Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện cái tơi

24/12/201005:02(Xem: 7177)
Câu chuyện cái tơi

  cai_toi

      Từ ngày định cư ở một xứ hiếm mưa, lắm lúc tôi tưởng chừng như không còn nhớ nhiều đến những cơn mưa vùng nhiệt đới; mưa quê hương, nhất là những cơn mưa dai dẳng của một xứ "mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn", mưa xứ Huế!

      Nhưng không, chiều nay nhìn học sinh tan học ra về trong cơn mưa, bao kỷ niệm của quê hương mưa dầm, trong đó cái tơi là một dấu ấn đậm đà nhất, đã đưa tâm hồn tôi vượt thời gian, vượt biển cả về với quê hương, về tận miền Trung mà đặc trưng là xứ Huế thân yêu; rồi thơ thẩn đậu lại trong sân trường Đồng Khánh, nơi tôi đã được lớn lên, được đào luyện, được phục vụ trong gần hết cả cuộc đời giữa bao hàng Phượng vỹ.

      Những em bé tan trường như những chú chim non đi ngang qua nhà tôi hôm nay với đầy đủ phương tiện văn minh chống mưa, chống rét, khiến tôi chợt se thắt nghĩ đến kỷ niệm của chính tôi trong chiến tranh với phương tiện che mưa duy nhất thật thô sơ lúc bấy giờ là "cái tơi“ phụ kèm cái nón.

      Tơi - nón là một cặp. Cái tơi không thể không đi chung với cái nón. Nhưng nón được dùng quanh năm, gặp thời tiết đẹp, nón được dịp phô trương vẻ nên thơ của nó; cho nên văn nhân thi sĩ không hề tiếc bút mực để ca tụng vẻ đẹp của cái nón, nhất là chiếc nón bài thơ, lại là chiếc nón bài thơ của miền sông Hương núi Ngự!

      Còn cái tơi, bản chất nó đã chìm sâu vào dĩ vãng mà vang bóng của nó cũng không hề lưu lại trong văn chương ít nhiều. Cái tơi là tiền thân của áo mưa hiện tại, là vật dụng che mưa của người Việt Nam từ nửa thế kỷ 20 về trước.

      Tơi được làm từ lá một loại cây Palm vùng nhiệt đới. Lá tơi được chằm lại với nhau, lớp nọ được bẻ chồng lên lớp kia thành một tấm lá dày hình chữ nhật. Cạnh ngang trên được xâu thành vai và cổ, có một sợi dây cột lại thành cổ tơi. Phần dưới lá được cắt phẳng và được rút lại thành chân tơi.

      Mang tơi là chui qua đầu, cái tơi được phủ từ vai xuống trở thành gần như diện tích một hình lăng trụ bao quanh người, dài gần tới mắt cá.

      Người mang tơi xa trông như một chú Pinguin! Tùy hướng mưa hướng gió, người mang tơi xoay mép tơi quanh mình sao cho khỏi ướt. Nếu như nón có nhiều kiểu nhiều tên kiêu sa như nón bài thơ, nón gò găng, nón tam giang, nón thượng.... thì cái tơi, hình thái giản dị mà cái tên cũng gần gũi, bình dân như tơi cá, tơi đọt, tơi cánh gà...

      Vật liệu để chằm Tơi cá là lá tơi già. Màu xanh đậm của lá phơi khô trở thành xám bầm bạc bạc. Tơi cá vừa rẻ vừa tiện, rất thích hợp cho đa số người bình dân trong mùa mưa gió.

      Sang hơn, bền hơn mà cũng ấm áp hơn thì có Tơi đọt. Tơi đọt làm bằng lá tơi non màu trắng ngà, phơi được nắng thì có màu vàng cam non, dở nắng thì ngả sang màu vàng nâu sẫm. Lá khô được ủi thẳng có hình như bàn tay xòe ra mà các ngón tay là đuôi lá mềm mềm, nhọn nhọn. Vai tơi đọt vừa rộng vừa ngang chứ không xệ xuôi như tơi cá.

       So với những vật dụng che mưa ngày càng tiến bộ, cái tơi quả có nhiều bất tiện, thua kém. Nhưng bộ máy chọn lọc nhiệm mầu của ký ức sao chỉ còn để lại trong tôi những kỷ niệm vặt vãnh, dễ thương gắn liền với cái tơi trên những bước đường đi học của thời thơ ấu.

      Nhớ lại cái mưa dầm của xứ Huế, mưa dai dễ sợ, lạnh dễ sợ... mà gió cũng dễ sợ! Đoạn đường dài đi bộ dưới mưa từ Thành Nội qua trường Đồng Khánh lại phải qua cầu Tràng Tiền "dài" lê thê! Nhưng cảm giác còn lại trong tôi chỉ là sự ấm áp, cái ấm áp của một đứa bé được che mưa trốn gió trong chiếc tơi dày nhất là khi được lúc thúc đi trong cái tơi với một bọc bắp rang đầy trong túi áo và bất chợt một đôi khi là sự nao nao se thắt!

      Cái tơi đầu tiên trong đời tôi thật nhiều kỷ niệm gắn liền với trường Đồng Khánh. Mùa khai giảng, cô tôi đã dắt tôi ra chợ Đông Ba mua một cái tơi và một cái nón. Cô cẩn thận dắt tôi theo để đo cho vừa. Cái tơi cô mua cho là một cái tơi cá. Cô lựa kỹ để chọn cái có lá sáng hơn một chút, cô trải bề trái cái tơi, rờ rờ từng đường chỉ, nắn vòng vai coi có chắc không, rồi ướm vào thân hình tôi xem có vừa không? Xong cái tơi vừa ý, cô mua thêm cái nón mười lăm vành và nài thêm một cái dải nón. Cô chụp cái nón lên đầu tôi trong bộ tơi nón mới rồi gõ gõ trên nón cười: " Ngó như tai nấm! "

      Ra khỏi chợ Đông Ba một lúc, trời đang tạnh bỗng rỉ rả mưa. Tôi kéo cô núp dưới mái hiên tiệm ăn Quốc-tế cho đỡ ướt bộ tơi nón mà tôi muốn dành trọn vẹn cho ngày mai. Cô tôi không ngạc nhiên trước ý tưởng ngây ngô ấy, chỉ chép miệng:" Hùm! giữ được hoài răng, mưa Huế mà! "

      Hồi hộp chờ đợi ngày mai đến trường, tôi thức khuya, xếp vuốt chiếc áo bằng vải dù đen, cái quần trắng, mấy quyển vở với cán bút, cặp tơi nón mới cũng được chiếm một địa vị cao hơn nhà bếp, được móc lên cao như một chú bù nhìn. Mưa dầm gió bấc nhưng nép trong cái tơi cá với một bọc bắp rang, đôi chân bé nhỏ đã được đỡ lạnh bằng đôi guốc gỗ. Nhưng khi về nhà mới thấy nhức rát ở sau chân. Quay lại cúi nhìn thì hai nhượng chân đều đã chảy máu. Cái tơi cá mới với hàng lá rất sắc đã cứa chân tôi trong mỗi bước đi mà tôi không hay biết!

      Mùa đông năm ấy đánh dấu một chuỗi ngày mới của đời tôi. Cùng với cái tơi, tôi hãnh diện được chen chúc trong hàng ngũ của những nữ sinh Đồng Khánh mà nhiều người hằng mong ước. Tôi được vào lớp Đệ Thất B2, lớp lớn nhất trường lúc bấy giờ chỉ mới đến Đệ Tứ mà thôi.

      Đây là thời gian cam khổ, hàng nhập cảng chưa thông, hàng nylon chưa có; một số ít còn giữ được những cái áo tơi dầu dưới thời Pháp thuộc, ngoài ra là tơi cá và tơi đọt. Áo tơi dầu bấy giờ chưa gọi là cái áo mưa, là loại áo giống như áo manteau có hai mặt, mặt trong là vải dày như nỉ, mặt ngoài có phết lớp dầu màu đen. Loại áo này cũng sột soạt và kém chịu nắng. Hễ áo hơi cũ là mặt dầu rạn nứt làm cho áo dễ bị thấm nước mưa nhưng đó là loại sang nhất thời bấy giờ. Cả trường chỉ đếm được mấy áo của cô Hiệu trưởng và một số ít thầy cô. Đến Tết năm đó áo mưa nylon đầu tiên xuất hiện tại trường Đồng Khánh. Hai bạn trong lớp tôi được dì và chị từ Pháp gởi về cho hai áo mưa nylon đầu tiên tại trường và có lẽ cả trong thành phố Huế?

      Ngày đầu hai bạn mang tới, cả trường trố mắt đứng ngó theo. Xinh đẹp làm sao! một cái màu xanh, một cái màu đỏ, tươi thắm giữa lùm xùm những nón cùng tơi ủ dột ướt át. Lại còn cái mũ áo nữa, bạn kéo lên trùm đầu thay cái nón, đẹp đẽ gọn gàng chắc lại còn ấm đầu, ấm tai nữa(?) và văn minh ghê! Bước lên thềm, bạn cởi áo, chỉ cần rũ nước và xếp nhỏ lại cho vô hộc bàn; chắc chắn là nhiều người mơ ước lắm nhưng trong đó chưa có tôi! Niềm mơ ước của tôi chỉ mới dừng ngang cái tơi đọt mà chưa có, huống gì cái áo mưa tân tiến đó!

      Con đường đi học của tôi đã xa mà phải qua thêm một cây cầu nhiều gió. Hằng ngày vào giờ đi học cũng như vào giờ tan trường, học sinh Đồng Khánh nối nhau hàng một qua cầu. Trời nắng, áo trắng, nón trắng làm đẹp cầu bao nhiêu thì trời mưa, tơi cá, tơi đọt, nón xám đen trông ủ dột bấy nhiêu! Cái tơi quả có quá nhiều nhược điểm. Mang tơi cá mới, trước hết là phải chịu cảnh "lòng quê đi một bước đường một đau" cho đến khi cái chân tơi hết bén. Cái bất tiện hằng ngày cho học sinh chúng tôi là phải cất nón chào thầy cô khi đang mang tơi. Cái tơi được xoay mép theo chiều ngược gió, gặp thầy cô liền phải xoay lại ra trước để có thể thò tay ra đưa lên giở nón. Thật ra thì cũng không phải là giở hẳn, chỉ cần nhích nghiêng cái nón cho có điệu, cọng với cái cúi đầu và một ánh mắt thay lời chào là đủ.

      Nhưng chỉ trong tích tắc đó thôi, cũng đã đủ cho nước mưa hắt vào mép tơi ướt dọc thân mình, lại còn theo cổ mà chảy ròng qua vai, xuống tới nách, chảy suốt dọc theo cánh tay. Mưa Huế mà! Ướt và lạnh! Nhưng có ai bắt phải chào đâu? Các thầy cô cũng thông cảm nên có lẽ không ai muốn đối diện để bắt học sinh cất nón chào nhưng phần mình vẫn thích, vẫn cố tìm cách để chào. Được chào thầy cô, thấy vui vui, tâm trạng hay hay, một chút hãnh diện được làm học sinh Đồng Khánh!

      Mang tơi, dù phải đi vòng qua cầu, xa hơn nhiều, tôi chẳng dám qua đò Thừa Phủ, bởi cái tơi cá hoặc tơi đọt cứng ngắt, người ta không thể ngồi ở mép đò. Nhiều người đứng thì đò dễ mất thăng bằng nhất là khi gặp gió mạnh, những cái tơi trở thành vật cản gió, đò càng dễ lật. Chìm đò với cái tơi cột quanh cổ thì chỉ có nước làm bạn với thủy tề mà thôi!

      Tuy nhiên, muốn thấy được cái ưu điểm lớn nhất của cái tơi, tưởng cũng nên quay về nơi thôn dã. Đối với người nông phu làm việc giữa ruộng đồng nhất là những người đi cấy lúa, đi nhổ cỏ, với cái thế của con người chồm bò trên ruộng mạ, cái tơi có tác dụng như một cái mền cứng phủ xuôi trên lưng, vừa ấm, vừa ngăn được mưa, chắn được gió mà không làm trở ngại phần đầu phải cúi xuống, cũng như không vướng bận đôi tay thoăn thoắt làm việc. Trường hợp này tơi cá lại tiện dụng hơn tơi đọt vì ít cứng hơn và mép tơi mở rộng hơn.

      Cái tơi còn một biến thể khác thích hợp cho những người lao động mà đôi tay cần di chuyển như kéo xe, chèo đò gọi là "tơi cánh gà". Tơi này gồm hai phần trên dưới nối lại với nhau, có hai chỗ hở cho đôi tay thò ra, hai tay được che bằng hai mảnh tơi xòe ra như hai cánh gà. Đối với tất cả các nghề lao động nói trên làm việc không kể mưa rét, cái tơi quả có đem lại ấm áp hơn là áo nylon sau này. Chả thế mà người phụ nữ nông thôn khi lo lắng cho chồng làm việc dưới mưa dầm gió bấc đã gởi gắm được chút tin cậy vào cái tơi:

                          Trời mưa thì mặc trời mưa

                          Chồng tôi đi bừa đã có cái tơi.

                                                     (ca dao)

      Không hiểu có phải riêng tôi vì cảm tình, kỷ niệm chi phối cách nhìn mà hình ảnh "cái tơi" trở về trong ký ức của tôi cũng quyện lẫn với bao nhiêu hương vị ngọt ngào của kỷ niệm, bàng bạc giữa mùi thơm ấm áp của bắp rang, đậu phụng, bánh mì...

      Đêm đông giá buốt ngồi học khuya, nghe tiếng rao lanh lảnh "ai ăn bánh mì không?" sẽ nghe được cả mùi thơm của bánh mì thoang thoảng từ xa ngoài đường cái. Tôi rã rũ mấy quyển vở cầu may có khi rụng ra một đồng do nhịn tiền đò ngang hôm trước. Chú bé bước vào với cái tơi cá nằm nghiêng che gọn bao bố đựng bánh mì hơn là che người. Chú bê bao mì đặt trên bực thềm và hắt cái tơi ra, mùi thơm tỏa lên ngọt ngào chi lạ! Bánh mì ủ trong mấy lần bao bố cũng được "mang tơi" cẩn thận, vẫn nóng, vẫn giòn và thơm ngon dễ sợ!

      Thế hệ trẻ ngày nay, thức ăn dư thừa không thể nào cảm nhận được những cảm giác đó. Những cảm giác bắt nguồn từ vị giác, khứu giác thẩm thấu vào ruột gan rồi xuyên qua tim, suốt não và đọng lại trong vòng lưu trữ của kỷ niệm mà theo đó, hình ảnh cái tơi cũng dập dềnh như những nét chấm phá của bức tranh xưa.

      Mùa mưa năm sau nữa, tôi cũng được thăng hoa. Băng qua giai cấp tơi đọt mà tôi từng mơ ước, tôi nay đã súng sính trong chiếc áo mưa nylon màu xanh da trời. Áo mưa vừa tiện lợi vừa đẹp đẽ nhưng mỗi lúc qua cầu lạnh gió, nhất là những lúc mà hàng khuy nút dẫn nước mưa chui tuột vào đẫm ướt thân hình, tôi bỗng lại thấy thích nhớ cái tơi ấm áp ngày nào!

      Thực tế thì cũng tùy vùng, tùy lúc, cái tơi cũng vẫn còn xuất hiện rải rác ở các địa phương hẻo lánh, xa hẳn ánh sáng thị thành. Đôi lúc qua những vùng đó, bất chợt tôi còn thấy lại những cái tơi lá hoặc hơn nữa là những cái tơi làm bằng bao cát nylon phế thải từ những đồn bót điêu tàn, tôi xót thương cuộc sống vẫn còn khổ nghèo, lạc hậu dai dẳng của đồng bào tôi.

      Cái tơi cá, tơi đọt, cái áo dầu đã theo luật tiến hóa của xã hội mà biến dạng chuyển mình, lớp sau đẩy lớp trước cùng lùi dần vào dĩ vãng. Vật thể tiêu biến nhưng hình ảnh tồn tại, cho dù hình ảnh có nhạt nhòa nhưng kỷ niệm vẫn khắc ghi đậm sâu mãi trong lòng!

      Nắng cháy mưa tuôn mà có được chiếc tơi, chiếc nón đúng lúc, thiết thực và thân thương biết chừng nào tinh thần lá lành đùm lá rách.

      Ngày nay, sau nửa trái đất xa xôi vạn dặm, sau nửa thế kỷ dài, cô bé với chiếc tơi cá đứng dưới gốc cây phượng già trong sân trường ngày xưa vẫn còn quanh quẩn với bao hàng cây phượng vỹ đang cố nở hoa trên xứ người (nhóm Phượng Vỹ - Houston) gởi mến thương theo từng cánh hoa học trò đang bay về quê cũ, mong biến thành những chiếc nón, chiếc tơi đến với những đồng nghiệp đang còn cơ cực trong những lúc nắng lửa mưa dầm.

 

                        Chiếc tơi hoài niệm mà thương,

                        Cho nhau ấm áp để vương nhớ hoài!

 

      Còn chiếc áo tơi thật sự qua bao thế hệ đã phôi pha theo đà tiến hóa. Nó cũng cùng chung số phận như "Ông Đồ" qua bài thơ nổi tiếng của Vũ đình Liên:

                             ....

                            Ông Đồ vẫn ngồi đó,

                            Bên đường không ai hay.

                             ....

      Đã đi vào quên lãng. Nhưng chiếc áo tơi của một thời thể hiện nếp sống sinh hoạt của người dân Việt xưa trong bối cảnh còn lạc hậu, nông nghiệp là chính. Tuy vị trí của nó không sâu đậm như chiếc áo dài quốc hồn, quốc túy hay chiếc nón lá vẫn còn tồn tại đến bây giờ nhưng nó cũng là một hình ảnh rất gần gũi, thân thương của người dân nghèo và bàng bạc đậm nét quê hương.

      Rất tiếc còn lại chăng chỉ là trong ký ức!!

 

                                                                              Viết để nhớ lại những ngày ấu thơ

                                                                                            Tháng 2/2014

                                                                                          Nguyên Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2016(Xem: 3673)
Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức Phật A Di Đà.
10/03/2016(Xem: 10040)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10081)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15110)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3403)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2868)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6079)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4482)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 11985)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 13835)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]