Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mười năm tình cũ

20/03/201709:16(Xem: 5255)
Mười năm tình cũ


hoa hong 2

MƯỜI NĂM TÌNH CŨ

Chân Y Nghiêm

Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat.

Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.

Dọc theo hai bên đường, những cánh đồng nho đựơc trồng thẳng tắp, xanh muớt trải dài xa ngút tầm mắt. Rồi tới những ruộng lúa mạch chin vàng, được người nông dân cắt bằng máy, để lại trên cánh đồng những đụn giạ cuốn tròn to như cái nong, nằm xếp dài trên ruộng khô màu đất nung.

Đường từ phi trường về Làng xa 120km, Thầy Pháp Độ cầm tay lái, ngồi cạnh bên mẹ mới từ Việt Nam sang thăm con. Chung quanh tôi là những Phật tử Việt Nam. Tất cả đều có mục đích đựơc gặp Sư Ông và tham dự khóa tu Mùa Hè. Tôi quan sát hai bên đường, muời năm qua mà sự thay đổi không nhiều. Bỗng tiếng thầy Pháp Độ nói :

-Sư cô Y Nghiêm coi kìa: Hoa Hướng Dương đang vẫy chào mọi người đó !

Cánh đồng hoa hướng dương vàng óng hiện ra truớc mắt. Từng bông hoa to như cái đĩa màu vàng lung linh ngả nghiêng theo gió, dệt thành tấm thảm lớn rợn sóng trong ánh nắng gay gắt mùa hè.

Xe đi qua làng quê xanh ngát rừng mận, rừng sồi, qua những con phố nhỏ có những ngôi nhà cổ, có lẽ đựơc xây dựng cả trăm năm rồi. Những cảnh vật từ muời năm trước bây giờ vẫn vậy, ít thay đổi. Tôi nói với Thầy Pháp Độ:

- Ở đây yên bình quá, không thay đổi nhanh chóng như ở Việt Nam.

Thầy chỉ cho tôi khu phố mới xây:

-Sư cô nhìn những ngôi nhà mới kia, chúng mới đựơc quy họach thành khu dân cư để dãn dân từ thành phố về. Mỗi căn rộng 150m2, đầy đủ tiên nghi mà giá chỉ có 200Euro, chưa kể đất vườn. Nhà ở đây rẻ hơn ở Việt Nam, thế nên người Việt cứ muốn sang đây lập nghiệp, chẳng chịu ở quê nhà.

Thầy dừng xe, vào tiệm bánh mì, ôm ra muời ổ bánh mì Baguette nóng hổi và những ổ bánh mì bơ thơm phức trao cho chúng tôi, cười nói:

-Đến nước Pháp, đầu tiên phải đựơc nếm mùi vị bánh mì nổi tiếng của Pháp.

Nhai từng miếng bánh mì thơm ngon, tôi cảm thấy niềm biết ơn những người nông dân và những công dân Pháp hiền lành. Họ đã dang rộng vòng tay chào đón cộng đồng người dân Việt Nam tị nạn, đã hoan hỉ tiếp nhận sinh họat Làng Mai, hòa nhập với dòng văn hóa Phật Giáo Việt Nam, khiến chúng tôi về đây thấy gần gũi, thân thiết như trở về quê hương của Bụt.

Thầy Pháp Độ đưa chúng tôi về Xóm Trung, dành cho người Việt. Vẫn khóm tre rợp bóng mát nơi đầu ngõ. Vẫn rặng trúc xanh thân gầy đứng cạnh bên hiên dãy nhà làm bằng gỗ, vẫn cái sân rộng lợp ván trước bãi cỏ…Tất cả vẫn nguyên sơ như muời năm truớc tôi đến thăm, có khác hơn là rất nhiều người Việt Nam từ các nuớc trên thế giới về đây tham dự khóa tu, gặp nhau tay bắt mặt mừng, hớn hở như về dự lễ hội mùa hè nơi quê ngọai.

Người Việt Nam về đông quá, phải ở lều hoặc đi thuê nhà dân.

Tôi đựơc các sư em đưa về Xóm Mới-New Hamlet- nơi cách đây 14 năm, tôi đã đựợc Thầy và Tăng Thân cho ra đời như một bé sơ sinh, trong hình tướng xuất gia giải thóat.

Tiếng khánh buổi sáng báo thức giờ công phu. Các thiền sinh ngọai quốc ngồi nghiêm trang, tĩnh lặng trong thiền đường màu tím. Tôi ngồi yên, theo dõi hơi thở vào ra trong tiếng hướng dẫn thiền tập bằng tiếng Anh của sư em người Nhật:

Thở vào tôi biết Mẹ đang ở trong tôi. Thở ra tôi biết Mẹ đang cùng tôi ngồi thiền tập. Thở vào tôi biết Ba đang ở trong tôi, thở ra tôi biết Ba đang cùng nhịp thở

Cứ như thế, sư em đưa chúng tôi về suối nguồn tâm linh, chảy luân lưu theo dòng máu nội ngọai nơi quê hương Việt Nam yêu dấu. Mẹ tôi mất khi đất nuớc phân ly, năm tôi 13 tuổi. Cái tuổi bé bỏng ấy mất mẹ thì như mất cả bầu trời. Tôi theo Ba và các anh chị vào Saigon, tìm tự do trong cuộc sống mới..

Trải qua bao sóng gió thăng trầm của lịch sử, chúng tôi sống và lớn lên trong sợ hãi, bơ vơ, mất định hướng. Chúng tôi quay cuồng trong cơn gió lốc chiến tranh tương tàn, giới thương mại thì làm giàu mau chóng nhờ chiến tranh, giới quan chức, quân nhân cao cấp thì bóc lột xương máu nhân dân, ăn xài phung phí nơi các vũ trường để cho các chiến sĩ gục ngã nơi trận tuyến như rơm như rạ, gây đau thương tang tóc phủ trùm khắp quê hương. Phong trào văn nghệ năm 1970 mang sắc thái bất mãn, chán nản, rên rỉ, chống chiến tranh khiến lòng người bi thảm

Tôi lớn lên trong bối cảnh đó, tâm hồn khắc khỏai bơ vơ. Nhiều khi tỉnh giấc, tôi không biết tương lai mình sẽ đi về đâu, tôi sẽ phải làm gì để tìm cho mình một bến bờ hạnh phúc, nơi đó mọi người đều no ấm, thương yêu nhau và sống trong độc lập-tự do !

Giữa cơn thao thức ấy tôi đựơc gặp Thầy Nhất Hạnh. Thầy đã chỉ cho tôi con đường giải thóat của đức Thế Tôn. Thầy đã dậy tôi lí‎ tưởng sống vị tha, nuôi dưỡng tình thương yêu, mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho mọi người.

Rồi những biến cố dồn dập xảy ra, Thầy phải sống ly hương còn chúng tôi thì lạc lõng nơi quê nhà !

Cuộc sống là một chuỗi dài vô thường miên viễn. Nó đến đi, thay đổi từng sát na. Cuối cùng sông cũng về với biển. Năm 1998, tôi về Làng Mai, đựơc xuất gia cầu đạo với Thầy như niềm mong ước.

Tôi đã thực tập Thiền Chánh Niệm, nhận ra từng tâm hành diễn biến trong tâm, tôi đã buông xả dĩ vãng buồn vui, đã quăng đi những lo âu, đau thương, cay đắng của quá khứ, sống hồn nhiên như baby vừa mới đựơc sinh ra. Được sống hạnh phúc bên Thầy và Tăng Thân, nhưng tình quê hương vẫn luôn sống dậy trong tôi, vẫy gọi tôi về, dù tôi biết rằng quê hương tôi vẫn còn đầy rẫy những điều chưa tốt, chưa thực sự có nhân quyền và tự do, tôn giáo vẫn còn bị hạn chế, và còn rất nhiều chướng ngại. Tôi thấy tình yêu quê hương là dòng máu đỏ đang chảy khắp châu thân. Tôi thực sự hòa nhập vào hồn dân tộc. Đã nhiều năm qua, tôi theo gương cụ Phan Chu Trinh và các bậc tiền bối, làm chương trình học bổng Hiểu-Thương, giúp cho các em sinh viên học sinh nghèo hiếu học, đã thành lập Gia Đình Hiểu-Thương, sinh họat hàng tháng để trao truyền cho các em nhân cách sống, đạo đức văn hóa dân tộc, biết yêu thương gia đình, quê hương và tất cả mọi người. Tôi phải về để ít ra, tôi cũng đóng góp đựơc chút hữu ích cho quê Mẹ, mong đền ơn đáp nghĩa bao thế hệ ông cha đã gục ngã gìn giữ giống nòi. Với ‎ước mong đơn giản ấy, năm 2002, tôi đã xin Thầy và Tăng Thân đựơc trở lại quê nhà.

Thế rồi, ‎ước mơ khó thành mà đừờng trở về Làng Mai thì bị bít lối. Tôi sống ẩn tu. Bốn năm sau, tôi cùng cô Trần Kim Vân tiếp tục làm Học Bổng Hoa Tình Thương, giúp cho nhiều học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, các vùng nông thôn bão lụt, miền núi xa xôi, các cụ già cô đơn, các cháu cô nhi khuyết tật. Dù công sức chúng tôi đóng góp chỉ như những hạt muối nhỏ rắc trên biển, nhưng tôi cũng tự an ủi mình là không thấy thẹn với Tổ Tiên.

Lúc tôi ra đi, Làng Mai vừa tròn Hai Mươi tuồi. Tôi đã làm bài thơ kỷ niệm:

Mừng Làng Mai hai mươi tuổi
Mùa tuôn dậy ngọn nến hồng bừng cháy
cội thông già hòa khúc tuổi hai mươi
đơm mầm non hoa trái cho đời
đạo tỉnh thức nơi nơi về qui ngưỡng
Muôn trái tim cùng quay về một hướng
đuốc tuệ soi ngời sáng mãi ngàn sau
Tăng Thân mình vẫn mãi có nhau
Cùng xum họp bên Thầy tu học.

Chùa Từ Nghiêm-01-1-2002

Hôm nay, sau muời năm trở về Làng, tôi thật bồi hồi xúc động

Mới có muời năm thôi mà Làng Mai phát tiển nhanh chóng, trưởng thành, chững chạc như tuổi Ba Muơi.

Năm 2011, tôi qua Mỹ, theo Tăng Thân đi dự các Khóa Tu ở ba Tu Viện lớn thuộc Làng Mai. Tu Viện Lộc Uyển ở California, đã quy tụ đựơc cả ngàn Thiền sinh ngọai quốc và Việt Nam, Thẩy đã trao truyền cho họ giáo pháp đạo Bụt: Pháp Môn Thiền Chánh Niệm khiến họ đã chuyển hóa đựợc những bức xúc, khổ đau xảy ra trong gia đình và xã hội.

Tu Viện Hoa Mộc Lan ở Missippi vừa đựơc thành lập, thiền đừơng và cư xá xây dựng chưa xong mà số Thiền sinh các nơi về tham dự rất đông khiến Ban Tổ Chức khá vất vả, nhưng kết quả thành công là nhờ các Thầy, Sư cô Giáo Thọ giỏi và tăng ni trẻ nhiệt thành từ Tu Viện Bát Nhã mới sang.

Tu Viện Bích Nham thuộc Tiểu Bang NewYork, cả ngàn người Mỹ của Tiểu Bang đó về tham dự khóa tu. Rồi các khóa tu ở Washington do chùa Hoa Nghiêm tổ chức, người Việt tham dự qúa đông, thiếu chỗ ngồi. Tất cả các khóa tu đều mang lại niềm tin và hạnh phúc cho mọi nguời.

Bây giờ, ngồi nghe Thầy nói Pháp thọai với hơn ba trăm người Việt Nam ở Xóm Trung vào ngày Làm Biếng ( Vì các ngày chính thức Thầy giảng Pháp thọai bằng tiếng Anh hoặc Pháp cho hơn ngàn người ngọai quốc ở ba Thiền Đường lớn là Xóm Thượng Xóm Hạ và Xóm Mới) tôi cảm thấy rất vui. Đựợc ngồi chung với đồng bào mình, đựơc nghe Thầy giảng bằng tiếng quê hương trên đất Pháp, làm sao mà không vui cho được ! Mấy ngày qua, tôi ở Xóm Mới- NewHamlet, chung quanh có năm bảy trăm người bản sứ hoặc từ các nuớc khác đên. Họ nói tiếng Anh, tiếng Pháp, nghe xa lạ quá. Hôm nay, đựơc về Xóm Trung, gặp lại người Việt Nam, tay bắt mặt mừng.

Thầy nói chuyện thật cảm động, thân thương. Thầy đọc bài Thơ Bên Mé Rừng Đã Nở Rộ Hoa Mai. Tôi nghe mà rưng rưng nuớc mắt. Tôi thấy tôi hiện hữu trong bài Thơ của Thầy. Mà chẳng phải một mình tôi đâu, hầu như tất cả mọi người ngồi đây đêu hiện hữu trong bài thơ đó, đều là thân cùng tử, ngày hôm nay quy tụ về đây, mừng Làng Mai Ba Mươi Tuổi và đón nhận gia tài. Đó là Gia Tài Tâm Linh, Là Pháp môn Thiền Chánh Niệm. Thầy nhắc nhở chúng tôi phải tu tập để mang hạnh phúc cho mình, cho Gia Đình và giúp mọi người chung quanh cùng tu tập để có hạnh phúc. Mình có hạnh phúc thì mới giúp đựơc người khác, mới giúp đựợc xã hội và đất nuớc mình hạnh phúc, tiến bộ. 

Tôi lấy tựa đề MƯỜI NĂM TÌNH CŨ là một bài hát, đã được ca sĩ Elvist Phương hát, làm nhiều con tim xao xuyến một thời. Nhưng Muời năm Tình Cũ tôi đang chia sẻ với bạn, nó chẳng cũ tí nào. Tôi thấy Làng Mai cơ sở vật chất không thay đổi, vẫn nguyên sơ, mộc mạc như ngày tôi đến, nhưng về nhân số Tăng Ni thì hầu như các Sư Anh, Sư chị lớn, các giáo thọ đã đựơc tăng cường cho tu viện các nước Mỹ, Đức, Úc, Thái Lan, Hồng Kông… để hướng dẫn thiền sinh tu học. Làng Mai bây giờ hiện diện rất đông các Tăng Ni trẻ Tu Viện Bát Nhã từ Việt Nam trở về..

Các em người nhỏ nhắn, mặt mũi sáng sủa, đẹp như trăng rằm. Các em đã mang đến cho Làng một sinh khí tươi trẻ. Chỉ cần nhìn những bước đi chánh niệm, nụ cười tươi mát và ánh mắt hồn nhiên của các em là mọi người về đây đã thấy an lạc, hạnh phúc rồi

Xin cảm ơn Biến Cố Bát Nhã đã như cơn sóng dữ xô đẩy các em vượt trùng dương, hội tụ về Làng Mai, xây dựng Tăng Thân lớn mạnh, vươn cánh tay dài khắp Năm Châu, buớc những bước chân vững chãi, tròn đầy Ba Mươi Tuổi.

Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ
Tình đã không phai mà vẫn nguyên sơ.

Tình thương yêu tôi dành cho Làng Mai, cho Tăng Thân, cho Thầy vẫn sắt son như Tâm Ban Đầu. Nó không đến, không đi, không cũ, không mới, nó bất biến, thường trong vô thuờng, tròn đầy, tinh khôi như thuở nguyên sơ !

Chùa Từ Nghiêm-Xóm Mới
Tháng 7-2012.

Chân Y Nghiêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43872)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4438)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4382)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4291)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6406)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4702)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4109)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25431)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24251)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21375)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]