Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Viên

25/12/201011:39(Xem: 2771)
Xuân Viên



Co_Xuan_Vien

Chúng ta,
 những người bỏ xứ ra đi, đã quay lưng với cổng trường ngày cũ, nhưng lòng vẫn còn tưởng nhớ đến những hình ảnh thân yêu của bạn bè ngày nào! Vẫn mong ước ngày trở lại để tìm kiếm ký ức thầm kín ngày xưa, để được nhìn gặp những người ở lại của thuở ấy, nhưng những người ở lại có còn gì nữa đâu? Đói khổ đã làm mòn mỏi thêm cuộc sống, tất cả chỉ còn biết đem hơi sức bám vào nhịp thở, sống cho qua chuỗi ngày còn lại.
Tôi quen chị Xuân Viên khi được đổi về trường Sương Nguyệt Anh (SNA). Hình ảnh một con người tuy nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đầy nghị lực đã đập vào mắt tôi và dần dần từ chỗ quen biết, chúng tôi đã thương mến nhau từ lúc nào cũng không hay nữa!



Nói đến chị, phải nói đến một con người mẫu mực, một cô giáo hoàn toàn gương mẫu đúng phong cách một nhà giáo đầy đạo đức. Đó là người mà tôi mến phục nhất và lúc nào cũng chiếm trọn trong tôi một niềm thương yêu trìu mến và bất tận.

Giao cho chị phụ trách làm giáo sư hướng dẫn một lớp nào, coi như nhà trường khỏi phải lo lắng gì về lớp đó nữa. Từ sổ sách cho đến tập vở, tất cả đều trình bày mạch lạc, trang trí đẹp vô cùng. Chị đã để hết tâm trí mình vào công tác giáo dục mà không biết mệt mỏi, cuộc đời chị sinh ra như để dâng hiến hết cho học đường.

Một lần chị làm Chủ tịch Hội đồng thi tại trường SNA, một người bạn đã hỏi tôi:

- Con người xinh đẹp vậy mà sao không chịu lấy chồng?

Làm sao tôi trả lời được khi cuộc sống nào cũng có những tâm tư thầm kín riêng của nó. Mà thật thế, con người tuy nhỏ nhắn nhưng khuôn mặt rất xinh, đã từng đi tu nghiệp ở Pháp về, tài năng đầy đủ nhưng chị vẫn sống khép kín một mình, âm thầm một bóng trên lối đi và lối về.

Sau 1975, với bao sầu muộn trước thời cuộc chồng chất, với những khó khăn về kinh tế, tôi thấy chị mệt mỏi nhiều. Chị sống với gia đình một người em cũng là giáo viên, cư ngụ ở một con hẻm đường Trương Minh Giảng, sau lưng trường Đại Học Vạn Hạnh. Với chiếc xe đạp mini hai bánh nhỏ xíu, ngày ngày leo hết con dốc của cầu Trương Minh Giảng cũng đủ mệt bở hơi tai rồi. Vậy mà chị còn dạy thêm ở trung tâm đêm Lê Hồng Phong nữa. Đêm đêm nhìn con người nhỏ bé đó đạp xe lọc cọc cho đến nhà, lòng tôi xót xa quá mà số tiền kiếm được có là bao! Đã thế chị đâu có ở yên được trong căn nhà đó, chủ nhà không muốn cho thuê nữa nên đã tìm đủ mọi cách để đuổi đi. Nhớ một lần tôi đến thăm chị, chưa kịp dựng chiếc xe trước sân, chị đã tất tả chạy ra bảo tôi phải đem luôn chiếc xe vào nhà kẻo chủ ở trên gác sẽ dội nước xuống. Cuộc sống của chị là thế, người ta đối xử tàn tệ như vậy mà phải cắn răng chịu đựng, nếu không thì dọn nhà đi đâu bây giờ?

Dần dà với thời gian, không chịu đựng nổi chị đã ngã gục và phải vào bệnh viện. Chúng tôi rất buồn và lo lắng cho chị vô cùng, nếu chị phải từ giã nhà trường cũng giống như ca sĩ phải ngưng tiếng hát, cuộc đời chị sẽ buồn tẻ biết bao và chị sẽ sống ra sao?

Cũng may chị đã bình phục lần lần nhưng không còn phong độ như xưa nữa, không còn một Xuân Viên đầy duyên dáng và linh động mà là một con người gầy rạc đi, ai thấy cũng phải xót xa ái ngại!

Tôi ra đi, chị buồn nhiều vì đã mất đi một người bạn; riêng tôi cũng không khỏi ân hận là vì hoàn cảnh mà phải lặng lẽ ra đi, không từ giã được chị dù chỉ một lời. Tuy vậy, tôi vẫn không quên chị và tình cảm tôi dành cho chị vẫn không phôi pha với thời gian.

Một hôm, vừa bước chân ra cửa, tôi nhận được thư từ bên nhà. Ra đến bến xe, dù trời đang đổ tuyết, tôi vội vã bóc thư ra đọc. Một niềm xúc động dâng lên ngập tràn làm tôi muốn khóc khi hay tin chị đã xuất gia. Suốt ngày hôm đó tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn không tin là sự thật – dù con đường chị đã chọn rất có ý nghĩa nhưng sao tôi vẫn bàng hoàng! Thì ra chị đã dọn trước cho mình một con đường thanh thản của những ngày xế bóng sắp đến.

Cha mẹ không còn, một người chị đã có gia đình sống đời công nhân viên cũng chẳng khá gì, em trai bị "hy sinh vì nghĩa vụ quân sự" ở chiến trường Kampuchia; người em gái mà chị đang tá túc hoàn cảnh lại càng bi thương hơn nữa. Chồng cô ta bị mù, tiền lương ba đồng ba cọc của một giáo viên tiểu học làm sao nuôi nổi một ông chồng mù và hai đứa con. Anh ấy bị bắt chỉ vì hoạt động quá hăng say cho Gia Đình Phật Tử, Cộng sản không chấp nhận, nghi ngờ tất cả và bắt giam. Sau đó anh đã ra tù với một thân xác tàn tạ, đôi mắt không còn thấy ánh sáng nữa.

Tôi không nghĩ cuộc sống thực tế quá thê thảm đã làm cho chị không còn vui thích nữa, cũng không còn gì phấn khởi để chân chị bước tới, theo cách nói thông thường. Mà với tôi, chị là một Phật tử thuần thành đầy nghị lực và giàu niềm tin vào Tam Bảo. Những lúc rảnh rỗi chị thường say sưa giảng cho tôi nghe những lời Phật dạy. Và giống như chị, tôi tin Phật Pháp nhiệm mầu, lòng từ bi và cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa giải tất cả mọi chướng duyên của cuộc đời. Có những khi chúng tôi ngồi hằng giờ bên nhau, chia xẻ cho nhau những hiểu biết và linh nghiệm của riêng mình về hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát của tình thương mà chúng tôi học được từ những buổi nghe giảng của Chư Tôn Đức.

Chị thường nhắc lại lời Phật dạy, chúng ta ai cũng có khả năng thành Phật, chỉ tại vô minh che lấp Phật tánh mà thôi. Chúng ta đều đã biết thế nhưng vẫn thường dễ dãi với mình để ngày tháng trôi qua trong vô ích. Chỉ lỡ vài nhịp thở mong manh thôi là chúng ta không còn khả năng „Thời thời cần phất thức. Vật sử nhạ trần ai“ như lời khuyên của Ngài Thần Tú nói chi đến gạn sạch vô minh mà nhận ra „Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai! Như Ngài Lục Tổ Huệ Năng (chơn như Phật tánh vốn sáng suốt, không cần phải gọt rửa).

Từ chị, tôi được biết thêm rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là một Cổ Phật. Tuy Ngài đã thành Phật từ xa xưa nhưng bây giờ và mãi mãi hiện thân Bồ Tát để lắng nghe tiếng kêu thương của chúng sanh. Nơi nào có tiếng kêu thương, nơi đó có hóa thân của Ngài thị hiện, tình thương Ngài dành cho chúng sanh như người mẹ hiền thương đàn con dại. Chị có một quan niệm rất đặc biệt, hơn một lần, tôi ngơ ngác trước tâm linh và kiến thức của chị khi chị say sưa giảng giải:

„Bồ Tát Quán Thế Âm phát nguyện độ chúng sanh. Lúc nào Ngài cũng là người ban cho, chúng ta là kẻ thọ nhận năng lượng của Ngài như ánh trăng thu vằng vặc chiếu sáng một bầu không gian rộng lớn bao la, chúng ta là mặt nước ao, hồ, sông, biển. Chừng nào mặt nước bình lặng, chừng ấy năng lượng của ánh sáng được phản chiếu cao nhất“.

Chị còn giảng thêm rằng:

„Chúng ta đã từng nhận sự gia hộ của Bồ Tát Quán Thế Âm để sống và tu, nhưng không thế nào mãi thọ nhận. Chúng ta phải là một cánh tay, một con mắt của Ngài để cùng Ngài hóa độ và cứu giúp chúng sanh, trước là đền đáp ân đức cao dày của Ngài, sau là kết thiện duyên với tất cả chúng sanh. Dù chưa phải là Phật, là Bồ Tát nhưng phát nguyện đem thân này, lời nói này và sự suy nghĩ này làm hóa thân của Bồ Tát để cứu giúp chúng sanh“.

Chị là thế đấy! Cuộc đời như dòng sông trôi mãi trôi mãi. Trên dòng sông ấy, có những bãi cát dài thầm lặng nằm dọc hai bên bờ, có những tảng đá khổng lồ dám ngăn dòng nước tạo nên thác ghềnh thơ mộng, có những viên sỏi dễ thương chìm trong đáy nước long lanh màu trời, có những chiếc lá lênh đênh thong thả xuôi dòng nhưng cũng có những chiếc thuyền nhẹ nhàng ngày ngày đưa khách sang sông. Chị và tôi như hai nhân tố hiện hữu trong cuộc đời này nhưng con đường chị đi tràn đầy ý nghĩa hơn tôi nhiều.

Bên chị, tôi đã học hỏi được rất nhiều điều về quan niệm cuộc sống. Những lúc buồn phiền vì những điều không vừa ý, tôi nhớ đến chị thường hay mượn lời của Helen Keller, một nhà văn Pháp, khuyên tôi nên suy ngẫm thế nào là hạnh phúc:

J’ai pleuré parce que je n’avais pas de souliers jusqu’au jour où j’ai vue quelqu’un, qui n’avait pas de pieds“.

Xin tạm dịch:

Tôi đã khóc vì không có giày để mang, cho đến một ngày tôi nhìn thấy một người không có chân” !

 

Tôi đã nhận được thư chị, sau khi nhờ bạn bè chuyển về biếu chị một ít tiền. Chị đã viết: “Rất cảm động khi ở nơi thâm sơn cùng cốc này mà vẫn còn có người nhớ đến mình. Mình ở đây thân tâm an lạc”. Tuy vậy, khi đọc đến hàng chữ “Mình bây giờ là Thuần Tánh đấy nhé, Xuân Viên là dĩ vãng rồi!” mà bâng khuâng cả tấc lòng!

 

Cô Thuần Tánh ơi!

Cô đã chọn con đường giải thoát để mà đi, bỏ lại đằng sau tất cả ưu tư phiền muộn của cuộc đời. Cô đã thắp sáng cho mình một miềm tin, một ngọn lửa  tin yêu thuần khiết như phiến gỗ nâu chắc để mãi mãi lớp than hồng vẫn còn bùng cháy đủ sưởi ấm Cô trong những ngày khoác áo nâu sồng nương thân nơi cửa Phật.

Từ nơi xa xôi này, xin gởi đến Cô lòng mến phục vô biên và niềm thương yêu trìu mến của một người em, một người bạn đã từng chia xẻ ngọt bùi cùng Cô dưới mái trường SNA thân yêu ngày nào.

 

● Nguyên Hạnh HTD

(Mùa Vía Đức Phật Quán Thế Âm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7641)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8524)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7330)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6217)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7111)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5345)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4028)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8736)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23268)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4695)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]