu trên ngựa, không dám nghỉ ngơi quán dịch mà 8 ngày rồi, mới đến Lam Quan.
Lúc bấy giờ đương tiết đông, nơi cửa ải Lam Quan mưa dầm gió bấc, tuyết xuống đầy đường. Những tảng tuyết cao và trơn như mỡ, ngựa không thể nào đi được. Hàn và hai gia nhân đành phải xuống ngựa đi bộ. Chẳng may cả ba lại lạc vào rừng, bốn phía vắng tanh, tìm mãi không thấy lối ra và cũng chẳng gặp ai để hỏi.
Suốt bao nhiêu ngày gian lao như thế làm cho người Hàn sút ốm quá nửa, đầu cơ hồ bạc. Lòng Hàn bàng hoàng chán nản, tự nghĩ vì công danh mà chịu nỗi lao đao. Hàn bấy giờ có ý định bỏ quan vào rừng ẩn náu, thoát vòng cương tỏa.
Ý đã quyết, Hàn định trở lại nhưng không biết đường nào ra. Bốn phía tuyết phủ mịt mù, gió rít từng cơn. Trên đỉnh rặng núi Tần Lĩnh mây trắng lững lờ trôi, cố hương nào biết nơi đâu mà về?
Lúc ấy, Hàn mới chợt nhớ đến hai câu thơ trong bông sen năm trước mà cháu là Hàn Tương đã nhắc Hàn suy nghiệm về sau sẽ biết. Thật là đúng với quang cảnh của Hàn lúc này. Trong lúc tấn thối lưỡng nan, trời mịt mù sắp tối, tuyết đổ xuống càng dầy, gió thổi càng mạnh, mưa bay càng nặng, bỗng nghe như có tiếng gọi văng vẳng sau lưng. Hàn quay lại thì ra Hàn Tương.
Hàn Dũ mừng rỡ, biết cháu đến là có ý cứu mình bèn đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Tương nghe. Tương bảo:
Nếu thúc phụ muốn đến Triều Châu ngay bây giờ thì hãy bỏ ngựa đi thuyền. Đêm nay sẽ đến Triều Châu đúng hạn.
Hàn Dũ nghe lời. Tương đưa ba thầy trò ra khỏi rừng. Đến bờ sông Chương thấy sẵn có một chiếc thuyền cắm sào trên băng tuyết. Nước Chương giang đóng thành băng một giải liền như tấm lụa trắng. Tương bảo ba thầy trò Hàn vào trong thuyền ngồi và nhắm mắt lại để Tương đưa đi.
Ba thầy trò nghe theo nhắm chặt mắt lại, tai chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù, tiếng thuyền rẽ sóng nước ào ào. Độ một giờ sau, thuyền ngừng lại, tiếng gió, tiếng nước vắng lặng, bấy giờ thầy trò mới mở mắt ra. Thì ra bến Triều Châu ở ngay bên cạnh. Cả ba mừng rỡ lên bờ vào dinh thứ sử Triều Châu nhậm chức.
Nhớ đến chuyện long đong, lận đận, nhứt là hai câu thơ trong bông sen ngày nọ đã tả đúng cảnh lạc loài cô đơn và nỗi nhớ nhà nơi rừng thẳm bên ải Lam Quan và núi Tần Lĩnh nên Hàn Dũ làm một bài thơ, nhan đề "Chế Lam Quan thị điệt Hàn Tương" (Đến Lam Quan bảo cháu Hàn Tương):
Sớm dân bản tấu vào cung khuyết,
Chiều đất Triều Châu bị biếm ra.
Muốn bỏ dị đoan cho đất nước,
Quản chi suy hũ tiếc thân già.
Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.
Hẳn cháu đến đây lòng đã định,
Chướng giang rồi nhặt nắm xương ta.
(Bản dịch của Bùi Khánh Đản)
Nguyên văn:
Nhất phong triêu tấu cửu hoàng thiên,
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên.
Bản vi thánh triều trừ tệ sự,
Cảm tương suy hũ tích tàn niên,
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại,
Tuyết ửng Lam Quan mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hão thu ngô cốt Chướng giang biên.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn nói về Từ Hải biệt nàng Kiều, để Kiều nương mình trong gian nhà nhỏ ở Châu Thai, thui thủi trông chờ cùng Từ tái hợp. Trong lúc phòng không lẻ bóng, mỗi khi nhìn thấy giải mây bàng bạc xa xa, nàng Kiều lại nhớ đến gia đình, cha mẹ nên có câu:


Đoái trông muốn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.


"Mây Tần" là lấy ở ý câu thơ trên: "Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại", nghĩa là "Mây kéo phủ núi Tần Lĩnh, biết nhà ta ở đâu". Nghĩa bóng nói nhớ nhà.
Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn nói về sự ghét thương của ông quán, có câu:

Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.

cũng do điển tích trên.
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh", đoạn nói về nàng Kiều lúc vào lầu xanh lần thứ nhứt ở Lâm Truy, gặp Thúc Sinh. Tên lái buôn này nhìn Kiều tắm, cảm hứng mới làm một bài thơ đoạn bảo Kiều họa lại. Kiều từ chối vì nỗi lòng nhớ quê hương, gia đình mà không còn ý nghĩ gì để làm được nữa, có câu:

Lòng còn gửi đám mây Hàng,
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

Đời nhà Đường, Địch Nhơn Kiệt được bổ làm Pháp tào Tham quân ở thành Tỉnh Châu. Cha mẹ thì ở đất Hà Dương, xa Tỉnh Châu có mấy ngày đường. Một hôm, Địch lên núi Thái Hàng, nhìn thấy một đám mây trắng bay một mình (bạch vân cô nhi) bèn nói với cả tả hữu: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó " (Ngô thân xé ư kỳ hạ).
Địch ngậm ngùi giờ lâu, đợi đám mây bay khuất mới về.
Cũng có bản chép là "Mây vàng": "Lòng còn gởi đám mây vàng", do câu thơ cổ: "Thiên thượng hoàng vân ảnh du tử hà thơi qui", nghĩa là: "Trên trời bóng mây vàng, gã xa nhà bao giờ về".
Trong bài "Tôn phu nhân qui Thục" của Tôn Thọ Tường cũng có câu:
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc.
"Mây bạc" cũng có nghĩa nhớ nhà, nhớ cha mẹ như điển tích trên.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 4839)
Mẹo hay Đánh cược với hòa thượng, cậu bé thắng một gánh củi nhưng để mất thứ quý giá gấp nhiều lần
30/03/2018(Xem: 9473)
Ngày xưa có chú nai hiền Nhởn nhơ vui sống giữa miền hoang sơ Trong khu rừng rậm ven bờ Sông Hằng cuồn cuộn sóng mờ nhân gian. Dáng nai đẹp đẽ dịu dàng Sừng trong nước ngọc, thân vàng ánh châu Nhưng mắt nai lắng u sầu Thương cho trần thế nhuốm mầu bi ai, Nai nghe, nói được tiếng người Nai là Bồ Tát một thời hiện thân. Bên nai muông thú quây quần Coi nai như mẹ muôn phần yêu thương
21/03/2018(Xem: 9720)
Tu Viện Quảng Hương Già Lam, thường được công chúng gọi ngắn gọn là Chùa Già Lam, tọa lạc tại quận Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, đây chính là nơi đào tạo tăng tài (cấp đại học) để hoằng dương chánh pháp, phụng sự Phật đạo. Ban đầu, chùa có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam, do lấy tên của một vị học tăng pháp danh Quảng Hương đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Sài Gòn.
16/03/2018(Xem: 15454)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 10047)
Đại hành giả yogi Milarepa sinh trưởng tại tỉnh Gungthang miền Tây Tây Tạng. Ngài là con trai của một chúa đất giàu có tên là Mila Sherab Gyaltsen. Nhưng năm lên bảy tuổi, cha Ngài lâm trọng bệnh và qua đời, trước đó ông đã giao phó toàn bộ gia sản và gửi gắm vợ con mình cho chú thím của Milarepa rồi dặn dò khi nào Milarepa trưởng thành thì chú thím phải trả lại tài sản cho Milarepa và cô em gái. Thế nhưng sau khi cha Ngài mất, người chú và người thím xấu xa tước đoạt toàn bộ gia tài, họ còn bắt ba mẹ con Milarepa phải làm việc như những kẻ nô bộc trên đồng ruộng mà không được trả công. Khi Milarepa lớn lên, chú thím không những không trả lại gia sản mà còn cho rằng đó là phần mà cha Ngài phải trả nợ cho họ. Tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục, mẹ của Milarepa gửi Ngài đi học huyền thuật để trừng phạt những kẻ vong ân bội tín. Chẳng bao lâu sau, Milarepa thành thục quyền năng huyền thuật hủy diệt và trong khi trả thù chú thím, Ngài đã sát hại rất nhiều người vô tội. Vô cùng hối hận t
13/03/2018(Xem: 8677)
Tôi rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật giáo, trên website của Gia đình Mũ đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn & Phụ cận, Trước khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân mình, điều mà rất hiếm khi tôi thường nói đến. Vì tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí gì về võ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, thì khi nói đến ai mà tin. Vì vậy tôi phải nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật giáo sau này.
09/03/2018(Xem: 11876)
Tuy là thầy của Nhật Hoàng Thiền sư vẫn thích lang thang du hành Ngài tuy đã rất nổi danh Vẫn làm khất sĩ dạo quanh khắp vùng. Một hôm ngài chợt tạm ngừng Ghé ngôi làng nhỏ trên đường lãng du Trời chiều tăm tối âm u Mưa rơi tầm tã, gió ru lạnh lùng Thân ngài thấm ướt vô cùng Dép rơm tơi tả muốn bung đứt rồi. Tại ngôi nhà nhỏ ven đồi Thấy vài đôi dép bày nơi cửa ngoài Ngài bèn ghé lại tìm người Hỏi mua dép mới thay đôi cũ này, Một bà ở tại trong đây Biếu ngài đôi dép. Lòng đầy xót xa
01/03/2018(Xem: 9321)
Con người còn sống là còn nhiều chuyện để làm, để nói, và suy nghĩ. Ngay cả sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác. Dù tu chứng đến thành Phật hay Bồ tát thì các ngài vẫn có chuyện để làm, đó là tiếp tục ra vào sinh tử độ sinh, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt nhưng sự sống và dòng đời trôi chảy bất tận.
01/03/2018(Xem: 14276)
Từ lâu Kinh Phật dạy rồi: "Những điều chứa ẩn ở nơi Tâm người Luôn luôn biểu lộ ra ngoài: Tâm như họa sĩ đại tài khéo tay Vẽ muôn hình tượng giống thay, Chúng sanh nên gắng tu ngay Tâm mình!".
04/02/2018(Xem: 5061)
Các trung tâm Bưu điện Úc ( Australia Post – Mail Centre ) có thể nói là nơi dung nạp hay nói đúng hơn là nơi lựa chọn công việc để nương thân của một số những người VN tỵ nạn trong những năm đầu tiên được định cư nơ xứ sở tốt đẹp nầy. Công việc được tuyển dụng vào các trung tâm thư tín nầy là lựa thư ( mails sorting ) và đã được hệ thống Bưu điện Úc gọi cho một cái tên tương đối cũng vui vui là “Mail Officer “ . Việc làm tương đối không có gì cực nhọc, lương bổng cũng tạm hài lòng so với những công việc hiện thời, nhiều over time nên càng có cơ hội để kiếm thêm tiền, công việc vững vàng, ổn định, vì là thuộc diện Job chính phủ, rất hợp cho hoàn cảnh của những người VN tỵ nạn nữa thầy, nữa thợ nơi đây, nói vậy chứ một số lớn người VN làm cho ngành Bưu điện Úc, ngoại trừ một số người có mưu cầu cao hơn, thì cũng ít người bỏ việc nữa chừng, họ đã từ cái job nầy mà được ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao, của rộng, xe cộ xênh xang, đời sống khá vững vàng, đủ điều kiện lo cho con cái ăn học nê
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]