Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ về Kim Chi

04/01/201105:49(Xem: 1993)
Nhớ về Kim Chi

lotus_3

 

Kim Chi thương mến,

       

        Mình biết rằng lối xưng hô này chưa được đúng lắm vì Kim Chi là bà Hiệu trưởng của mình nhưng Kim Chi vẫn thường nói hai đứa mình cùng ngang tuổi nhau nên muốn tụi mình xưng hô với nhau như vậy cho thân mật và mình đang làm theo lời yêu cầu của Kim Chi đây.

        Mình có nói với chị Phương Lan là sẽ đi thăm Kim Chi một lần cuối cùng vào tháng 3 này, nhưng tháng 3 chưa tới thì Kim Chi đã ra đi ngày 9-2-2010.

        Sở dĩ mình dùng hai chữ cuối cùng vì Kim Chi đã bịnh nằm triền miên ở Viện Dưỡng lão mấy năm nay rồi, bịnh tình càng ngày càng xấu hơn, ít có hy vọng gặp lại Kim Chi lắm nên mình muốn nhìn Kim Chi một lần cuối !

        Mình biết sự ra đi của Kim Chi là con đường giải thoát tốt nhất nhưng mình cũng như đại gia đình Sương Nguyệt Anh vẫn bàng hoàng xúc động khi hay tin vì sự ra đi nào cũng là một mất mát lớn lao của một đời người.

 

        Nhớ ngày nào mình mới đổi về dạy trường Sương Nguyệt Anh cho gần nhà, khi đến trình diện, hình ảnh một bà Hiệu trưởng quá ư năng động, đã từng tu nghiệp ở Pháp về, đẹp rực rỡ trong bộ áo dài hợp thời trang đã đập vào mắt mình. Kim Chi đã ân cần tiếp đón làm cho mình quên hết những bỡ ngỡ của buổi ban đầu.

        Kim Chi là bà Hiệu trưởng đầu tiên của một trường Nữ Tổng hợp, một trường đã đi tiên phong trên đường lối cải cách của nền giáo dục và từ đó trường chúng ta đã thổi một làn gió mới trong không khí học đường. Kim Chi là bà Hiệu trưởng đã một thời làm bừng sáng cả một ngôi trường trên mọi lãnh vực, trong môi trường sinh hoạt học tập của trường Sương Nguyệt Anh chúng ta trước năm 75 tại Sài gòn. Hình ảnh một bộ áo dài màu hồng, tóc bới cao, mắt sáng tinh anh, tiếng cười sảng khoái, dáng đi mạnh mẽ tự tin đã như một tấm gương đẹp rạng ngời.

 

        Rồi sau biến cố 75, mỗi người trôi dạt mỗi phương trời. Kim Chi đã định cư tại Paris và có điều may mắn là gia đình Sương Nguyệt Anh đều đa số ở đó cả. thời gian vẫn không làm phai lạt được lòng thương nhớ trường cũ thân yêu trong tâm tư của Kim Chi.

 

        Kim Chi đã cùng chị Phương Lan gom góp liên lạc với những cánh chim muôn phương trở lại.

        Từ một bữa ăn thân mật tại nhà Kim Chi và thầy Châm - chồng của Kim Chi - lúc nào cũng quan tâm đến sinh hoạt của gia đình Sương Nguyệt Anh nên đã đề nghị tại sao chúng ta không ra một tờ báo hay một bản tin. Không nhất thiết là một tờ báo văn chương bóng bẩy mà chỉ cần kể lại những vui buồn của từng cá nhân với những kỷ niệm đã qua, những sinh hoạt hội họp sắp tới, ghi lại tin tức của những người bên nhà, của kẻ bên này, những tình cảm về trường xưa bạn cũ.

 

        Thế rồi năm 1988, bản tin Sương Nguyệt Anh đầu tiên có mặt như một sợi dây liên lạc để ràng buộc những mảnh tình tứ xứ. Mối thông tin từ đó bắt được những nhịp cầu để gom tụ các tiểu gia đình ở mọi nơi, chân tình đơm bông lan rộng.

        Và ngày họp mặt đầu tiên của gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu (8-4-90) đã diễn ra trong một bầu không khí thân mật đầy xúc động vì niềm vui hội ngộ sau một thời gian dài tưởng chừng như  không bao giờ được nhìn lại thấy nhau và lần họp mặt này như ngày đặt viên đá đầu tiên để xây dựng lại một mái ấm gia đình. Mỗi kỳ đại hội là để thắt chặt vòng dây thân ái cho chúng ta muốn giữ gìn kỷ niệm như những báu vật. Tìm về với nhau để trao cho nhau những nỗi niềm lắng đọng, để cùng nhau an ủi, khuyến khích và chia sẻ nỗi niềm hạnh phúc, những thành đạt tốt đẹp trên bước đường xây dựng sự nghiệp ở đất nước người.

 

        Qua lần họp mặt thứ hai, mình mới có hân hạnh được tham dự. Ngày ấy vì chưa có quốc tịch Đức, nên việc đi Pháp cũng gay go vì giấy nhập cảnh, thành ra mình đã đến Paris với một tâm trạng bàng hoàng như người mộng du. Ngày nhỏ, khi nhìn tấm hình của Tour Eiffel, mình thường tự nhủ “ biết đến bao giờ mới được đặt chân đến đây ”, vậy mà không ngờ có một ngày giấc mơ của mình đã thành sự thật. Một niềm xúc động lạ kỳ dâng ngập hồn khi nhìn thấy ngọn tháp và dòng sông Seine hữu tình.

 

        Nói làm sao cho hết nỗi mừng vui gặp gỡ này sau 15 năm trời xa cách ; chao ơi là vui, gặp nhau tay bắt mặt mừng, ôm nhau không rời, nước mắt rưng rưng. Những cái xiết tay nồng ấm, những nụ cười rạng rỡ, niềm vui vỡ òa tràn ngập cả sân nhà của em Mỹ Vân hôm đó.

        Chính trong buổi họp này, chúng ta đã đề nghị và sẽ thực hiện những việc như sau :

-        đóng niên liễm.

-        cấp học bổng cho con em giáo chức, hoặc học trò giỏi nhà nghèo.

-        trợ giúp các Thầy Cô còn khó khăn.

-        học bổng sẽ cấp từng khóa một và sẽ được tái xét vào kỳ họp mặt năm sau.

 

Từ tình trạng mỗi năm gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu gặp nhau mỗi năm một lần, chúng ta đã muốn mở rộng vòng tay của gia đình Sương Nguyệt Anh thế giới và chuyển sang cứ 2 năm họp một lần.

 

        Kỳ họp mặt thế giới đầu tiên đã diễn ra ở Canada như một ngọn đuốc Thế vận hội để trao lại cho đại hội Sương Nguyệt Anh kỳ 2 tại Nam Cali và chuyển sang kỳ 3 ở phương trời Âu (Paris). Sau mỗi kỳ đại hội tình thương của gia đình Sương Nguyệt Anh như cứ thắt chặt gần lại với nhau. Trong sợi dây thương yêu vô hình đó, Sương Nguyệt Anh Úc châu đã cùng nhau góp sức để hình thành Đại hội thế giới lần thứ 4 tại Sydney.

Lần này Kim Chi không tham dự được vì lý do sức khỏe nên ai cũng buồn vì thiếu vắng con chim đầu đàn ! Tuy nhiên Kim Chi vẫn mong ước những người còn lại phải tiếp nối con đường còn lại chúng ta đã vạch ra, đừng bỏ dở và cứ thế Đại hội Sương Nguyệt Anh thế giới vẫn cứ tiếp tục, khi thì ở Virginia và năm 2010 này ở San José.

 

Điều đáng buồn là càng ngày sức khỏe của Kim Chi càng yếu, năm 2000 đã bắt đầu có triệu chứng của bịnh Parkinson và năm 2003 Kim Chi phải vào viện “Dưỡng Lão của người lớn tuổi” vì ở nhà không có ai săn sóc, một mình thầy Châm không lo nổi.

 

Mình đã qua thăm Kim Chi năm sau đó, khi đến phòng của Kim Chi mà xúc động đến ứa nước mắt ! Vì không thể ngồi dậy được một mình nên Kim Chi chỉ nằm giương đôi mắt ngóng trông đợi chờ ra phía cửa; Kim Chi biết mình từ Đức sẽ qua thăm do các em học sinh đã báo trước. Không ai bảo ai, tất cả đều chạy ào tới bên giường nắm chặt tay Kim Chi mà nước mắt lưng tròng.

 

Người phụ nữ nằm đó trong tư thế bất động, ánh mắt di chuyển chậm chạp trên từng khuôn mặt với vẻ dò hỏi và suy tư. Chắc hẳn người ấy đang tự vấn tâm tư mình nhiều lắm : “Ai đó vậy ? Trông quen quá mà sao mình không nhớ hết”. Và tất cả Thầy Cô cùng học sinh đến thăm chiều hôm ấy, nét lạc lõng vô hồn trong đôi mắt Kim Chi đã làm cho lòng mọi người đau quặn thắt, nước mắt không mời mà tự dưng trào ra đôi mi !

 

Đâu rồi hình ảnh một người bạn đồng nghiệp, một bà Hiệu trưởng như là hiện thân của một nhân vật Hồng Y Nữ Hiệp trong truyện Kim Dung, đẹp đẽ, đài các nhưng bất thần vung chiêu thì các đấng nam tử cũng phải hạ kiếm. Ở Kim Chi có cái ma lực của bậc tài danh, thu hút lôi kéo, cổ động mọi người xung quanh mình làm những chuyện mà người bình thường ít ai nghĩ tới.

 Mình bàng hoàng ngỡ ngàng trước hình ảnh của người nữ hiệp ngày xưa nay còn đâu ? Còn gì đau xót cho bằng khi trí óc cũng chưa đến nỗi u mê nhưng tay chân không thể cử động được, cả ngày cứ nằm dài nhìn bốn bức tường vôi trắng xóa bao quanh để cho thời gian buồn phiền gậm nhấm mỏi mòn thân xác mình cho đến lúc tàn hơi.

 

Sau khi một em học sinh làm vệ sinh sạch sẽ chiếc xe lăn, mình đã bồng Kim Chi dậy đặt vào xe, đẩy qua chiếc bàn, mình ngồi bên cạnh mà Kim Chi cứ nắm chặt tay mình không muốn rời xa. Các em đã soạn xong thức ăn, mình đút cho Kim Chi, trông Kim Chi ngoan ngoãn như đứa trẻ thơ ngồi chờ mẹ chăm bón từng miếng cơm mà mắt mình hai giọt lệ ứa tràn !

 

Mình và các bạn đã hỏi Kim Chi cần gì vì các em Sương Nguyệt Anh khắp nơi trên thế giới đã đóng góp một số tiền biếu Kim Chi, nhưng Kim Chi đã lắc đầu, không cần gì hết mà chỉ cần sự tới lui thăm viếng mà thôi. Mình nghe mà xót xa quá vì thấu hiểu nỗi cô đơn của người bịnh.

Nhất là khi từ ngày này qua tháng nọ cứ phải nằm một chỗ; nhưng mình ở xa quá, làm sao thăm viếng thường xuyên cho được, dù rằng mình có cả một tấm lòng dành cho Kim Chi.

 

Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc phải tàn, Kim Chi ngồi đó tưởng chừng như đang hồn nhiên thanh thản sống lại với kỷ niệm đẹp, với đồng nghiệp, với học trò làm cho tất cả mọi người hiện diện hôm đó không nỡ nói lời từ biệt. Phải khó khăn lắm mới chia tay được với Kim Chi, nghẹn ngào bịn rịn không rời. Khi thấy Kim Chi ngồi đó mà hai tay cứ vờn về phía trước như níu kéo, như người gìn giữ chút yêu thương sắp sửa vụt xa. Trên đường về cả thầy trò đều im lặng, không ai nhích mép nổi. Lòng mình chùng xuống, nét u hoài và nước mắt còn đọng trên mi.

 

Hôm sau mình trở lại thăm Kim Chi một lần nữa trước khi quay về Đức. Lần này một mình lang thang, trên đường vào khu dưỡng bịnh phải qua một công viên vắng lặng. Nắng đã lên và gió nhẹ, tiếng chim hót líu lo mùa xuân hình như đang chuyển mình đâu đấy với những nụ non trên những cành cây khẳng khiu. Một vài chiếc lá vàng cũng chưa được lìa cành, thoi thóp dập dìu theo từng cơn gió như luyến tiếc những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Một cơn gió thoảng qua, vài ba chiếc lá uể oải vật vờ theo chiều gió, lòng mình ngậm ngùi se thắt nghĩ đến Kim Chi đang cô đơn vò võ một mình trong phòng bịnh.

 

Mình nghĩ đến số kiếp của con người, lúc trẻ là cả một trường tranh đấu năng động từ thể xác cho tới tinh thần để đến khi về già, sau khi đã trải qua những thăng trầm vinh nhục, buồn vui của cuộc sống cũng sẽ giống như thân phận những chiếc lá vàng này mà thôi.

 

Rồi mình cũng đành phải chia tay với Kim Chi một lần nữa trong bóng xế hoàng hôn của khu dưỡng bịnh không ngoài lời cầu chúc cho Kim Chi được lần hồi bình phục. Và mình đã từ giã Paris, lòng buồn nhiều hơn vui, mang theo nỗi bâng khuâng ngậm ngùi của một lần gặp gỡ.

Những tấm lòng Sương Nguyệt Anh khắp thế giới lúc nào cũng hướng về bà Hiệu trưởng của mình, cùng nhau đóng góp tiền liên tục để mướn người đồng hương hằng tuần đến chăm sóc và trò chuyện cho Kim Chi đỡ buồn.

 

Bây giờ thì Kim Chi đã viên mãn trong cõi tạm phù du này, chỉ đau lòng cho người ở lại, nước mắt nào đong đủ cho nỗi đau của Thầy Cô và học trò.

Khắp nơi tới tấp gởi tiền về phúng điếu, biểu lộ rõ tinh thần đoàn kết thương yêu rất tình nghĩa của đại gia đình Sương Nguyệt Anh qua email, qua phôn, hổ trợ cho Sương Nguyệt Anh Paris làm trọn vẹn vai trò đại diện cho cả Sương Nguyệt Anh thế giới vinh danh cô Hiệu trưởng Đặng Kim Chi.

 

Tuy gặp ngày trong tuần nhưng đã có cả 100 người tham dự, tiễn đưa với những vòng hoa của hội Gia Long, Gia Long Âu Châu, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa, gia đình Sương Nguyệt Anh Âu Châu và thân hữu.

 

Nơi hỏa thiêu rất cảm động với những bài điếu văn của 2 trường Gia Long và Sương Nguyệt Anh; cuối cùng tất cả đều hát bài Tâm Ca Sương Nguyệt Anh với hai hàng nước mắt.

 

Qua email, một em học sinh ở xa đã gửi một câu chia buồn thấm thía :

Tết này là một cái Tết đáng nhớ. Thiên hạ ăn Tết còn gia đình Sương Nguyệt Anh “để tang” cho cô Kim Chi.

       

Vậy Kim Chi hãy mỉm cười nơi chín suối nghe, biết bao tình thương yêu đã dành cho Kim Chi trọn vẹn.

 

        Thôi thế cũng xong một đời phiền muộn; tiễn đưa nào mà không buồn huống chi đây là một cuộc chia xa vĩnh viễn thì còn đau lòng biết mấy !

 

        Chết là bắt đầu cho một cuộc du lịch dài ở thế giới khác, thôi thì cứ tin như vậy đi và cầu mong trên đường Kim Chi đi sẽ có nhiều hoa thơm cỏ lạ !

 

         Em Ngọc Chiêu đã làm tặng cô Hiệu trưởng mấy câu thơ này đây :

 

        Cô - đóa hồng nhung gãy cánh rồi.

        Học trò “nữ hiệp” lệ dòng đôi,

        Tiếc thương với tấm lòng tôn kính.

        Tình này ngày tháng khó phai phôi.

 

Vĩnh biệt Kim Chi !

 

 

Nguyên Hạnh - HTD.

2010

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2094)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3318)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2676)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2823)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2183)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2051)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1866)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2260)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1707)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3290)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567