Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Tình Tết Mậu Thân Quảng Ngãi

04/11/201121:11(Xem: 4226)
Chuyện Tình Tết Mậu Thân Quảng Ngãi
thienkhongthachtu2


Chuyện Tình Tết Mậu Thân Quảng Ngãi
Trần Thị Nhật Hưng





 

   Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.

    Sáng hôm sau, trời tỏ dần. Tiếng súng lớn đã vơi đi, nhưng tiếng trực thăng lại vần vũ trên bầu trời như ráo riết rót từng tràng đại liên vào mục tiêu nào đó. Dường như mặt trận đang dồn về một góc thành phố? Khu Cống Kiểu? Sông Trà Khúc? Hay toà  Hành Chánh tỉnh? Không ai đoán được chính xác, nhưng chắc chắn một điều là cộng quân đã rút lui và quân đội quốc gia đang làm chủ tình hình.

   Cả nhà tôi hoàn hồn, cùng lên lầu xem căn phòng bị trúng đạn tối qua.

   Đó là căn phòng sau, cách phòng khách phía trước một khoảng sân thượng, dành cho anh trai và chị đâu của tôi. Cũng may đêm đó anh đưa chị về thăm nhà, đi vắng, nên tránh được điều đáng tiếc có thể xảy ra. Đồ đạc trong phòng không hư hại bao nhiêu. Trái đạn đã xuyên thủng mái ngói, để lại một khoảng trống lớn và những vết lỗ chỗ trên trần nhà. Nắng buổi sáng xuyên qua chiếu những tia thẳng tắp trông như hào quang.

   Sáng đó, cả nhà tôi chả ai thiết điểm tâm. Chồng bánh chưng, thẩu dưa hành củ kiệu vẫn im lìm nằm trên kệ tủ. Hộp bánh mứt mớ hạt dưa chị em tôi cũng không màng để ý. Cả nhà dồn hết về phía trước, lấp ló nơi cửa sắt lao xao nhìn thiên hạ tản cư. Người tay bế tay bồng, kẻ tay xách nách mang. Nét mặt ai nấy hằn nỗi kinh hoàng, mệt mỏi. Họ từ đâu tới vậy? Tại sao phải bỏ nhà đi? Đó là những câu hỏi tới tấp, dồn dập của đồng bào hai bên đường. Đang đánh lớn ở khu Võ Tánh? Dãy công chức gần trường Kim Thông? Có người còn quả quyết trường Kim Thông là nơi ẩn nấu của cộng quân khiến mọi người cùng túa ra bao con mắt đổ dồn về hướng đó.

   Trường Kim Thông không xa lạ gì với những người trong tỉnh. Trường toạ lạc gần trung tâm thành phố, cách nhà tôi 15 phút đi bộ. Ngôi trường hai tầng lầu, kiến trúc vững chắc bằng xi măng cốt sắt, đã là nơi bị cộng quân chiếu cố làm bàn đạp tấn công toà Hành Chánh tỉnh. Nhưng sự việc đã không thành. Chúng rút về cố thủ chờ tiếp viện. Cuối cùng vẫn thất bại, bị kẹt khoảng mười lăm hai mươi tên trong đó.

   Trực thăng của quân đội quốc gia liên tục hoạt động trên bầu trời trừng trị kẻ phá hoại sự an lành của đồng bào trong những ngày Tết. Đại liên, lựu đạn thi nhau nổ liên hồi. Nếu không có đoàn người tản cư, người ta có thể tưởng đó là tiếng pháo Xuân rộn ràng mừng năm mới.

   Đoàn người càng lúc càng đông. Họ dắt dìu nhau đi tìm nơi ẩn trú. Có những người thân và ngay cả những người chưa quen, ba má tôi mời một số vào nhà. Chả mấy chốc nhà tôi đông nghẹt. Vừa người lớn cả trẻ em kể tới gần một trăm. Có hai em bé sinh đôi mới chào đời trong ngày giáp Tết cũng được mẹ bế chạy tản cư, ba má tôi ưu tiên dành căn phòng nhỏ ngay kế chân cầu thang cho gia đình của bé.

   Buổi trưa, chảo lớn thường để nấu đường làm bánh mì được bắc xuống, ba má tôi đặt một chảo cơm. Chảo cơm dã chiến, nấu vội vàng, thiếu kinh nghiệm, lại dùng hai bao tải làm nắp nồi nên dở sống dở khê, nhưng cũng nói lên được tấm lòng mộc mạc của ba má tôi:

 

"Thương người như thể thương thân.

Người ta gặp lúc khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo đem ra.

Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên”.

 

(Cũng chính ngay ngày này, lần đầu tiên tôi gặp một người về sau này trở thành đấng        lang quân của tôi. Tôi sẽ kể ở phần sau).

 

   Buổi chiều, tình hình lắng dịu. Tiếng trực thăng, tiếng súng nổ đã ngưng bặt. Thỉnh thoảng lắm mới có vài tiếng lẻ tẻ thị oai. Lệnh giới nghiêm được ban hành nhưng vẫn không cản được một số người hiếu kỳ tò mò kéo nhau về trường Kim Thông xem xác cộng quân nằm xếp lớp dọc đường Võ Tánh. Những xác chết hầu hết còn non choẹt, mới mười sáu, mười bảy tuổi đầu đã bị đẩy vào miền Nam làm vật tế thần cho chủ nghĩa Cộng Sản. Bốn chữ: "Sinh Bắc Tử Nam” xăm lên những cánh tay quân cộng phải chăng là tự nguyện, hay đó chính là bảng án tử hình chụp lên những nạn nhân của chế độ? Ta hãy nghe những tiếng rên la đau đớn của những bộ đội bị thương cùng lời phân trần của tù binh xin tha sự chết. Tự nguyện ư? Chắc chắn là không! Chúng ta không lạ gì những danh từ hoa mỹ mà cộng sản thường dùng để che đậy dã tâm của họ. Mặt nạ cộng sản đã rớt xuống rồi sau biến cố 30.4.1975. "Tình nguyện thanh niên xung phong”, “Tình nguyện đi vùng kinh tế mới”, “Tình nguyện thi hành nghĩa vụ quân sự”,…v.v. và v.v....Còn bao thứ tình nguyện nữa, nhưng trên thực tế, chúng ta chỉ thấy một sự “tình nguyện” duy nhất là liều chết xông pha ra biển khơi, rừng sâu để thoát vòng kèm kẹp bạo tàn của cộng sản.

   Buổi tối, mới chạng vạng, phố xá đã vắng hoe. Cuộc tấn công của cộng quân kể như hoàn toàn thất bại. Những mũi dùi đánh chiếm phi trường, sông Trà Khúc, đài phát thanh, toà Hành Chánh tỉnh cũng bị thua. Cộng quân bỏ lại hằng trăm xác chết. Giao tranh tạm kết thúc nhưng tình hình không bớt khẩn trương. Tất cả cùng đề cao cảnh giác, lo sợ một sự trả thù tối nay. Nhà tôi nhốn nháo đầy người nằm la liệt từ lầu trên cho đến nhà dưới. Tuy nhà chưa có hầm vững chắc, nhưng thấy đông người và vị trí nhà an ninh, không ảnh hưởng nhiều với chiến tranh, lòng tôi cũng an tâm.

   Sáng ra, cái không khí nhộn nhịp của thành phố lại trở về. Nhưng không còn là sự rộn ràng hân hoan của những ngày Xuân. Mùi chiến tranh đã tràn ngập trong thành phố thể hiện rõ ràng qua những bao cát đen, đống cát cao ngất ngưỡng, những thanh gỗ và khung sắt trước sân nhà. Mọi người đang thi đua xây hầm chống đạn. Những căn hầm kiên cố, đen xì nằm vô duyên trong buồng ngủ, trong phòng khách, bên những cành mai vàng rực rỡ trổ hoa. Năm đó, mùa Xuân đã thực sự không đến với mọi nhà. Có người bực tức nói: "Trời đánh còn tránh bữa ăn. Sao ông Hồ nỡ đánh dân miền  Nam trong ngày trọng đại?!” Và có lẽ vì vậy ông bị trời phạt nên ông đã bị thua, rồi sau đó đau buồn và chết năm 1969.

   Riêng nhà tôi, ba má tôi sống bằng nghề sản xuất bánh mì, bánh ngọt nên trong nhà luôn có sẵn hằng tấn bột. Những bao bột đó đã là cái bia chống đạn vững vàng kiên cố nhất. Ba má tôi chỉ mua gỗ, sắt kê trên những thùng phi làm sườn rồi chất bột lên trên. Nửa cửa tiệm nhà trước làm thành hai cái hầm rộng lớn. Xây hầm như vậy, mùa Đông, ba má tôi tránh được cơn lụt hằng năm làm ướt bột, và trước mắt là nơi trú ẩn an toàn nếu giao tranh tái diễn.

   Nhưng cuối cùng mọi sự đã chẳng xảy ra như mọi người lo ngại. Thiên hạ chỉ thấp thỏm chờ đợi điều không bao giờ đến nữa. Mãi tới mùng 5, những khách tản cư tá túc trong nhà tôi đều lần lượt trở về. Một vài gia đình lo xa và mến cái không khí vui vẻ cởi mở của nhà tôi, ban ngày đi về, tối xin trở lại.

   Trong số những người còn lưu luyến đó, dù không chú ý, tôi vẫn bị lôi cuốn bởi cái vẻ là lạ khác người của bà Liên và hai bố con ông cựu quận trưởng.

   Bà Liên béo và tròn. Tuy không đẹp lắm nhưng tướng bà rất sang. Bà có nước da trắng ngần, đôi mắt sáng và làn môi mọng đỏ. Có lẽ nhờ cái miệng tươi nên bà ăn nói gây chú ý người xung quanh. Buổi tối, sau hôm thứ hai bà đến nhà tôi, bà tỏ ra thân tình với mọi người như quen từ lâu lắm. Bà đang cùng với các bà khác ngồi cạnh cửa hầm để bàn về bí quyết hạ những con tình địch. Bí quyết xỏ mũi các ông chồng. Câu chuyện dường như hào hứng lắm, nên lâu lâu tôi lại nghe các bà cười rủ ra. Tôi mon men lại gần rồi lắng nghe bà nói:

- Này, các chị biết không, tục ngữ Việt Nam có câu: "Dạy con từ thuở còn thơ. Dạy vợ từ lúc ban sơ mới về”. Câu tục ngữ này lời lẽ tuy hàm ý nhắc nhở các đấng mày râu, nhưng chúng ta là đàn bà, nếu biết khôn ngoan, tại sao không lợi dụng tục ngữ đó để áp dụng với chồng ta chứ?!

Mọi người nhao nhao cười:

- Áp dụng cách nào hở bà?

Bà Liên lấy giọng tiếp:

- Mới về nhà chồng, cùng lúc chồng muốn dạy dỗ ta, thì ta cũng khéo léo nên ra tay trước, áp đảo tinh thần chồng, “dạy” cho chồng phải răm rắp tuân theo ý ta.

Nhiều bà tặc lưỡi:

- Eo ơi cái đó mới khó đa!

Bà Liên trợn mắt:

- Khó gì mà khó. Tôi đã áp dụng rồi và tôi đã thành công.

Rồi và hạ giọng:

- Chị em có biết vũ khí sắc bén vô cùng lợi hại của người đàn bà là ở chỗ nào không?
- Là nấu ăn giỏi?
- Không đúng lắm.
- Là sắc đẹp?
- Cũng không hẳn vậy.
- Là ăn nói dịu dàng mềm mỏng?
- Cũng không phải thế.
- Là đức hạnh đoan trang?

Bà Liên vẫn lắc đầu. Đợi mọi người im hơi lặng tiếng, có vẻ sốt ruột, trông ngóng, bà mới phán một câu:

- Đó là nước mắt!

Mọi người “à” một tiếng ngạc nhiên. Bà Liên giải thích:

- Xưa nay đàn ông con trai ai cũng sợ nước mắt đàn bà. Tục ngữ có câu:”Một trăm roi của người bố, không bằng một giọt nước mắt của người mẹ”, như thế đủ biết sức mạnh của nước mắt vô cùng. Ngay khi về nhà chồng, bí quyết chinh phục chồng chỉ nên bằng nước mắt. Gặp chuyện bất bình, đừng nói nhiều, đừng la lối, chỉ ứa hai giọt nước mắt thôi là chồng mềm lòng ngay. Muốn gì chả được!

Có người phản đối:

- Thôi bà ơi, “nước mắt giai nhân mới mềm lòng khanh tướng”, chứ nước mắt…”gia nhân” xấu xí như con ở của tôi đây, chỉ làm ổng bực mình thêm.

Mọi người cùng biểu đồng tình:

- Chị Hai nói có lý, có lý.

Bà Liên vẫn cương quyết:

- Nước mắt nào cũng giá trị tương xứng với đối tượng của nó. Giai nhân lẽ dĩ nhiên phải đi liền với khanh tướng. Còn gia nhân thì tương xứng với… với… gia nhân! Xin lỗi chị nhá, tôi không ám chỉ chị, nhưng tôi nói nước mắt người xấu thì mềm lòng chồng xấu. Có điều chị em mình có khóc, nên khóc cho đúng lúc đúng chỗ, chứ cứ...mè nheo khóc hoài thành nước mắt cá sấu cũng nhàm lắm, chồng chả sợ đâu.

Có người thắc mắc:

- Khóc thế nào gọi là đúng lúc đúng chỗ hở bà?
- Lúc là lúc chỉ có hai người với nhau. Còn chỗ thì không chỗ nào tác động mạnh bằng nơi buồng riêng của hai người.

Có tiếng thở dài:

- Cái kiểu nhõng nhẽo, quyến rũ này tui thấy xí xọn quá!

Bà Liên trợn mắt:

- Quyến rũ nhõng nhẽo gì! Đây là bí quyết để chồng chiều, chồng cưng mà.

Rồi lặng im một lúc, bà tiếp:

- Nhưng sau khi khóc xong, tức tốc phải nở ngay nụ cười. Chớ để cái mặt chằm dằm hãm tài trong nhà, không người chồng nào chịu nổi đâu.

Một người nhún vai:

- Bà làm như chúng tôi là kịch sĩ Kim Cương không bằng!

Bà Liên nhăn nhó:

- Việc đơn giản dễ dàng như thế, có gì phải nhờ tài Kim Cương?!

   Nói xong, mặt mày bà đỏ hoe, rồi từ hai khoé mắt ứa ra hai giọt lệ lăn dài xuống má. Mọi người trố mắt ngạc nhiên, chưa rõ chuyện gì xảy ra, bà liền nhoẻn miệng cười, làm ai nấy cười lăn cười lóc…

   Rồi câu chuyện chuyển sang đề tài mới: Chuyện những con tình địch! 

Bà Liên tóm tắt: 

- Nói chung, đối với chồng, mình phải là nàng tiên hiền dịu. Chỉ với con tình địch mình mới là ác quỷ.

Mọi người lại nhao nhao:

- Phải trị nó bằng cách nào hỡ bà?

Bà Liên từ tốn:

- Vào trận tình cũng như vào trận giặc. Trước tiên, mình phải tìm hiểu đối phương. Tri kỷ tri bỉ, biết mình biết người, trăm trận trăm thắng…

Mọi người sốt ruột, chăm chú đợi bà nói tiếp.

- Nếu nó là loại nai vàng ngơ ngác, con nhà tử tế bị chồng mình gạt, mình phải kín đáo cho nó biết để tự nó rút lui.
- Nếu nó không tự rút lui? Một người hỏi.
- Nếu nó không tự rút lui, tức là nó đang tuổi khát tình, phải nhờ anh hoặc em trai mình nhảy vô cua nó. Nhớ bố trí cho chồng mình thấy nó lăng nhăng để ổng chán mà bỏ nó.
- Nếu ổng không chịu bỏ nó?
- Ổng không chịu bỏ nó, nó cũng không chịu rút lui, thì mình thẳng tay tàn phá nhan sắc nó!

Nói đến đây, mặt bà Liên đằng đằng sát khí. Mắt bà mở to, môi bà mím lại, bà nghiến răng trèo trẹo:

- Phải xăng, nhớt, dầu hôi trộn với tiêu, tỏi, ớt, pha với chút a-xit thôi, tạt thẳng vào mặt nó. Sau một ngày, cái mặt rỗ chằng rỗ chịt như ác quỷ của nó có húc vào chồng mình, thì ổng cũng chạy thôi. Nhưng phải nhớ một điều, là mọi hành động của mình đều thuê du đãng hay người khác làm, tuyệt đối đừng để cho chồng biết. Với chồng, mình phải luôn là nàng tiên mới được.

Một người tặc lưỡi:

                - Làm vậy ác quá, tui không làm được!

Kẻ khác:

- Bà bình tĩnh sử dụng kế tài tình còn hơn cả Hoạn Thư. Chứ tui chỉ nghe ổng có mèo là xỉu rồi!

Bà Liên như vậy đó. Tuổi sồn sồn trên dưới 50 nhưng cách nói chuyện ồn ào vui nhộn như trẻ con, vô tình làm nổi bật ông Long, cựu quận trưởng, tuy mới 28, 29 tuổi lại đi đứng ăn nói đĩnh đạc như ông già. Ông tản cư đến nhà tôi cùng lúc với cụ Điển, thân phụ ông. Cả hai đều có chiều cao khá đặc biệt, luôn đập vào mắt tôi. Thật ra, cái chiều cao 1 mét 73 đối với người đàn ông không lấy gì là cao lắm, nhưng chính cái độ quá ốm của hai bố con làm chiều cao của họ tăng lên. Nhất là cụ Điển, chân tay cụ lều khều. Nếu có dịp để ý lúc cụ vén quần lội nước lụt, hai ống chân cụ ốm nhách như hai ống tre. Tuy nhiên, nhờ có hàm râu bạc dài, sắc diện hồng hào tươi nhuận, nên trông cụ quắc thước như một tiên ông. Phong độ cụ thư thái nhàn hạ, khác hẳn với “ông con” lại có nét phong trần gian khổ. Quanh năm suốt tháng ông con luôn mặt bộ bà ba đen bạc màu, đôi giày nhựa và cây súng rouleau luôn máng ở bên hông. Tuy tuổi chỉ hơn tôi trên một con giáp, nhưng cử chỉ điệu bộ của ông trang nghiêm chững chạc quá, nên chị em tôi coi ông như bậc cha chú, chẳng ai muốn gọi ông bằng “anh”, kể cả chị Thanh, chị lớn nhất của tôi, chỉ thua ông chừng dăm bảy tuổi.

   Thực ra, cụ Điển không xa lạ gì với gia đình tôi. Cụ là hội trưởng Hiếu Hữu Hội những người Bắc di cư. Còn ba tôi làm thủ quỹ. Thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cụ đến nhà tôi họp hành, bàn với ba tôi những điều của hội. Ngoài ra, cụ còn là thầy thuốc Đông Y từng bắt mạch kê đơn chữa trị những chứng bệnh phụ nữ cho chị em tôi. Sự đi lại khá thường xuyên đó khiến cụ để ý chị Thanh, rồi đánh tiếng với ba má tôi nhắm chị Thanh cho ông con của cụ, mặc dù chị em tôi chưa hề biết mặt Long bao giờ. Vào dịp Tết Mậu Thân tản cư đến nhà tôi là cơ hội thuận tiện nhất để cụ và chàng Long “nằm vùng” theo dõi tính nết chị Thanh.

   Chị Thanh vốn ít nói. Tuy dung nhan không thuộc loại sắc nước hương trời, nhưng nhờ cặp mắt đẹp, tròn to, đen láy, và làn da trắng mịn màng, nên chị trông dễ thương. Chị Thanh nấu ăn giỏi. Tính tình đoan trang hiền hậu. Nếu cần một người vợ hết lòng hy sinh phục vụ chồng con, thì chị Thanh là số một. Oái oăm thay, cũng bởi chị hiền quá, lại hay rụt rè e lệ nên khi nghe có người để ý mình, chị mắc cỡ tránh né và không chịu tiếp xúc với “chú" Long. Còn chú Long cũng không phải là kẻ nói nhiều. Mỗi lần chú đến nhà tôi, trong khi cụ Điển cùng ba má tôi hàn huyên trò chuyện, chú chỉ mở sách ra đọc rồi lẳng lặng bỏ đi. Chú Long rất mê đọc sách.

   Sau cuộc tổng tấn công của cộng quân, chú Long bị gọi tái ngũ. Chú phục vụ cho nhân dân tự vệ một thời gian rồi biệt phái làm Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Cán bộ Phát triển Nông thôn Quảng Ngãi. Cứ mỗi tối, sau khi cơm nước xong, khoảng 8 giờ tối, chú hay đưa cụ Điển đến ngủ nhà tôi. Chú ngồi chơi một lát rồi lại lên cơ quan.

Hồi đó tôi chỉ mới 14 tuổi, còn quá nhỏ để hiểu chuyện giữa chị Thanh và chú. Nhưng một lần má tôi vô tình hỏi tôi:

- Cậu Long có ý hỏi chị Thanh làm vợ. Con nhận thấy cậu Long thế nào?

Tôi lè lưỡi, đáp không cần suy nghĩ:

- Thôi má ơi, đừng gả chị Thanh cho ông đó. Quanh năm suốt tháng ổng chỉ mặc một bộ bà ba đen dơ hầy!

Má tôi chỉ mỉm cười:

- Mầy biết gì mà nói!

Tôi phụng phịu:

- Con không biết sao má lại hỏi con?

   Tuy ngoài miệng tôi phản đối, nhưng thâm tâm tôi vẫn thích bất cứ người nào khả dĩ trông đàng hoàng theo đuổi các chị tôi. Cái tính ranh mãnh của tôi đủ cho tôi…khôn ngoan không bỏ lỡ cơ hội vòi vĩnh các ông anh rễ tương lai chiều chuộng những điều tôi thích. Đó là lý do tôi ở bên cạnh chú Long nhiều và hết sức tự nhiên hơn chị Thanh. Ai cấm tôi đu cổ chú? Chú “dám” la rầy hoặc lớn tiếng với tôi không khi tôi trèo lên phá xe chú? Tất cả… tất cả… tôi được chú chiều chuộng. Còn gì thích bằng những ngày cuối tuần, dù thỉnh thoảng, được chú làm “tài xế” chở tôi, em tôi (tôi còn rủ thêm vài cô bạn hàng xóm đi chơi. Đi chơi mà được sự chấp thuận một cách vui vẻ của gia đình, được ăn mì Sông Vệ, được ngắm núi Cống Ông Nghè, được xa lánh thành phố đầy bụi bặm, được hít thở không khí trong lành từ những đồng ruộng bát ngát ở miền quê… Ừ, mà sao tôi không thấy chị Thanh đi chơi với chú Long? Tại chị mắc cỡ? Hay tại tôi đã đi giùm? Tôi cũng không biết nữa. Lắm lúc tôi thấy tình của chị và chú Long cứ như làm sao ấy, lạt hơn ao nước lã.

   Rồi tôi lớn lên, tới cái tuổi dậy thì của người con gái, là lúc chị Thanh cất bước lên xe hoa về nhà chồng, nhưng không phải về nhà chú Long. Tôi không thắc mắc, cũng không tìm hiểu tại sao.

   Chị Thanh đi rồi, chú Long vẫn cứ thường xuyên lui tới nhà tôi như thuở nào. Nhưng từ đó, tôi cũng bớt đi chơi với chú Long. Tôi e dè từng cái đụng chạm, ý tứ từng lời nói đến cái nhìn. Khoảng cách của tôi và chú như xa hơn, nhưng tư tưởng và cách suy nghĩ lại gần hơn. Tôi đương nhiên trở thành...người lớn để nói chuyện “người lớn" với chú. Cái khoảng cách trên một con giáp lần lần như xích lại, để một hôm trời thật đẹp, nắng rực sáng tràn ngập khắp vạn vật,  tôi còn nhớ rõ là buổi trưa hè. Cả nhà tôi đang say giấc ngủ, còn tôi đang cặm cụi bên chiếc bàn ngoài sân thượng giải quyết những bài tập toán cho kỳ thi Tú Tài phần một sắp đến. Chú Long xuất hiện, ngồi nhìn tôi thật lâu, rồi bạo dạn nắm tay tôi, nói nhỏ:

- Từ nay “em” đừng gọi “anh” bằng...chú nhé!

Tôi cười, đưa mắt nhìn vạt nắng đang trải dài trên sân thượng, vờ lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên mái nhà hàng xóm, hỏi lại:

- Ơ… Không gọi bằng... chú thì gọi bằng… bác nhé?

Chú Long lắc đầu cười ý nhị:

- Sau này em sẽ là…vợ anh, xưng hô như thế đâu có được!

. . . . .

Và bây giờ tôi đã là vợ chàng, chia sẻ cùng chàng bao đắng cay ngọt bùi trong cuộc sống. Thời gian xa cách hơn mười ba năm sau biến cố đau thương 30.4.75 của đất nước, ngày đoàn tụ lại tại Thuỵ Sĩ, những lúc nhàn rỗi ngồi nghĩ lại chuyện đã qua, tôi hay đùa với chàng, nói một câu hết sức cải lương:

- Tình của mình rõ như là tình trong khói lửa. Phải không… ch…à…a…ng ? 
 
Trần thị Nhật Hưng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4772)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6764)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4941)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10202)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3693)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4916)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5123)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7965)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4310)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13608)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]