Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ về Kim Chi

04/01/201105:49(Xem: 1975)
Nhớ về Kim Chi

lotus_3

 

Kim Chi thương mến,

       

        Mình biết rằng lối xưng hô này chưa được đúng lắm vì Kim Chi là bà Hiệu trưởng của mình nhưng Kim Chi vẫn thường nói hai đứa mình cùng ngang tuổi nhau nên muốn tụi mình xưng hô với nhau như vậy cho thân mật và mình đang làm theo lời yêu cầu của Kim Chi đây.

        Mình có nói với chị Phương Lan là sẽ đi thăm Kim Chi một lần cuối cùng vào tháng 3 này, nhưng tháng 3 chưa tới thì Kim Chi đã ra đi ngày 9-2-2010.

        Sở dĩ mình dùng hai chữ cuối cùng vì Kim Chi đã bịnh nằm triền miên ở Viện Dưỡng lão mấy năm nay rồi, bịnh tình càng ngày càng xấu hơn, ít có hy vọng gặp lại Kim Chi lắm nên mình muốn nhìn Kim Chi một lần cuối !

        Mình biết sự ra đi của Kim Chi là con đường giải thoát tốt nhất nhưng mình cũng như đại gia đình Sương Nguyệt Anh vẫn bàng hoàng xúc động khi hay tin vì sự ra đi nào cũng là một mất mát lớn lao của một đời người.

 

        Nhớ ngày nào mình mới đổi về dạy trường Sương Nguyệt Anh cho gần nhà, khi đến trình diện, hình ảnh một bà Hiệu trưởng quá ư năng động, đã từng tu nghiệp ở Pháp về, đẹp rực rỡ trong bộ áo dài hợp thời trang đã đập vào mắt mình. Kim Chi đã ân cần tiếp đón làm cho mình quên hết những bỡ ngỡ của buổi ban đầu.

        Kim Chi là bà Hiệu trưởng đầu tiên của một trường Nữ Tổng hợp, một trường đã đi tiên phong trên đường lối cải cách của nền giáo dục và từ đó trường chúng ta đã thổi một làn gió mới trong không khí học đường. Kim Chi là bà Hiệu trưởng đã một thời làm bừng sáng cả một ngôi trường trên mọi lãnh vực, trong môi trường sinh hoạt học tập của trường Sương Nguyệt Anh chúng ta trước năm 75 tại Sài gòn. Hình ảnh một bộ áo dài màu hồng, tóc bới cao, mắt sáng tinh anh, tiếng cười sảng khoái, dáng đi mạnh mẽ tự tin đã như một tấm gương đẹp rạng ngời.

 

        Rồi sau biến cố 75, mỗi người trôi dạt mỗi phương trời. Kim Chi đã định cư tại Paris và có điều may mắn là gia đình Sương Nguyệt Anh đều đa số ở đó cả. thời gian vẫn không làm phai lạt được lòng thương nhớ trường cũ thân yêu trong tâm tư của Kim Chi.

 

        Kim Chi đã cùng chị Phương Lan gom góp liên lạc với những cánh chim muôn phương trở lại.

        Từ một bữa ăn thân mật tại nhà Kim Chi và thầy Châm - chồng của Kim Chi - lúc nào cũng quan tâm đến sinh hoạt của gia đình Sương Nguyệt Anh nên đã đề nghị tại sao chúng ta không ra một tờ báo hay một bản tin. Không nhất thiết là một tờ báo văn chương bóng bẩy mà chỉ cần kể lại những vui buồn của từng cá nhân với những kỷ niệm đã qua, những sinh hoạt hội họp sắp tới, ghi lại tin tức của những người bên nhà, của kẻ bên này, những tình cảm về trường xưa bạn cũ.

 

        Thế rồi năm 1988, bản tin Sương Nguyệt Anh đầu tiên có mặt như một sợi dây liên lạc để ràng buộc những mảnh tình tứ xứ. Mối thông tin từ đó bắt được những nhịp cầu để gom tụ các tiểu gia đình ở mọi nơi, chân tình đơm bông lan rộng.

        Và ngày họp mặt đầu tiên của gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu (8-4-90) đã diễn ra trong một bầu không khí thân mật đầy xúc động vì niềm vui hội ngộ sau một thời gian dài tưởng chừng như  không bao giờ được nhìn lại thấy nhau và lần họp mặt này như ngày đặt viên đá đầu tiên để xây dựng lại một mái ấm gia đình. Mỗi kỳ đại hội là để thắt chặt vòng dây thân ái cho chúng ta muốn giữ gìn kỷ niệm như những báu vật. Tìm về với nhau để trao cho nhau những nỗi niềm lắng đọng, để cùng nhau an ủi, khuyến khích và chia sẻ nỗi niềm hạnh phúc, những thành đạt tốt đẹp trên bước đường xây dựng sự nghiệp ở đất nước người.

 

        Qua lần họp mặt thứ hai, mình mới có hân hạnh được tham dự. Ngày ấy vì chưa có quốc tịch Đức, nên việc đi Pháp cũng gay go vì giấy nhập cảnh, thành ra mình đã đến Paris với một tâm trạng bàng hoàng như người mộng du. Ngày nhỏ, khi nhìn tấm hình của Tour Eiffel, mình thường tự nhủ “ biết đến bao giờ mới được đặt chân đến đây ”, vậy mà không ngờ có một ngày giấc mơ của mình đã thành sự thật. Một niềm xúc động lạ kỳ dâng ngập hồn khi nhìn thấy ngọn tháp và dòng sông Seine hữu tình.

 

        Nói làm sao cho hết nỗi mừng vui gặp gỡ này sau 15 năm trời xa cách ; chao ơi là vui, gặp nhau tay bắt mặt mừng, ôm nhau không rời, nước mắt rưng rưng. Những cái xiết tay nồng ấm, những nụ cười rạng rỡ, niềm vui vỡ òa tràn ngập cả sân nhà của em Mỹ Vân hôm đó.

        Chính trong buổi họp này, chúng ta đã đề nghị và sẽ thực hiện những việc như sau :

-        đóng niên liễm.

-        cấp học bổng cho con em giáo chức, hoặc học trò giỏi nhà nghèo.

-        trợ giúp các Thầy Cô còn khó khăn.

-        học bổng sẽ cấp từng khóa một và sẽ được tái xét vào kỳ họp mặt năm sau.

 

Từ tình trạng mỗi năm gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu gặp nhau mỗi năm một lần, chúng ta đã muốn mở rộng vòng tay của gia đình Sương Nguyệt Anh thế giới và chuyển sang cứ 2 năm họp một lần.

 

        Kỳ họp mặt thế giới đầu tiên đã diễn ra ở Canada như một ngọn đuốc Thế vận hội để trao lại cho đại hội Sương Nguyệt Anh kỳ 2 tại Nam Cali và chuyển sang kỳ 3 ở phương trời Âu (Paris). Sau mỗi kỳ đại hội tình thương của gia đình Sương Nguyệt Anh như cứ thắt chặt gần lại với nhau. Trong sợi dây thương yêu vô hình đó, Sương Nguyệt Anh Úc châu đã cùng nhau góp sức để hình thành Đại hội thế giới lần thứ 4 tại Sydney.

Lần này Kim Chi không tham dự được vì lý do sức khỏe nên ai cũng buồn vì thiếu vắng con chim đầu đàn ! Tuy nhiên Kim Chi vẫn mong ước những người còn lại phải tiếp nối con đường còn lại chúng ta đã vạch ra, đừng bỏ dở và cứ thế Đại hội Sương Nguyệt Anh thế giới vẫn cứ tiếp tục, khi thì ở Virginia và năm 2010 này ở San José.

 

Điều đáng buồn là càng ngày sức khỏe của Kim Chi càng yếu, năm 2000 đã bắt đầu có triệu chứng của bịnh Parkinson và năm 2003 Kim Chi phải vào viện “Dưỡng Lão của người lớn tuổi” vì ở nhà không có ai săn sóc, một mình thầy Châm không lo nổi.

 

Mình đã qua thăm Kim Chi năm sau đó, khi đến phòng của Kim Chi mà xúc động đến ứa nước mắt ! Vì không thể ngồi dậy được một mình nên Kim Chi chỉ nằm giương đôi mắt ngóng trông đợi chờ ra phía cửa; Kim Chi biết mình từ Đức sẽ qua thăm do các em học sinh đã báo trước. Không ai bảo ai, tất cả đều chạy ào tới bên giường nắm chặt tay Kim Chi mà nước mắt lưng tròng.

 

Người phụ nữ nằm đó trong tư thế bất động, ánh mắt di chuyển chậm chạp trên từng khuôn mặt với vẻ dò hỏi và suy tư. Chắc hẳn người ấy đang tự vấn tâm tư mình nhiều lắm : “Ai đó vậy ? Trông quen quá mà sao mình không nhớ hết”. Và tất cả Thầy Cô cùng học sinh đến thăm chiều hôm ấy, nét lạc lõng vô hồn trong đôi mắt Kim Chi đã làm cho lòng mọi người đau quặn thắt, nước mắt không mời mà tự dưng trào ra đôi mi !

 

Đâu rồi hình ảnh một người bạn đồng nghiệp, một bà Hiệu trưởng như là hiện thân của một nhân vật Hồng Y Nữ Hiệp trong truyện Kim Dung, đẹp đẽ, đài các nhưng bất thần vung chiêu thì các đấng nam tử cũng phải hạ kiếm. Ở Kim Chi có cái ma lực của bậc tài danh, thu hút lôi kéo, cổ động mọi người xung quanh mình làm những chuyện mà người bình thường ít ai nghĩ tới.

 Mình bàng hoàng ngỡ ngàng trước hình ảnh của người nữ hiệp ngày xưa nay còn đâu ? Còn gì đau xót cho bằng khi trí óc cũng chưa đến nỗi u mê nhưng tay chân không thể cử động được, cả ngày cứ nằm dài nhìn bốn bức tường vôi trắng xóa bao quanh để cho thời gian buồn phiền gậm nhấm mỏi mòn thân xác mình cho đến lúc tàn hơi.

 

Sau khi một em học sinh làm vệ sinh sạch sẽ chiếc xe lăn, mình đã bồng Kim Chi dậy đặt vào xe, đẩy qua chiếc bàn, mình ngồi bên cạnh mà Kim Chi cứ nắm chặt tay mình không muốn rời xa. Các em đã soạn xong thức ăn, mình đút cho Kim Chi, trông Kim Chi ngoan ngoãn như đứa trẻ thơ ngồi chờ mẹ chăm bón từng miếng cơm mà mắt mình hai giọt lệ ứa tràn !

 

Mình và các bạn đã hỏi Kim Chi cần gì vì các em Sương Nguyệt Anh khắp nơi trên thế giới đã đóng góp một số tiền biếu Kim Chi, nhưng Kim Chi đã lắc đầu, không cần gì hết mà chỉ cần sự tới lui thăm viếng mà thôi. Mình nghe mà xót xa quá vì thấu hiểu nỗi cô đơn của người bịnh.

Nhất là khi từ ngày này qua tháng nọ cứ phải nằm một chỗ; nhưng mình ở xa quá, làm sao thăm viếng thường xuyên cho được, dù rằng mình có cả một tấm lòng dành cho Kim Chi.

 

Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc phải tàn, Kim Chi ngồi đó tưởng chừng như đang hồn nhiên thanh thản sống lại với kỷ niệm đẹp, với đồng nghiệp, với học trò làm cho tất cả mọi người hiện diện hôm đó không nỡ nói lời từ biệt. Phải khó khăn lắm mới chia tay được với Kim Chi, nghẹn ngào bịn rịn không rời. Khi thấy Kim Chi ngồi đó mà hai tay cứ vờn về phía trước như níu kéo, như người gìn giữ chút yêu thương sắp sửa vụt xa. Trên đường về cả thầy trò đều im lặng, không ai nhích mép nổi. Lòng mình chùng xuống, nét u hoài và nước mắt còn đọng trên mi.

 

Hôm sau mình trở lại thăm Kim Chi một lần nữa trước khi quay về Đức. Lần này một mình lang thang, trên đường vào khu dưỡng bịnh phải qua một công viên vắng lặng. Nắng đã lên và gió nhẹ, tiếng chim hót líu lo mùa xuân hình như đang chuyển mình đâu đấy với những nụ non trên những cành cây khẳng khiu. Một vài chiếc lá vàng cũng chưa được lìa cành, thoi thóp dập dìu theo từng cơn gió như luyến tiếc những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Một cơn gió thoảng qua, vài ba chiếc lá uể oải vật vờ theo chiều gió, lòng mình ngậm ngùi se thắt nghĩ đến Kim Chi đang cô đơn vò võ một mình trong phòng bịnh.

 

Mình nghĩ đến số kiếp của con người, lúc trẻ là cả một trường tranh đấu năng động từ thể xác cho tới tinh thần để đến khi về già, sau khi đã trải qua những thăng trầm vinh nhục, buồn vui của cuộc sống cũng sẽ giống như thân phận những chiếc lá vàng này mà thôi.

 

Rồi mình cũng đành phải chia tay với Kim Chi một lần nữa trong bóng xế hoàng hôn của khu dưỡng bịnh không ngoài lời cầu chúc cho Kim Chi được lần hồi bình phục. Và mình đã từ giã Paris, lòng buồn nhiều hơn vui, mang theo nỗi bâng khuâng ngậm ngùi của một lần gặp gỡ.

Những tấm lòng Sương Nguyệt Anh khắp thế giới lúc nào cũng hướng về bà Hiệu trưởng của mình, cùng nhau đóng góp tiền liên tục để mướn người đồng hương hằng tuần đến chăm sóc và trò chuyện cho Kim Chi đỡ buồn.

 

Bây giờ thì Kim Chi đã viên mãn trong cõi tạm phù du này, chỉ đau lòng cho người ở lại, nước mắt nào đong đủ cho nỗi đau của Thầy Cô và học trò.

Khắp nơi tới tấp gởi tiền về phúng điếu, biểu lộ rõ tinh thần đoàn kết thương yêu rất tình nghĩa của đại gia đình Sương Nguyệt Anh qua email, qua phôn, hổ trợ cho Sương Nguyệt Anh Paris làm trọn vẹn vai trò đại diện cho cả Sương Nguyệt Anh thế giới vinh danh cô Hiệu trưởng Đặng Kim Chi.

 

Tuy gặp ngày trong tuần nhưng đã có cả 100 người tham dự, tiễn đưa với những vòng hoa của hội Gia Long, Gia Long Âu Châu, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa, gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu và thân hữu.

 

Nơi hỏa thiêu rất cảm động với những bài điếu văn của 2 trường Gia Long và Sương Nguyệt Anh; cuối cùng tất cả đều hát bài Tâm Ca Sương Nguyệt Anh với hai hàng nước mắt.

 

Qua email, một em học sinh ở xa đã gửi một câu chia buồn thấm thía :

Tết này là một cái Tết đáng nhớ. Thiên hạ ăn Tết còn gia đình Sương Nguyệt Anh “để tang” cho cô Kim Chi.

       

Vậy Kim Chi hãy mỉm cười nơi chín suối nghe, biết bao tình thương yêu đã dành cho Kim Chi trọn vẹn.

 

        Thôi thế cũng xong một đời phiền muộn; tiễn đưa nào mà không buồn huống chi đây là một cuộc chia xa vĩnh viễn thì còn đau lòng biết mấy !

 

        Chết là bắt đầu cho một cuộc du lịch dài ở thế giới khác, thôi thì cứ tin như vậy đi và cầu mong trên đường Kim Chi đi sẽ có nhiều hoa thơm cỏ lạ !

 

         Em Ngọc Chiêu đã làm tặng cô Hiệu trưởng mấy câu thơ này đây :

 

        Cô - đóa hồng nhung gãy cánh rồi.

        Học trò “nữ hiệp” lệ dòng đôi,

        Tiếc thương với tấm lòng tôn kính.

        Tình này ngày tháng khó phai phôi.

 

Vĩnh biệt Kim Chi !

 

 

Nguyên Hạnh - HTD.

2010

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 3487)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3122)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8743)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3885)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4264)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7403)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2739)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2951)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4424)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567