Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những vị Phật ở Miền Tây VN

01/09/201015:03(Xem: 4300)
Những vị Phật ở Miền Tây VN

Phat Thay Tay An

NHỮNG VỊ PHẬT Ở  MIỀN  TÂY NAM VIỆT–NAM
 
TUỆ-CHIẾU
Xuất bản năm 2009
 
 
LỜI  MỞ  ĐẦU
 

 

Kính thưa Quý Liệt Vị,

 

Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật.

 

Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.

 

Một quyển sách có giá trị, là quyển sách phải dày công sưu tầm, biên khảo nhiều tài liệu trung thực quý giá. Phải so sánh đối chiếu, cân nhắc và kiểm chứng có tính khoa học, để có được vị trí đặc biệt với giá trị vĩnh hằng. Trong sách chúng tôi trình bày các Vị có những điều mầu nhiệm lạ kỳ, có những hành động khác thường không ai dám nói, không ai dám làm. Nhưng các Vị lại tự tại hiên ngang làm một cách phi thường. Có những Vị do tu chứng, có những vị do phần trên chuyển hóa, có những Vị mượn xác phàm và có những Vị có hạnh tu kỳ bí của một Bồ Tát không ai làm nổi.

 

Còn có những Vị do công đức tu nhiều kiếp, thế nhân tôn kính là Phật. Vì Đạo phong của các Ngài khả kính, cứu nhân độ thế với lòng từ bi bao la, cùng với những lời tiên tri đều xảy ra đúng sự thực.

 

Tôi chưa có duyên được chứng kiến, gần gũi các Vị đã ra đời lâu xa, với những niên kỷ cách biệt. Nhưng có Vị tôi đã hân hạnh được hầu cận, chiêm ngưỡng Đạo phong uy nghi và lời nói lúc nào cũng lợi lành và soi sáng cho mọi người. Có những Vị tôi đã sống chung chùa và có những Vị tôi đã tiếp xúc gần gũi một thời gian. Thật sự, mắt phàm của tôi không thấy rõ những bí ẩn huyền vi của các Ngài. Chỉ thấy được những hiện tượng xảy ra đúng sự thực. Ngoại trừ các vị có Thần nhãn, Huệ nhãn hay Thiên nhãn hoặc được Chư Thiên mách bảo, thì các vị này kính trọng các Ngài một cách vô cùng kính cẩn. Chúng tôi đọc sách, thấy Phật sống Tế Điên và Phật sống chùa Kim Sơn bên Trung Hoa. Chư Tăng trong chùa và bá tánh gần gũi hay khinh thường các Ngài. Nhưng người ở xa lại biết rõ các Ngài, nên vô cùng quý trọng. Bấy lâu nay, quý vị ấy được sách vở tài liệu ghi chép, thậm chí đến việc vẽ vời thêm quay thành phim ảnh, tuồng tích. Chính vì thế chúng ta chỉ thấy nhắc các Vị Phật của Trung Hoa, hay những Vị Đạo Sư ở Ấn Độ, ở Tây Tạng xa xôi huyền bí mà người Việt chúng ta không biết, không tìm hiểu. Chúng ta lại tìm hiểu những vị Phật xa xôi rồi mơ tưởng, rồi ao ước! Còn những vị Phật ở ngay quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta, chúng ta lại không biết, không tìm hiểu. Có thể Phật trong nhà không thiêng chăng ?

 

Thực sự là ít ai nghĩ đến, vì cuộc chiến và vì cuộc sống khó khăn, đã bao nhiêu năm qua làm cho chúng ta chỉ nghĩ đến những vấn đề sát sườn trước mắt. Nên chưa thấy ai nhắc đến các Vị Phật sống ở Miền Tây Nam Việt Nam. Ngoài Phật Thầy Tây An, Phật Trùm, Đức Bổn Sư núi Tượng và Đức Thầy. Chúng tôi chưa thấy ai sưu tầm ghi chép những Vị Phật Miền Tây thành sách, để phổ biến rộng rãi trong nhân gian. Để cho những thế hệ mai sau biết rõ về những Vị Phật ở Việt Nam chúng ta. Đây là điều thiếu sót rất lớn của Phật Giáo, và của người Phật tử Việt Nam chúng ta. Thậm chí thời gian qua, có những Vị Tăng có học vị cao, chỉ nghe đồn đãi qua sự vẽ vời bóp méo, tam sao thất bổn. Rồi thiếu kiểm chứng, thiếu nghiên cứu nghiêm túc, lại buông lời phỉ bang làm tổn đức lành. Nhưng lại ca ngợi những vị Phật xa xôi ở xứ khác mà mình chỉ nghe qua ! Cũng như Hòa Thượng Tế Điên và Phật sống chùa Kim Sơn, người ở gần  thì xem thường, còn người ở xa thì lại quý trọng. Tôi rất ngạc nhiên, thấy những vị tự xem mình là trí thức, nhưng lại không chính chắn trong vấn đề tìm hiểu kiểm chứng. Đức Phật đã dạy: “Khoan vội tin điều gì, dù điều đó được nhiều đời truyền tụng. – Khoan vội tin điều gì, dù điều đó do uy quyền ban ra. – Khoan vội tin điều gì dù điều đó đã được mọi người công nhận  .  .  .  Các người hãy suy nghĩ, phân tích kỹ lưỡng, thấy thích hợp với chân lý rồi hãy tin, như vậy mới gọi là chánh tín".

 

Người Phật tử chúng ta cần chính chắn điều này, không vội tin nhưng cũng không bác bỏ. Tôi rất tiếc, những điều kỳ diệu của các Ngài thiếu sự phổ biến rộng rãi. Trừ những Vị có tín đồ đông thì có ghi chép thành kinh sách phổ biến. Nhưng có nhiều Vị, chỉ xuất hiện một giai đoạn ngắn, như Phật Tổ ở Cà Mau rồi viên tịch. Còn những đệ tử vùng quê thiếu kém về học thức, không có khả năng ghi chép thành kinh sách để lưu truyền. Cũng may còn lưu lại ngôi chùa và được Sắc phong từ thời vua Tự Đức. Tôi hy vọng sau này, Phật Giáo hay là những vị Phật tử hằng tâm hằng sản, những nhà làm phim, cùng các nghệ sĩ, tài tử. Sẽ khai thác những mẩu chuyện kỳ diệu hy hữu của những vị Phật này, làm thành những tuồng tích hấp dẫn trên phim ảnh, sẽ thu hút nhiều người xem hơn. Đó cũng là vấn đề hoằng pháp linh động nhất, hữu hiệu nhất, đi sâu vào lòng người tạo thành những ấn tượng đẹp nhất. Đồng thời, minh chứng những sự tu hành đắc đạo của người Việt Nam.

 

Thông thường, người ta chỉ nghe mơ hồ từng địa phương nhắc nhở, những Vị có hạnh tu, có hành động phi thường đặc biệt. Khi nghe rồi có vẻ nuối tiếc, vì mình không được gần gũi nhờ cậy, rồi lại bỏ qua. Vì thế, tôi e rằng sẽ mai một những chuyện hy hữu này. Cho nên trong thời gian tôi đang dưỡng bệnh, không đi hoằng pháp nhiều như lúc trước. Tôi lục soạn lại các tài liệu ghi chép, và tịnh tâm nhớ lại những ngày quá khứ xa xưa, viết vào đây để cống hiến quý Vị và lưu lại cho thế hệ con cháu chúng ta sau này.

 

Bất cứ thời đại nào, dù hoàn cảnh nào khi người dân bị ức chế, bị ngăn cấm hành đạo, cũng có những vị “Nội Bí Bồ Tát, ngoại hiện phàm Tăng”. Hay là những Vị do công phu tu hành gian khổ đắc Đạo, hay cứu nhân độ thế, cho nên được người đời tôn xưng là Phật.

 

Ở đời có nhiều Vị khi còn sống thì thế nhân xem thường, nhưng đến khi các Ngài tịch mới thị hiện một vài việc, hoặc nói lại cho những đệ tử thân cận những điều bí nhiệm. Chính lúc đó, người ta mới hiểu rõ quý Ngài, với nỗi niềm hối tiếc, tự trách mình thì đã muộn. Vì hiện thể nhục thân của các Ngài đã lui về quá khứ! Như chuyện ông Hai Long Hầu, Sư cô Năm Minh Bửu, Sư Huynh Thiện Thành làm những điều không ai dám làm, Cậu Ba núi Sập ẩn nhẫn hóa độ và giúp đỡ rất nhiều người và những Vị siêu xuất diệu kỳ khác.

 

Hiện tại bây giờ, vẫn còn những Vị mang thân cư sĩ, cũng sinh sống bình thường, nhưng lại là những Vị Bồ Tát mang nhục thân cứu giúp nhiều người, hướng dẫn nhiều người quay về với Chánh Đạo. Chúng tôi đã tiếp xúc những Vị này, thấy có nhiều điều lạ, làm những việc chẳng ai làm được. Có Vị dùng thần thông thay hình đổi dạng trong tích tắc, để che mắt những kẻ luôn theo dõi gây khó khăn. Như chuyện ông Mười khi thì già, khi thì trẻ, khi thì cùi, khi thì cụt chân v . v . . Những chuyện này có mấy gia đình Phật tử chứng kiến, và được quý Ngài giúp đỡ nhiều việc. Do đó, lấy mắt trần thì không thấy được những kỳ diệu huyền vi của các Ngài. Chúng tôi sẽ kể vào những chương trong sách để cống hiến quý vị.

 

Ai có Thiện Tâm tu dưỡng, có làm phước giúp người chân tình, thì các Ngài mới gần gũi giúp đỡ. Có người cả gia đình ăn chay, nhưng công phu tu hành kém, thiếu lòng từ bi, các Ngài vẫn từ chối và quở trách. Chúng ta muốn các Ngài hộ trì, thì phải chân thật, khiêm tốn và nhất là tâm từ bi phải mở rộng, phải thể hiện chân thành đối với những nguời nghèo khổ tật nguyền, hay già yếu cô đơn. Có người chuyên lo tụng kinh có vẻ tinh tấn, để được tiếng khen, tụng đọc réo gọi Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Văn Thù, Đức Quán Thế Âm . . . Nhưng các Ngài đã đến trước cửa nhà chìa tay ra mà không ai tiếp đón. Hay trong lúc đi đường, thấy các Ngài đang lết với thân hình rách rưới, dơ bẩn tật nguyền, thay vì giúp đỡ lại vội tránh xa. Chúng ta tu như thế thì có kết quả gì không ! ! ? Bởi vì những vị Phật tương lai này, rất cần sự cúng dường nhiều hơn, để tiến tới thành Phật. Chắc chắn công đức cúng dường này thật vô lượng vô biên. Đức Phật dạy:”Ta là Phật đã Thành, tất cả chúng sanh là Phật sẽ Thành”. Quý Vị hãy chịu khó đọc kỹ quyển sách này, có nhiều mẩu chuyện đã xảy ra ngay trong thời hiện tại này. Đến nỗi người đó phải hối hận khôn nguôi, tưởng đâu là  người  thường ! Chúng ta cần nhớ, cõi này là cõi “ phàm Thánh đồng cư độ” tức là Quốc độ của phàm Thánh cùng ở chung.

 

Quý Vị hãy chịu khó nghiền ngẫm, suy tư sau khi đọc quyển sách này. Có khi Vị ấy xuất hiện trước mắt mình mà mình lại thờ ơ không tiếp. Sau khi biết rõ, hối tiếc muốn gặp vô cùng, thì không còn cơ hội nữa.

 

Những loại sách liên hệ đến Tâm Linh, chúng ta không nên đọc vội vàng, hoặc đọc lướt nhanh qua như những sách giải trí khác. Vì chúng ta sẽ không đi vào được chiều sâu của hoang vu Tâm Thức, để khai mở Tâm Linh của mình bên kia bức màn vô minh. Loại sách này, đòi hỏi chúng ta cần lắng lòng để đọc, để chiêm nghiệm tư duy cho thâm nhập, đọc một cách say mê, chúng ta sẽ đón nhận được những diệu kỳ, khai mở Tâm Linh ta, hoặc khai mở được một tia Trí Tuệ nào đó trong ta. Cũng như các Vị Bồ Tát đến với ta, không phải từ trên trời bay xuống, hay là đến với chúng ta với ánh hào quang chói lòa. Các Ngài đến với chúng ta rất giản dị qua hình hài nhân thế, hay là với hình thức nghèo nàn rách rưới xin ăn, hoặc với hình thức tật nguyền cô đơn không nơi nương tựa, để thử thách lòng người tùy duyên hóa độ. Vậy chúng ta hãy thận trọng, đừng xem thường một ai, mà nên mở rộng lòng từ, để tạo được những công đức quý báu.

 

Sách này tặng không bán, Quý Vị hãy tùy hỷ góp phần công đức vào chùa nào hay nơi nào đã tặng Quý Vị quyển sách này.

 

Kính chúc Quý Vị Bồ Đề tâm tăng trưởng và mau sáng tỏ, để thấy biết được những kỳ đặc của thế giới Thánh phàm đồng cư, biết được quê hương Việt Nam thân yêu chúng ta đã và đang có những Vị Phật này.

 

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát

California, ngày 15 tháng 12 năm 2009

Trân trọng

Hòa Thượng Thích-Tuệ-Chiếu


***

CHƯƠNG  I

Nhận thức và sưu tầm

 

1- Thời Gian trước và sau 1975:

 

Khi viết quyển :”Những Xúc động đi vào Tâm Linh Trên Xứ Phật”. Tôi viết bằng những xúc cảm, với những dòng lệ lăn dài trên má, mà không thể cầm được. Hoặc nó âm thầm chảy trong tim, vì xúc động bởi những linh ảnh sinh hoạt của Đức Phật thời xa xưa, hiện về sống động trong tâm trí tôi. Rồi sự tàn sát dã man của giặc Hồi cướp phá, sát hại Tăng, Ni, san bằng các Thánh Tích làm cho điêu tàn, trở  thành những rừng già suốt sáu thế kỷ. Nhờ sự hy sinh cao cả tận tụy của những nhà khảo cổ Bồ Tát, và những Vị cao Tăng Bồ Tát. Các Ngài đã nhiệt tâm chịu nhiều gian khổ, đứng ra kêu gọi các nhà hằng tâm hằng sản, đóng góp kẻ công, người của, khai quật các Thánh tích và đại trùng tu khôi phục lại. Cho nên những nơi này, mới được hồi phục để mọi người chiêm bái như ngày hôm nay. Bây giờ tôi đọc lại quyển sách chính mình viết đó, vẫn còn cảm thấy ngăn nghẹn ở tim, ở cổ của mình ! Vì những linh ảnh đó vẫn còn sống động mạnh mẽ trong tôi. Thương quá là thương ! Đức Phật đã vất vả gian truân hành đạo, rồi gục ngả trong rừng già. Đến khi Ngài đi hoá đạo, chịu nhiều nạn khổ bị vu khống, thoá mạ, ám hại của thế nhân do ngoại đạo gây ra tấp phủ lên Ngài. Cho đến những linh ảnh Chư Tăng, Ni bị giặc Hồi sát hại đầu thế kỷ thứ XIII, các Vị đã hy sinh tử đạo, đã ôm tượng Phật chịu chết một cách trung kiên, với lòng từ bi không chống trả. Mãi đến cuối thế kỷ XIX, các nhà khảo cổ khai quật lên, mới thấy rõ hiện tượng những bộ xương này đang ôm tượng đức Phật. Ai thấy, ai nghe mà không xúc động bùi ngùi ! Nhất là người Phật tử, làm sao khỏi rơi ngấn lệ dài, trước cảnh bi thương não nùng như vậy ! ?

 

Sau đó, những nhà khảo cổ như Tiến sĩ  Alexander Cunningham, Tiến sĩ Rajeudra Lal Mitra, Ngài Hòa Thượng Anagaarika Dharmapala cổ động trùng tu các Thánh tích. Còn vùng Kushinagar do công lao ông Carlyle, ông Pandit Hirananda Sastara và ông Volgel. Các Vị đã vất vả hy sinh phần  còn  lại  cuộc đời, để vận động tài chánh và các Chánh phủ các quốc gia, nhờ can thiệp với Chánh Phủ Ấn Giáo tại Ấn Độ, để được phép vào những rừng sâu tìm kiếm khai quật những Thánh tích về Đức Phật, khai quật kho tàng văn hoá quý giá của nhân loại, đã bị chôn vùi suốt 6 thế kỷ qua. Trong lúc đó những nơi này đã biến thành rừng già, với cây cối um tùm, dây leo chằng chịt, tìm kiếm ra dấu tích là cả công trình khó khăn. Hơn nữa, những đống gạch ngói đổ nát đó, đã làm hang ổ cho nhiều loài rắn độc sanh con đẻ cháu nhiều đời. Cho nên không ai biết Đức Phật có hay không ? Hay là sự bịa đặt hoang đường làm vui cho mọi người !? Những hình ảnh của công trình khai quật ấy, đã sống mãnh liệt trong tôi, những nhân công bị rắn độc cắn, những chứng bệnh lạ vùng rừng già nhiệt đới, đã làm cho mọi người sợ hãi. Nhưng nhờ Phật lực gia hộ, cho nên những nhà Bác học đã không nao núng bó tay. Quý vị ấy, tạm thời nghỉ ngơi cho ngui ngoai những chấn động, trước sự chết chóc bất ngờ của công nhân khai quật. Rồi lại cố gắng tiếp tục công trình đào bới khó khăn, trong sự phòng thủ lo âu hồi hộp. Vì mạng sống con người, trong rừng già nhiệt đới lúc đó quá mong manh ! Luôn bị đe dọa ngày đêm, với bao nhiều thử thách gay go, đầy nghiệt ngả khó khăn như vậy ! .

 

Giai đoạn kế tiếp là tu bổ, hồi phục lại các Thánh Tích, cũng không kém phần gian truân và hy sinh xương máu của Chư Tăng. Tội nghiệp các Vị Tăng Miến Điện và Tích Lan, hy sinh ở lại dọn dẹp hương đèn nơi các Thánh tích Đức Phật Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya). Bị nhóm Hồi Giáo và Ấn Giáo, nửa đêm đến đánh đập các Vị trọng thương một cách tàn nhẫn, có tính cố sát. Các Vị Đại Đức này phải chạy thoát thân mới bảo toàn được tánh mạng. Để rồi hôm nay, chúng ta đến các Thánh Tích chiêm bái, không phải là rừng già làm hang ổ cho các loài rắn độc Ấn Độ nữa. Bây giờ có đường tráng nhựa, có khách sạn, có các tiệm buôn, đủ phương tiện phục vụ cho chúng ta. Đó là kết quả của bao nhiêu xương máu đã hy sinh, bao nhiêu nước mắt mồ hôi đã tuôn chảy, cho nên hôm nay các nơi Thánh tích mới được như vậy ! Tuy nhiên vẫn còn nỗi đau buồn chưa nguôi. Vì các Thánh tích Phật Giáo, nhưng Phật Giáo chỉ quản lý được 1/3 chỗ hương đèn thờ phụng như Bồ Đề Đạo Tràng. Để dọn dẹp, tụng kinh và tu bổ hằng năm. Còn tất cả, đều do Ấn Giáo quản lý và chia tiền mà không ra công giữ gìn tu bổ ! ! ! Thử hỏi, ai không đau lòng, xót dạ trong tình cảnh tài sản của ông Cha mình, nay bị người ta xí phần quản lý gần hết ! ? ! ?

 

Mãi đến bây giờ, Hồi giáo vẫn còn hung hăng và độc tôn, không muốn tôn giáo nào tồn tại và phát triển. Đối với Phật giáo không gây thù hằn gì với họ, lại còn tha thứ sự san bằng bình địa những Thánh tích, những cơ sở Phật Giáo và tha thứ cả sự tàn sát Tăng, Ni một cách dã man của họ tám thế kỷ trước. Thế mà mới đây tại Ấn Độ, họ đã đốt phá trường Đại Học Phật Giáo Quốc Tế Dhamma Dipa vùng Manu Bakul của thành phố Sabroom, thuộc Tiểu bang Triputa. Nhóm phá hoại này họ gởi thư hăm dọa trước, nhưng ai cũng nghĩ rằng” Đó là chuyện xa xưa của bảy tám thế kỷ trước. Còn thời đại này là thời đại Dân chủ và Tự do, thì làm gì có chuyện chuyện đốt phá dã man như ngày xưa !” Nhưng thư hăm dọa gởi chưa ráo mực, thì một lực lượng mặt mày hung hăng, tay cầm hung khí, họ xông đến muốn đánh giết chư Tăng, Ni nếu ai dám cản trở. Họ đập phá lung tung, cầm đuốc đốt hết tất cả ! Họ la hét đốt cháy các giảng đường, Thiền đường, thư viện, Tăng Xá và Ni xá, nhà bếp, nhà kho v . v . . Tất cả chư Tăng Ni, Thiền sinh đều phải chạy, tài sản còn lại chỉ còn bộ y dính trên người. Còn tất cả kinh sách, tài sản đều biến thành tro bụi. Chuyện vừa xảy ra lúc hoàng hôn buông xuống vào ngày 24 tháng 6 năm 2008. Từ bệnh viện, tôi mới trở về được tin này, với quyển sách này tôi viết đang dang dở hơn 100 trang, với cõi lòng buồn thương chư Tăng, Ni du sinh. Nên tôi ghi vào đây thêm những dòng sử hoen ố của giặc Hồi. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy xưa và nay, những người đạo hồi cuồng tín thành hiếu sát trước sau như một, không thay đổi. Họ không muốn các tôn giáo bạn tồn tại, họ đã từng gây Thánh chiến với các tôn giáo như Ân Giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo và Do Thái giáo. Duy có Phật Giáo sống theo giáo lý  từ bi, chịu nhẫn nhục ra đi, hoặc bị sát hại mà không chống cự.

 

Chính vì thế, Giáo lý từ bi làm cho Chư Tăng, Ni thành những chiến sĩ hòa bình. Cho nên ngày Đản Sanh của Đức Phật, đã được Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chọn làm ngày Lễ Hòa Bình của Thế-Giới. Tôi viết quyển Những Xúc Động Đi Vào Tâm Linh Trên Xứ Phật bằng sự nghẹn ngào, bằng những dòng nước mắt xúc cảm. Cho nên khi chiêm bái các nơi này, những hình ảnh từ thời Đức Phật, cho đến khi giặc Hồi xâm lăng ở Ấn Độ, đã kéo về trong tâm hồn tôi. Giặc Hồi cướp phá bao nhiêu tài sản, rồi san bằng các ngôi chùa, san bằng đại học Nalanda, và đã sát hại mấy vạn Tăng, Ni trên đất Phật. Thời gian dài đã phôi pha, chìm vào trong quên lảng lâu rồi. Thề mà, khi đến chiêm bái những nơi Thánh tích ấy, những linh ảnh ngày xưa từ thời Đức Phật, lại hiện về trong tâm thức của tôi. Tuy tôi không khóc, nhưng sao nước mắt cứ tuôn trào, làm nghẹn ngào những lời kinh tôi đang tụng. Đến khi viếng Bồ-Đề Đạo Tràng, tôi đến ôm hôn cây Bồ Đề, tôi lại vui mừng sung sướng, có cảm giác như ôm hôn lưng Đức Phật. Những hình ảnh thân thương mấy ngàn năm trước, lại hiện về trong tâm thức của tôi. Thương quá là thương Đấng Cha Lành của nhân loại, Đấng Đạo Sư của Trời và người. Còn lúc hôn tòa Kim Cang, tôi lại có cảm xúc như hôn chân Đức Phật, với những dòng lệ lăn dài xúc động trong tim. Đồng thời, thương cảm những người xưa, chư Tăng đã hy sinh cho đại cuộc trùng hưng Phật tích.

 

 

*  *  *

 

 

Bây giờ, tôi viết quyển sách “ Những Vị Phật Miền Tây Nam Việt Nam “nàykhông phải chỉ bằng những xúc động của ngấn lệ dài. Tôi viết bằng sự kết tinh của những dòng máu đã chảy bởi thương tích, bằng sự chết đi sống lại của vùng sơn cước thượng du miền Bắc, suốt mười năm tù đày trong các trại giam. Kể cả viết bằng sự tích lũy, sự ấp ủ lâu dài từ thời chú Tiểu hầu bậc Tôn Sư ở chùa. Đồng thời, tôi ghi nhận những chuyện kỳ ngộ với các Vị đặc biệt, mà tôi có thiện duyên đã tiếp xúc. Cho nên, tôi mới được những tài liệu quý giá này, để chia xẻ với quý vị, để phổ biến lưu truyền cho thế hệ con cháu chúng ta. Để cùng sung sướng vui mừng, về quê hương Việt Nam của chúng ta bên kia Thái Bình Dương, đã có những Vị Phật, đã có những Vị Bồ Tát, thường xuất hiện bằng nhục thân, để cứu nhân độ thế. Cho đến bây giờ, vẫn còn những Vị Bồ Tát mang nhục thân như chúng ta, làm những việc mà không ai làm được !

 

Nhân tiện đây, xin mạn phép quý vị. Cho tôi được kính cẩn cúi đầu, tạ ơn các Vị Hoà Thượng đã viên Tịch và những Vị còn hiện tiền, đã dành nhiều thì giờ trả lời sự tham khảo sưu tầm của tôi. Các Vị đã thuộc hàng Đại Lão Hòa Thượng như:Hòa Thượng T.Thiện-Lạc, HT T.Phổ Huệ, HT T.Long-Đức, HT T.Huyền Võ, HT T.Huệ Lầu, HT T.Phổ Quyền, HT T.Phổ-Tràng, HT.T.Ngộ Tánh, HT T.Huệ Nhã và HT T.Thiện Tánh chùa Phước Long. Ni Sư T.Nữ Giải Thỉnh, Ni Sư T.Nữ Giải Chưởng, Ni Sư T.Nữ Giải Sự. Với nhiều vị thuộc hàng Sư Huynh thân thương của tôi. Các Vị đã chịu khó kể về các bậc tu hành đắc quả, như vị Phật sống chùa Phi Lai và vị Phật Nằm ở chùa Minh Bửu Cao-Lãnh, trong giai đoạn trước tôi chưa biết Ngài. Có cả cô Diệu Hương, thường gọi là cô Sáu, cả hai ông bà là đại thí chủ Hồ văn Tôn pháp danh là Huệ-Phò, đã dâng cúng đất cho Ngài xây chùa Thành Hoa, ở đầu cù lao Giêng. Ngoài ra hai ông bà còn xuất nhiều lúa gạo, tiền bạc đi chợ nuôi Tăng, Ni ở tu hành tại nhà trong lúc làm chùa và những lúc khó khăn thiếu thốn. Sau này anh hai Rober và và anh ba Berna con của ông bà, với cháu Nội đích tôn là cậu Thiện Tra cũng tiếp tục lo công việc chùa. Thật là một gia đình hiếm có, cả ba đời đều có những hy sinh lớn lo giúp cho chùa, công đức vô lượng.

 

Còn vị Phật Tổ Cà Mau, tôi đã đọc lược sử và xem hình ảnh chung quanh tháp của Ngài tại chùa Phật Tổ. Trong thời gian đó, nhờ tôi công tác tại Cà Mau năm 1970. Tôi cũng có tham khảo những vị bô lão ở đây, nhưng mỗi người trình bày mỗi ý, chỉ nghe lại rồi tam sao thành thất bản, không mấy chuẩn xác. Tôi phải cân nhắc, đắn đo và suy tư phân tích kỹ lại từng việc. Để được đầy đủ và phù hợp hữu lý với hoàn cảnh thời đó. Từ cuộc sống bình thường. đến khi Ngài được quyển kinh tu hành, cho đến lúc Ngài tịch được vua Tự Đức Sắc tứ cho xây cất ngôi chùa gần chợ Cà Mau, lấy hiệu là Quán Âm Cổ Tự. Vì Ngài hành theo hạnh Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, cứu nhân độ thế.

 

Tôi cũng xin chân thành cảm tạ, quý vị đã kể nhiều việc liên quan đến các vị Phật ở miền Tây. Như giáo sư Sơn Hồng Đức dạy sử địa ĐH Văn Khoa Sài-Gòn, ĐH Cần Thơ, lúc tôi còn làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐIV/QK4 ở Cần Thơ. Cảm tạ giáo sư Trần văn Mãi dạy ĐH Văn khoa và ĐH Vạn Hạnh, lúc cùng ở chung trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. Giáo sư là người  hiền đức, là  tín  đồ  trung  hậu của Phật Thầy Tây An, có nhiều uy tín. Giáo sư đã kể cho tôi nghe nhiều mẫu chuyện, từ Phật Thầy cho đến Đức Huỳnh Giáo chủ.  Tôi cũng xin cám ơn Bác sĩ Trương văn Quýnh, nguyên Giám Đốc Bệnh Viện Đô Thành Sài Gòn. Lúc ở trại Nam Hà, bác sĩ là Trưởng trạm y tế của trại, ông đã dùng  “phù phép đặc biệt” giúp tôi dưỡng bệnh trong lúc cần thiết. Bác sĩ phải vào trại với chúng tôi, là vì tội danh làm Chủ Tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng cấp Trung Ương .

 

Tôi xin kể một chuyện vui về bác sĩ, mà anh em hay nhắc tới. Lúc đó tuổi của bác sĩ đã 65, mắt mờ không thấy rõ. Dù bác sĩ mang kính, nhưng cái kính đó từ thời dệ Nhị Cộng Hòa. Nhưng ai nhờ nhổ răng là bác sĩ nhổ liền, không do dự chút nào hết. Dù có bác sĩ Thịnh là Thiếu tá Quân y cũng là tù binh ở chung trạm xá, chuyên môn về mắt, tai, mũi, họng. Một hôm trung tá Long xin được một liều thuốc tê của Pháp, do anh em có thăm nuôi đem vô cho. Lúc đó anh Long bị cái răng sâu hành hạ ăn không được, thay vì nhờ bác sĩ Thịnh, anh Long vì thân với bác sĩ Quýnh cho nên nhờ bác sĩ Quýnh. Bác sĩ Quýnh liền OK ngay, rồi chích thuốc tê để nhổ. Nhưng mắt quá mờ không thấy và lại thích tếu cho vui. Bác sĩ Quýnh vừa nhún nhảy theo kiểu dancing, miệng thì đánh nhạc “ Schách schách shình, schách schình  . . .” tay thì cầm kềm thọt vào miệng anh Long, hỏi :

 

-         Răng nào đâu ?

Anh Long đưa đầu lưỡi chỉ răng sâu. Bác sĩ Quýnh kẹp

ngay và giựt mạnh. Anh Long vội ghì tay bác sĩ Quýnh lại, miệng la ú ớ :

-         “Trời ơi ! Sao bác sĩ kẹp lưỡi của tôi giựt !?”

Anh em ngồi chung quanh chờ khám bệnh, lúc bấy giờ ai cũng phải bật cười. Còn anh Long nhăn nhó đau đớn, sợ hãi vì đau răng đã khó ăn uống, bây giờ lại thêm đau lưỡi nữa thì làm sao chịu nổi. Anh đứng lên định bỏ ra ngoài, nhưng anh em khuyên:

-         Thuốc còn tê hàm, nhổ răng không đau. Thôi hãy ráng ngồi nhổ cho xong đi ! Chứ dễ gì kiếm được thuốc tê của Pháp tốt như thế này !”

Với hoàn cảnh thắt ngặt này, anh Long cũng phải đành để bác sĩ nhổ thêm cái răng sâu mới ăn cơm được. Vì ở đây không dễ gì tìm được loại thuốc tê của Pháp để nhổ răng

Bác sĩ Quýnh nói :

-         Tại anh đưa lưỡi ra. Lấy tay chỉ thôi, đừng lấy lưỡi chỉ nữa !

 

Kỳ này anh Long dùng tay chỉ chiếc răng sâu. Bác sĩ Quýnh lại đưa kềm vào kẹp cái răng. Vì cả hàm răng đã thấm thuốc tê, cho nên anh Long không còn cảm giác gì nữa. Thế là nhạc vũ trường lại nổi lên từ miệng của bác sĩ, với điệp khúc: “ Schách schách schình, schách schình . . . “,chân thì nhún nhảy, như đang dìu người đẹp nào đó quay cuồng trong tiếng nhạc của hộp đêm. Thỉnh thoảng bác sĩ Quýnh quay một vòng fantasia cho ngoạn mục. Thế rồi bác sĩ liền kẹp chiếc răng anh Long, xoay qua, xoay lại cho nhốm chân răng để nhổ. Rồi giựt mạnh ra,  đưa cho anh Long, nói :

-         Đây răng sâu của anh đây !

Anh Long cầm cái răng xem, sao quái lạ, thấy nó vẫn liền lạc tốt láng bình thường! Mặt anh tái xanh, anh lấy tay rờ thử, cảm thấy cái răng sâu hủng lổ vẫn còn nằm nguyên vị trí cũ trong miệng, liền nói :

-         Chết tôi rồi ! Bác sĩ lại lầm nữa rồi ! Răng sâu bác sĩ lại chừa, còn cái răng nguyên của tôi thì nhổ đi rồi !.

Anh em chứng kiến cảnh này, ai cũng tức cười, nhưng không dám cười to thoải mái. Vì nạn nhân đang nhăn nhó đau khổ. Nhưng có anh tức cười quá nói :

-         Ở Mỹ người ta hay: “ Buy one, get one.” Còn ở đây mình : “ Pull one, donate one mà !”Anh em nghe vậy, nín cười không được nữa. Liền cười rộ lên,.lúc đó bác sĩ Quýnh cũng tức cười ! Ngoại trừ anh Long là người đang đau khổ, cho nên anh không cười nổi mà thôi.

Anh Long lại đứng lên định về phòng, nhưng anh em khuyên, thuốc còn tê nên nhổ. Chứ ít ngày răng nhức nữa thì đâu còn thuốc để nhổ ! Anh Long lại ngồi xuống với gương mặt chán nản buồn so, chờ đợi. Không khí trong phòng bắt đầu căng thẳng và yên lặng. Bây giờ bác sĩ Quýnh lại lấy tay rà cái răng sâu hủng lổ đó rồi nói :

-     Anh yên chí ! Nhất quá tam, đương nhiên sẽ an toàn tốt

đẹp mỹ mãn !

Bác sĩ Quýnh lấy ngón tay, để trên chiếc răng sâu rồi đưa kềm vào kẹp. Không khí trong phòng lại rộn vui lên, vì nhạc vũ trường “schách schách schình. Schách schình . . . “

trong miệng bác sĩ Quýnh lại trổi lên. Anh Long sợ hãi nói :

-         Bác sĩ đừng trổi nhạc nữa, nhổ răng xong bác sĩ hãy nhảy. Mỗi lần bác sĩ trổi nhạc nhổ trật hoài, tôi sợ quá !

Bác sĩ Quýnh nói :

-    Chuyện nhỏ, có sao đâu ! Bác sĩ Quýnh xoay chiếc răng qua lại, cho nhốm chân răng rồi giựt mạnh.

Chiếc răng sâu của anh Long, bây giờ mới được nhổ thật sự. Không còn nhổ một, tặng một nữa!Răng của anh, nhổ tại trạm xá y tế của trại Nam Hà. Chứ không phải nhổ tại vũ trường Sài Gòn với nhạc schách schách schình, schách schình . . . ! Âm thanh này, nó đã tạo thành ấn tượng sâu đậm trong lòng anh em, khi nhổ răng mà nghe nhạc miệng schách schách schình là không ai dám nhổ nữa ! Anh em nhờ bác sĩ Thịnh nhổ giùm.

 

Bác sĩ Quýnh còn có nhiều chuyện vui, nhưng có một chuyện anh em hay nhắc. Nguyên bác sĩ có nguời anh là Trương Như Tảng, giữ chức vụ Bộ Trưởng bộ Tư Pháp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ông Bộ trưởng này làm tờ trình xin bảo lãnh bác sĩ Quýnh về. Khi cán bộ cao cấp ở trên xuống cho bác sĩ Quýnh hay sự việc. Bác sĩ Quýnh từ chối sự bảo lãnh đó ! Vì không muốn mang ơn ai ! Dù đó là anh ruột của mình. Mấy cán bộ mới trắc nghiệm bác sĩ xem sao, cho nên hỏi :

 

-         Khi Cách mạng cho bác sĩ về, nếu xảy ra chiến tranh giữa Liên Xô và Mỹ. Cả hai đều tuyển mộ quân, bác sĩ sẽ đầu quân bên nào ?

Bác sĩ Quýnh không cần suy nghĩ, liền trả lời ngay:

-         Tôi đi lính Liên Xô !

Mọi người ngạc nhiên hỏi :

-         Tại sao bác sĩ không đi lính Mỹ cho sướng ? Mà lại đi lính Liên Xô ?

-         Vì khi Liên Xô bại trận, tôi bị Mỹ bắt làm tù binh, tôi cũng được no đủ và sung sướng !

Các cán bộ lúc này mới thấm ý, vội quay lưng bỏ đi ngay, không nói được lời 
nào ! ! !

*   *   *

 

 

Trước 1975, tôi còn người bạn là đại tá Trần văn Tươi cựu tỉnh trưởng An-Giang, mẫu người đạo đức, trung hậu và tận tụy, có tinh thần trách nhiệm cao. Tôi với đại tá biết nhau lâu từ năm 1965, nhưng không có dịp tâm tình. Dù tôi điều hành và dạy trường Trung học Bồ Đề gần cạnh tòa hành chánh An-Giang chỗ đại tá làm việc. Đến khi mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi trong ngành Tuyên Uý cùng đại tá tăng cường cho Sư đoàn 21/BB. Đóng căn cứ tại Lai Khê, trong thời gian giải tỏa Bình Long An Lộc. Tôi cùng đại tá, với Mục Sư Nhớ, hằng tháng đi ủy lạo thương bệnh binh nằm rải rác các Quân Y Viện từ Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, Biên Hòa, Vũng Tàu, Quân y Viện Cộng Hoà và các Quân y viện ở miền Tây. Đi theo đoàn chúng tôi, có sĩ quan Tâm lý chiến, sĩ quan HC. Tài Chánh để phát lương và một nữ quân nhân Xã Hội. Mục đích là uỷ lạo và gắn Huy chương Anh Dũng Bội Tinh, và Chiến Thương Bội Tinh cho các anh em chiến binh đang điều trị. Đồng thời phát lương và giải quyết những thắc mắc, hay những thiệt thòi của anh em chưa được hưởng. Nhờ công tác chung trong thời gian dài, buổi tối về nghỉ trong các biêt thự dành riêng cho sĩ quan cao cấp. Khi rảnh uống trà, chúng tôi tâm tình, cho nên tôi được biết đại tá là người đã có một thời đi theo bên cạnh Đức Thầy, và thoát chết lần thảm sát ở Cần Thơ. Nên Đại tá hiểu biết nhiều việc, và kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Đức Thầy, đã giúp tôi có ý thức và hiểu biết thêm về Đức Thầy.

 

Ngoài ra, tôi cũng có dịp nằm gần cạnh trung tá Huỳnh văn Minh, nguyên tỉnh trưởng Châu Đốc, ở trại Vĩnh Quang thuộc tỉnh Vĩnh Phú ba năm trường. Anh Minh là một tín đồ trung hậu của Phật Giáo Hòa Hảo, hiền lành trung thực. Anh đã kể cho tôi nghe, những việc kỳ diệu về Đức Thầy. Vì trong gia đình anh, cha truyền con nối mấy đời theo Phật Thầy Tây An đến Đức Thầy. Thời điểm chúng tôi ở chung đó, vào buổi sáng sớm, trời đông lạnh rét cóng tay và vào đầu xuân, núi rừng sơn cước vùng này vẫn lạnh. Cho nên có câu: “ Rét tháng ba, bà già chết cóng”. Lúc đó, chúng tôi làm Sơn nữ Phà-Ca của đội già yếu ớt, mỗi buổi sáng trong sương mờ của núi đồi trùng điêp. Mỗi người đeo một cái giỏ, lên núi đồi trong mưa phùn buốt giá. Chính mùa này, trà mới ngon thơm tuyệt hảo thuộc siêu hạng Nhất Dương Chỉ (Nói theo kiếm hiệp, vìtối anh em hay kể chuyện, để quên tháng ngày dài và để ngủ ngon) Còn khi hái trà, mùa này thì cảm giác nhìn bằng mắt, còn những ngón tay tê cóng, không có cảm giác gì khi đụng đến búp trà. Những đọt trà còn búp non trong trắng mượt mà, đọt còn trắng hai cánh lá phụ mới phơn phớt xanh, được gọi theo chuyên môn là “Một Tôm Hai Tép”. Mới ăn vào nghe chát và hơi đắng. Nhưng khi qua khỏi cổ một chút, là nghe dịu ngọt và hương thơm xông lên, mùi vị thơm của loại trà ngon Vĩnh Phú, nổi tiếng nhất miền Bắc. Vì nó có vị ngọt dịu lâu dài, làm cho trong người sảng khoái, sức khỏe dẻo dai. Có lẽ nhờ vậy, mà anh em làm những đồi trà, được tăng sức đề kháng mạnh hơn những đội khác. Nghe qua có vẻ thơ mộng và lý tưởng quá ! Nhưng không ai khờ dại muốn sống như vậy đâu ! Vì chúng tôi phải lao động cuốc rảnh trồng trà, cuốc hố trồng khoai mì, mà ngoài Bắc gọi khoai mì là củ sắn. Mỗi hố vuông vức 50cm, chiều sâu 40cm, tiêu chuẩn mỗi ngày phải cuốc 40 hố. Cuốc đất rán sức quá, cho nên có nhiều anh rán sức, bị hộc máu tại chỗ. Ngoài ra phải đào hồ bên vách núi nuôi cá, nó rộng lớn thăm thẳm mênh mông. Sức yếu, phải khiêng vác đất đá nặng nề chẳng khác nào Vạn Lý Trường Thành. Nhiều anh kiệt sức bị bệnh lao, khi về nhà chữa trị tốn rất nhiều tiền. Nhưng tiêu chuẩn ăn chưa được nửa bụng. Sợ nhất là ăn khoai tây, vì bữa ăn chỉ có 5 hay 6 củ bằng đầu ngón tay cái, anh em thường gọi là ăn trứng chim.

 

Còn cái cuốc lưỡi khá dài. Quý vị hãy hình dung, cái cuốc còn mới, bề ngang 15cm, chiều xuống của lưỡi cuốc là 25cm. Cuốc ba tháng lưỡi mòn hết 5cm. Như vậy chúng ta thấy núi đồi đầy sõi và đá cứng. Mỗi lần cuốc mạnh xuống, lưỡi cuốc chạm đá sỏi thường toé lửa. Mỗi nhát cuốc chỉ ăn sâu được 3cm đến 5cm, tuỳ chỗ đá non hay đá già, chỗ đá non mềm có đất nạc thì xuống sâu hơn. Khi cuốc xong một vùng đất, rồi hốt lá cây trộn với đất đá vụn đó, ghim một khúc cây mì. Đến  2 năm sau mới đào củ mì lên ăn được. Còn cuốc rảnh sâu 30cm dọc theo triền đồi, thì anh em gieo 3 hột trà. Chờ mãi 3 tháng sau, hột trà mới nhú mầm nổi. Trong những tháng mùa đông lạnh quá, đọt trà không ra nổi, thì đi làm cỏ, vào rừng cắt lá cây, bó lại đội về ủ làm phân. Nhưng mấy tháng sau, đào hầm phân đó lên, nó chưa mục mà có mùi chua ngấy rất khó chịu và nóng như nước sôi, bốc hơi lên ngùn ngụt. Nhưng cũng phải lấy cuốc cào vào sọt, bưng đem rải xuống ruộng. Loại phân trời ơi đất hởi như thế, thì ruộng lúa làm sao tốt nổi ? Thế mà vẫn gắn được cái danh từ mỹ miều, bắt vần, bắt đeo như thơ, như nhạc cho loại phân chua ối này :

 

Nhờ sức lao động

Biến lá rừng mênh mông

Chỉ tốn chút công

Thành nguồn phân vô tận.

Đến ngày mùa thu hoạch, tôi đếm mỗi bông lúa chừng 25 đến 35 hạt. Còn lúa miền Nam từ 60 hạt trở lên. Ruộng nào trúng, bông sai quằn từ 80 đến 120 hạt. Nhưng ở đây nhà trại, đã từng luyện bùa phép ở bên Liên xô hay Bành Trướng Bắc Kinh rồi. Khi về, lại luyện phép tiếp trên đỉnh núi Saba ở miền Bắc cao nguyên ! Cho nên ngày tổng kết cuối năm, với phù phép của Tổ Karmarx và Lenin truyền xuống, thổi vào cánh đồng xơ xác lưa thưa đó, thành bản văn tuyệt vời. Ai cũng phải ngạc nhiên, há hóc mồm, trố hai mắt to ra mà nhìn, vểnh hai tai lên để nghe: “Lúa trúng mùa vượt chỉ tiêu. Nhờ kỹ thuật cao, lao động xuất sắc” rồi tuyên bố vượt chỉ tiêu. Nhưng thực sự cày bằng lưỡi cày từ thời vua Nghiêu, vua Thuấn bên Tàu, nó nhỏ và nhọn như mũi tên, để có thể lách những tảng đá mà cày. Thế kỷ 20 mà đi lùi 5000 năm cổ đại về trước, là Kỹ thuật cao sao ? ! Chúng tôi không đạt đỉnh cao trí tuệ của loài người, nên không thể hiểu nổi. Còn anh em lúc nào bụng cũng đói, đói, đói, nhưng trại giam, cấm không cho nói là đói, phải nói là ăn chưa no. Có nghĩa là có cơm có thịt, mà tại các anh khờ quá không chịu ăn, làm biếng ăn, cho nên chưa no. Vì thế anh em bước xuống ruộng lạnh cóng, run rẩy, đói meo đi ngả xiêu ngả tó, chúi nhủi sức đâu mà làm. Lưng thì đau, người rét cóng, tay thì tê dại, nhưng bắt buộc phải làm cho có chừng. Vậy mà được gắn nhãn hiệu là lao động xuất sắc. Buông bản văn xuống, Thầy chú vỗ tay reo mừng, bắt buộc anh em cũng vỗ tay theo, nhưng với cõi lòng hoang mang, chán nản vô cùng. Vì cả đất nước như vậy, thì chắc chắn dân chúng nghèo đói làm sao vươn lên. Nhưng khi mở miệng thì tự hào là tiền rừng bạc biển, vậy mà Việt Nam lúc đó lại bị liệt vào nước nghèo đói chậm tiến nhất. Sau này chúng tôi mới biết rõ, có tuyên bố vượt chỉ tiêu, thì điều đương nhiên phải có tiệc mừng. Dù tài sản có tiêu điều xơ xác, nhưng các bác vẫn hạ cờ Tây để làm cầy bảy món. Thế là vật heo, hạ cờ tây khao tiệc ăn mừng lúa trúng, thật tưng bừng náo nhiệt, thầy chú vui say, ngả nghiêng bí tỷ ! ? Đúng là phù phép tuyệt vời ! Nhà nước lúc nào cũng tiến lên, tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường lạc hậu ! ! !

 

Những năm tháng ấy, chúng tôi chịu nhiều gian truân khốn khổ. sống gần những Buôn, những Bản người Tày, người Thái Trắng, Thái Đen (người Thái nhuộm răng đen, chứ không phải da đen như Mỹ đen), người Mường . . . Tuy chúng tôi sống trong thế giới hiện thực, nhưng lại có những mẫu chuyện khôi hài gần như hoang đường hay huyền thoại nào ấy ! Sống trong bầu trời Việt, nhưng khung trời lại xa lạ, mọi việc tưởng không thể có mà lại thực, còn chuyện có thực lại biến thành không. Giống như kinh Bát Nhã diễn tả hiện tượng cuộc đời :”Sắc tức thị không ,không tức thị sắc” . Vậy viết đến đây, chúng tôi xin kể vài chuyện nho nhỏ trong báo Nhân Dân miền Bắc (Ấn bản báo Nhân Dân Miền Nam khác ấn bản báo miền Bắc), của kho tàng chuyện vui xã-Hội chủ-nghĩa tuy gần mà xa lạ này, để cống hiến quý những nụ cười thoải mái cho vui. Để quý vị thấy rõ chúng tôi sống trong khung trời mới lạ, tuy gần gũi, nhưng sao mình lại thấy nó xa xôi như chuyện huyền thoại ở đời nào ấy ! Một hôm đọc báo Nhân Dân, tôi thấy bài viết về hợp tác xã nuôi cá, với chỉ tiêu hàng năm 100 tấn. Ngày tổng kết, báo cáo thu hoạch 120 tấn, vượt chỉ tiêu 20 tấn.. Người dân địa phương này, mỗi năm chỉ được mua cá một lần, nhưng tiêu chuẩn còn thiếu. Đoàn thanh tra đến kiểm lại, thấy hợp tác xã nuôi bắt cá, chỉ có 85 tấn cá cả năm. Còn thiếu 15 tấn mới đạt chỉ tiêu. Nhưng sao lại vượt chỉ tiêu tới 20 tấn cá nữa, thật là phép lạ ? Thanh tra hỏi Hợp tác xã lấy đâu ra 35 tấn cá nữa mà vượt chỉ tiêu 20 tấn. Hợp tác xã trả lời: “Còn gởi nuôi dưới hồ, chưa bắt” ! ! ! ? Chu choa ơi ! Có kiểu còn gởi ở dưới hồ chưa bắt ! Điều này chúng tôi thấy nó quen quen, bụng mình thì đói, đi xiêu vẹo, làm lẹt quẹt có chừng, lúa thưa thớt, mà sao lúa trúng vượt chỉ tiêu nhiều thế ! ? Còn rượu thịt thầy chú hả hê kia, thì đào lấy sức lao động của ai mà ra vậy !? Dù thế nào đi nữa : Phải báo cáo vượt chỉ tiêu thì mới có tiệc tùng, mới có tăng lương, mới có thăng chức chứ ! Tội gì mà để bụng thèm, có chết ai đâu mà sợ. Chỉ tội cho những người dân, phải nhịn ăn, nhịn mặc đóng thuế cho các ông Đày Tớ của nhân dân ăn nhậu, tìm cách vơ vét của dân lành.

 

Còn đoàn thanh tra có đến, thì lại đãi tiệc tùng, rồi cứ:

Dí quà vào xách,

Kẹp nách là xong.”

 

Đoàn Thanh Tra được tiệc tùng, lại có Chiến Lợi Phẩm thì tội gì mà không lấy ! Mà có chết ai đâu ! Cả mình và người đều vui vẻ cụng ly búa xua. Thôi thì “cứ thế mà nàm, cứ “tiến nên” tiến mạnh cho mau xụp đổ !”

 

Một chuyện nữa trong báo Nhân Dân, hợp tác xã cho ba người lên đồi cuốc đất. Nhưng chỉ có hai người cuốc đất, còn một người ngồi đánh trống để khích lệ, để làm nhịp cho hai người cuốc. Anh đánh trống nhanh thì hai người kia cuốc nhanh, nếu đánh trống chậm thì hai người kia cuốc chậm. Nếu thương hai anh cuốc đất tình hàng xóm có nhau, anh lại đánh trống cho có chừng, có khi 5 phút 1 dùi cho có lệ. Hai anh cuốc đất nhàn nhã vừa cuốc vừa ca: Anh ở đầu sông em cuối sông . . . Nếu anh tổ trưởng không ưa hai anh cuốc đất, thì anh cứ đánh như nhạc Rap. Hai anh kia phải cuốc mệt le lưỡi, thấy ông thấy bà cả ba kiếp. Chúng ta thấy hợp tác xã này, mọi người có tinh thần khôi hài, đầy kịch tính văn nghệ đấy chứ ! ! ? Lao động kiểu này thì tiến nhanh tiến mạnh lên con đường sụp đổ !

 

Một chuyện nữa cũng trong báo Nhân Dân. Có hợp tác xã máy cày, thật quá ư vất vả không ai bằng, thấy mà thương, mà tội nghiệp chết đi thôi ! Một hợp tác xã nông nghiệp đến làm hợp đồng, mướn hai máy cày có người lái, cày cho hợp tác xã sản xuất của mình. Các máy cày thường sơn màu đỏ, để cho nó nổi lên trong đồng dễ thấy từ xa. Đúng ngày hẹn, hai chiếc máy cày đến. Ngày ra quân làm ruộng, cở xí rợp trời, trống đánh thúc giục, người đi rầm rộ, khí thế mạnh mẽ ra quân không phải đánh giặc, mà làm ruộng, kẻ cuốc người leng để giãy cỏ đắp bờ. Dẫn đầu hai chiếc máy cày, hùng hục như xông trận. Khi cày, máy chạy chưa hết một vòng là nằm ỳ tại chỗ. Hai anh lái máy, mở máy xem rồi lắc đầu chắc lưỡi, bèn hẹn một tuần nữa trở lại sửa máy mới cày được. Vì phải về kiếm ốc, kiếm sên, kiếm bạc đạn, kiếm dây trân thay thế. Hợp tác xã nghe rồi thất kinh hồn viá, như thế sẽ trễ vụ mùa rồi ! Nếu ít ngày hư nữa, rồi kéo dài hết vụ mùa mà cày chưa xong thì sao ? ! ! Chỉ còn cách hốt đất xơi, chứ lúa gạo có đâu mà đóng thuế, rồi có lúa đâu mà xơi. Họ đành xúm lại năn nỉ anh lái máy, cố gắng sửa chữa cày ngay giùm, vì trời sắp mưa đến rồi ! Hơn nữa cày sớm cho kịp thời vụ, họ sẽ đền ơn trọng hậu. Hai anh lái máy cày nhăn mặt, gãi tai, gãi cổ, nhìn nhau chờ đợi một cái gì đó, cái gì mà nó rất thân thương và thiết thực là thủ tục Đầu Tiên ! Vì thế họ không phải nhìn nhau qua ngấn lệ nhạt nhòa, mà nhìn nhau qua khóe mắt ẩn chứa nụ cười khoan khoái vui vui. Bổng có người lạ đến nói riêng với chủ nhiệm Hợp tác xã: “Các ông muốn cày kịp vụ mùa, theo kinh nghiệm cho biết, thì phải có cơm gà. cá gỏi ngày ba bữa đấy !   Vì:

 

Trâu đen ăn cỏ,

Trâu đỏ ăn gà

Thuốc lá hai bao

Bì trao phải cộm

 

Lúc ấy máy sẽ chạy liên tục, hoàn tất sớm hơn dự định cho các ông !”.

Thế là hợp tác xã, biết được chứng bệnh kỳ lạ của loại trâu đỏ này. Liền cam kết đúng luật giang hồ dùng thần dược đó để trị liệu. Hai anh lái máy liền mở nắp máy gõ gõ, vặn vặn, xoay bên đây, xoay bên kia, nhăn mặt, chắc lưỡi tỏ vẻ quá khó khăn. Rờ rẫm được một lúc bổng reo lên, thôi được rồi và  nói: “Bây giờ chúng tôi cố gắng hết sức, chạy được lúc nào hay lúc ấy. Nếu hư thì tính lại nữa.” Nói thế cho có chừng, nhưng có thuốc thần là cơm gà, cá gỏi, thuốc lá với bì thơ cồm cộm, là máy chạy tuốt tuồn tuột ngon lành, khỏi chê chỗ nào hết ! Còn bì thơ dầy cộm hơn nữa, thì trâu đỏ cày quên ngủ trưa. Nếu chủ nhiệm Hợp tác xã biết điệu nghệ hơn nữa, thì trâu đỏ cày luôn ngày chủ nhật.”

 

Đến khi hai con trâu đỏ ăn cơm gà, cá gỏi, thì cũng phải có loại nước gì nồng nồng, cay cay  làm  trơn  cuống  họng chứ ! ? Tội nghiệp những bác nông dân nghèo, phải “ thắt lưng buộc bụng”nhịn ăn, nhịn mặc, nai lưng đóng góp phần này. Chính những dân nghèo này, họ mới nhìn nhau qua ngấn lệ nhạt nhòa, tức tữi ! Họ nhìn hai con trâu đỏ ăn uống rượu thịt mà thèm, nước giải cứ chảy ra mà cầm không được. Còn trong lòng lại đang se thắt nỗi đắng cay cho cái xã hộiĐỉnh Cao Trí Tuệ này ! Rồi bất chợt, họ lại ước mong mình được làm con trâu đỏ như thế, để bỏ những ngày công: “Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da ! (Đói thì bụng cồn cào, xót xa khó chịu như lửa đốt, thì ai cũng biết. Nhưng mà dao hàn cắt da thì người Miền Tây Nam bộ khó hình dung ra được. Vì miền Tây nhiều sông ngòi kinh rạch, khí hậu mùa đông ít lạnh. Còn Miền Bắc núi đồi nhiều, ít sông suối. Cho nên  mùa Đông miền Bắc lạnh buốt, lạnh một cách khô khan. Vì thế mép miệng, kẻ đầu ngón tay và gót chân mọi người, hay bị nứt chảy máu, giống như dao cắt vào da thịt vậy.)

 

Còn loại trâu đỏ này, ở trong miền Nam rất hiền lành, mộc mạc thật thà. Nhưng khi lùa chúng ra miền Bắc, bị nhiễm virus của Liên Xô hay là Bành Trướng Bắc Kinh gì đó, hoặc Hội chứng Đỉnh Cao Trí Tuệ loài người, cho nên bị nhiễm lây quá nặng ! Do đó, nó mới trở chứng như vậy ! Lúc ấy, nhìn mấy con trâu đen cày nặng nề, chậm chạp, hì hục mà thương. Chỉ ăn toàn cỏ còi cọc, mà còn bị quất roi tơi bời trông thật tội ! Ngoài ra, còn có nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn khác, không thể kể hết. Chúng tôi chỉ nói sơ lược vài mẩu chuyện thực tế, mà gần như huyền thoại. Bởi chúng tôi đã sống ở vùng Trâu gỏ mõ, chó leo thang đó. Vì miền rừng núi, trâu hay lủi vào rừng vào bụi lùm ăn lá cây, muốn tìm nó rất khó khăn. Người ta phải cột vào cổ nó một ống tre làm mõ, trong ống tre có treo cái bù lon. Khi nó ăn cỏ, mõ tre khua lọc cọc, để người ta biết nó trong đám cây rậm nào đến dẫn về. Còn chó leo thang, là dân miền rừng núi hay cất nhà sàn cao, muốn lên nhà thí con chó phải keo thang !

 

Ở Mỹ người ta tổng kết, về việc chuyên viên tư vấn kinh tế cho các cơ quan chánh phủ hơn 10,000 người. Ở các nước thuộc khối Liên Hiệp Âu Châu có 1,000 chuyên viên kinh tế. Còn Vương Quốc Anh riêng là 100 chuyên viên. Trung Cộng nước lớn người đông và phức tạp, phải huy động một lực lượng lớn là 100,000 người chuyên viên trí thức, nhưng đa số phe nhóm hơn là tài năng. Do viện Khoa học Xã hội Bắc kinh, có gần 50 Trung Tâm nghiên cứu quốc sách, với 260 bộ môn do 4,000 nhà nhiên cứu điều hành. Còn Việt Nam thì đem Tố Hữu chuyên làm thơ để làm kinh tế, đem Đại tướng chỉ huy chiến trường, làm điều hành kế hoạch sanh đẻ. Cho nên trong dân mỉa mai:

 

Ngày xưa đại tướng cầm quân

Bây giờ đại tướng cầm quần chị em

 

Việt Nam không đào tạo nổi một chuyên viên kinh tế, cho nên mới ra nông nổi bệ rạc, xuống dốc trầm trọng qua các kỳ đổi tiền. Khiến cho vật giá leo thang, làm cho người dân lúc đó càng nghèo. Một mặt họ còn tịch thu vàng bạc của dân để làm của riêng, khiến cho bao nhiêu người cùng cực phải tự tử. Lộ nguyên bản chất là đảng Mafia cướp của hại dân, làm cho cả nước chịu nghèo hai mươi năm.

 

Đang viết những dòng này, chúng tôi nghe được tin:” Đợt rét bất thường ở miền Bắc trong tháng 02 (2008). này Lạnh từ 10 độ C xuống tới 0 độ C. Làm cho người nông dân nghèo vùng rừng núi cao nguyên miền Bắc, bị chết đến 136.000 con bò và trâu ! ! !” Nghe thật thảm thương cho người dân nghèo khổ. Dù họ phải đi xuống đồng bằng cách xa 50 đến 70 Km để mua rơm cho trâu bò ăn. Phải đốt lửa, phải đem chăn (cái mền) và bao bố đắp cho trâu bò, nhưng nó vẫn chết cóng. Trâu bò vùng này là tài sản quý giá của họ, nuôi sống gia đình họ. Bây giờ nó chết rồi thì họ trắng tay, còn dựa vào đâu để sinh sống ! ?  Vùng này trâu đỏ không cày được, vì ruộng bậc thang. Người ở dưới triền, còn ruộng nằm trên vách núi. Họ vạt vách núi khỏa bằng được chỗ nào, thì be bờ chứa nước suối làm ruộng tại chỗ đó. Phải cày lưỡi cày cổ lổ nhỏ và nhọn như mũi tên, giống như lưỡi cày thời Nghiêu Thuấn (Xem tranh Nhị Thập Tứ Hiếu có vẽ cảnh cày này ) cách đây hơn 5000 năm cổ đại. Để lòn lách với những tảng đá nằm choáng chỗ trong ruộng . Bây giờ trâu đen ăn cỏ, bò vàng gặm rơm không còn nữa, thì lấy cái gì cày bừa để nuôi sống gia đình ? ! Ai có sống qua những vùng này, mới cảm thông sâu xa nỗi khổ đau, nghèo nàn đáng thương của họ. Ở đây họ thường ăn khoai, ăn bắp trộn cơm. Còn tiền bạc triệu họ tìm đâu ra để mua trâu, mua bò ? ! Một con bò hay con trâu cày được, phải từ 9 đến 10 triệu trở lên theo thời giá lúc này. Còn nói đến nhà lầu, xe hơi thì dù họ có nằm mơ cũng không thấy nổi ! Bởi đó là Thiên Đường quá xa xăm, gần như huyền thoại mơ hồ họ không dám nghĩ tưởng đến. Nhưng không cách xa họ nhiều, lại có những người Đày Tớ Nhân Dân phè phỡn, ăn nhậu say sưa, hiếp gái vị thành niên, phải bồi thường bạc tỷ. Có người chơi cá độ thua 5, 10 triệu đô la là chuyện thường. Cho con cháu qua Mỹ học, đem theo hàng chục triệu mua nhà, gởi bank ăn chơi trác táng. Sao họ không nghĩ đến đồng bào ruột thịt ở quê nhà, mở rộng cánh tay giúp đỡ ? Lương bổng của họ được bao nhiêu ? Sao tiền bạc họ đào đâu ra nhiều thế ?! Trong lúc Việt Kiều Hải Ngoại, nghe nói người nghèo khổ thiếu ăn thì gởi tiền về giúp. Họ có tiền mà không giúp. Thật sự, đó là kết quả của sự tham nhũng qua máu của dân, mỡ của dân tận trời Âu, Mỹ, làm lụng vất vả để gởi về giúp đỡ thân nhân !. Hoặc từ ngân quỹ của nhà nước mà họ tham nhũng.

 

*   *   *

 

 

Còn nói về chúng tôi trải qua những tháng ngày lưu đày gian lao đó. Nếu chúng tôi không lên đồi trà cuốc hố, thì phá rừng trồng sắn, hoặc làm ruộng đông xuân, cấy lúa dưới ruộng nước mùa đông tê cóng. Cho nên có anh chịu không nổi phải bại xụi,  rồi bị liệt nằm một chỗ. Đó là cuộc sống chúng tôi sau 1975 như vậy..Chỉ được buổi tối ngồi uống trà, hoặc chia nhau một viên kẹo, rồi nhìn trời hiu quạnh mông lung, rỉ rả tâm tình cho nhau nghe. Cũng nhờ vào hoàn cảnh kỳ ngộ này, buổi tối anh Minh kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Đức Thầy, về Phật Trùm mà tôi chưa biết. Nhờ như thế, tôi nhận định là cuộc đời của chúng ta, luôn đối kháng nhau và lại nương tựa bổ túc cho nhau. Trong cảnh khổ khốn cùng, vẫn luôn tàng ẩn cái vui. Trong cái rủi ro, lại nẩy mầm may mắn, cũng như trong chia ly đã hiện ra ngày hội ngộ. Nếu không sống trong hoàn cảnh này, tôi đâu có dịp gặp giáo sư Trần văn Mãi, trung tá Huỳnh văn Minh và nhiều anh em, để biết thêm về Phật Thầy, Phật Trùm và Đức Thầy. Cũng như không có cơ hội găp các anh em phủ Tổng thống, phủ phó Tổng thống, phủ Thủ tướng, phủ Đặc ủy tình báo trung ương và các nhân vật đặc biệt khác quy tụ đông đủ ? Sống trong hoàn cảnh này, mới thấm thía hết tình nghĩa Huynh Đệ Chi Binh, của mọi sắc áo binh chủng cùng chung một màu cờ.

 

Nhân tiện đây, tôi xin ghi vài dòng chân thành cảm tạ Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nguyên Tư Lệnh QĐIV  +QK4, các Vị Tướng Lãnh, các Vị Tư Lệnh các Quân Binh Chủng, đã hoan hỷ giúp tôi nhiều vật thực, để nấu đãi các anh em không có thân nhân thăm nuôi lúc tết. Đó là dịp tết Nhâm-Tuất 1982 ở trại Nam Hà, với lễ cầu an đông đảo chưa từng có trong các trại tù miền Bắc. Chúng tôi cũng xin cảm tạ sự nhiệt tình, và tài ba của các anh em ngành an ninh, đã khéo đánh lạc hướng các cán bộ trại. Nhất là trung tá Lê đã khéo léo kêu gọi anh em trong Phong Trào Phục-Quốc còn trẻ, mới bị bắt sau này. Giữa trời trưa nắng, đã đem banh ra ngoài sân đá rồi hò hét, làm cho tiếng tụng kinh của hơn 70 người, không vang dội đi xa. Để chúng tôi yên tâm làm lễ, không phải vội vàng cuốn tượng, ôm chuông mỏ chạy dài như các Vị khác. Cần nói rõ thêm, bàn Phật là những cái rương chồng lên ghép lại, rồi trải tấm mặt bàn xem rất trang nghiêm. Tượng ảnh Phật do tôi vẽ trên giấy, dễ cuốn gọn thu dẹp khi hữu sự. Bình hoa làm bằng ống tre, chuông là cái tô kiễu tiếng rất thanh, mỏ là ống tre tiếng rất ấm. Trên bàn thật Phật trang nghiêm đầy đủ hương đăng, hoa quả và chè xôi. Nhưng vốn là nhà binh nhanh nhẹn tháo vát, mỗi người mỗi việc, cho nên viêc trang trí không đầy hai phút là xong tất cả. Sau thời lễ Cầu An cuối năm cho anh em và thân nhân của người đang vượt biên, và Cầu siêu cho các anh em xấu số đã nằm ở trên núi đồi hoang vắng. Kế tiếp là bữa cơm chay đơn giản, gồm bốn nồi cơm, ba nồi canh rau lớn và hai nồi đậu hủ kho với ba nồi chè xôi đượm đà đầy tình nồng chia xẻ .(Có những anh miền Bắc tù về hình sự, họ được trại tin tưởng cho ra vô tự do để phục vụ cho trại, mình cho tiền họ rồi nhờ ra chợ mua đồ giùm) Mỗi nồi lớn cở mười người ăn. Chúng tôi phân phối cho anh em được tin tưởng, ở mỗi phòng chỉ nấu hai nồi, để tránh các tay antenne phát giác.

 

Cần nói rõ thêm, chúng tôi sửa soạn nhà ăn thành Chánh Điện trong vòng vài phút. Vì đã phân công mỗi người mỗi việc nhanh gọn. Bàn thờ làm thành ba tầng cấp, được chồng lên bằng những cái rương ráp lại, phủ mặt bàn đẹp mắt. Tầng trên trang trí hình Phật do tôi tự vẽ. Tầng hai, để hai bình hoa bằng ống tre với hoa rừng, bình hương bằng cái tô kiểu, một cặp đèn cầy để trên hai chén úp. Cúng chè xôi với kẹo bánh để anh em hưởng lộc Phật. Chuông gia trì bằng cái tô Kiểu lớn, tiếng khá thanh. Còn mỏ là ống tre bương tiếng khá ấm. Còn tầng cấp dưới cùng, là cúng ông bà bằng cơm canh, do phân công nhiều anh em nấu. Hẹn trước là khi thấy ám hiệu, tôi ra sân lớn bên ngoài giũ áo lạnh. Anh em thấy thì nhiệm vụ của ai nấy làm chớp nhoáng trong một phút. Người đem cơm, người đem chè, người đem hoa, đem chuông, đem mỏ  v . v ...  Xúm nhau bưng dọn, trang trí và giữ an ninh cho chúng tôi làm lễ. Tuy lúc đó, chúng tôi gầy ốm, tóc tai dài nhằng như các Đạo Sư Tây Tạng ẩn tu. Mùa đông chúng tôi thường măc đồ nhà binh cho đở lạnh. Nhưng tôi với Thầy Hạnh Đạt (Hồ Trí), trong tù gọi là Thầy Trí, vẫn mặc y áo chỉnh tề, trông khá trang nghiêm. Khi lời nguyện hương vừa ngân lên, để cầu an cho anh em và gia đình anh em, và cầu siêu cho những anh em đã nằm xuống vĩnh biệt chúng tôi, gởi nắm xương tàn khắp núi rừng miền Bắc. Lời nguyện hương trầm ấm thiết tha, vô tình đã đi sâu vào tâm hồn anh em, như tiếng réo gọi hồn ai khiến anh em xúc động. Khi lời kinh hòa trong tiếng chuông ngân với nhịp mõ trầm hùng, làm chấn động không gian và rung động lòng người, càng làm cho anh em xúc động thêm. Hình ảnh chùa xưa sống lại trong lòng anh em, không còn ai nghĩ mình đang còn bị giam, đang bị khó khăn và hạn chế. Như có thần lực lôi cuốn mạnh, không ai có thể tự kềm chế được mình. Mặc dù tôi đã nhắc nhở anh em trước, nên tụng nho nhỏ vừa đủ nghe thôi ! Không ngờ sức ép tinh thần bị ức chế quá lâu, bây giờ có dịp trổi dậy mạnh mẽ như trái phá, như sóng thần cuồn cuộn dâng lên tràn ngập tâm hồn. Cho nên các anh em đều tụng lớn, tụng như mở hết cõi lòng, tụng để nói lên sự bất khuất, tụng để tiêu tan những phiền não ưu sầu, tụng để cho tâm hồn nhẹ nhàng an lạc. Tiếng tụng kinh đông người vang dội ra sân ngoài, làm cho các anh em giữ an ninh bên ngoài lo âu. Anh trung tá Lê trưởng toán giúp an ninh, nghe tiếng tụng kinh lớn quá ! Anh vội vàng chen lách vào bên trong rỉ tai tôi :”Thầy ơi ! Nói anh em tụng kinh nhỏ lại, chứ kéo dài như vầy thi không xong đâu !”. Tôi thấy tình hình đang căng thẳng như đi trên lửa, mà tinh thần anh em đang lên cao, không thể ngăn cản, không thể kiềm chế được nữa. Tôi đành nói với anh Lê :”Thôi anh ra ngoài tìm cách khác giải quyết, tôi thấy anh em đang liều mạng đi trên lửa rồi, không thể kiềm chế được đâu !” Anh Lê lo lắng, nhưng nhờ tài ba khéo léo, như có Hộ Pháp ủng Hộ anh tìm cách đánh lạc hướng lính canh. Anh điều động giới trẻ, thuộc thành phần Phục Quốc bị tù sau. Kêu họ đem banh ra sân đá giữa trưa nắng, rồi la hét vang dội. Nhằm làm loảng tiếng tụng kinh trong này và đánh lạc hướng sự chú ý của công an. Cần diễn tả rõ thêm, Trại tù chúng tôi có hai dãy nhà lớn, mỗi dãy có sáu nhà. Mỗi nhà có hai dãy sàn xi măng lổm chổm cho tù nằm và hai dãy sàn cây gập gềnh tầng  trên. Mỗi dãy nằm chật phải trở đầu mới nằm được là 22 người, nằm thưa 10 người là vừa. Mỗi nhà có tường cao bao quanh và rào dây kẽm gai trên đầu tường. Sân trước nhà rộng để trồng hoa, làm hồ non bộ và tập họp điểm danh mỗi ngày hai lần. Sân sau hẹp, từ vách nhà cách tường rào hơn 2m, anh em dùng làm bếp nấu nướng ăn thêm. Còn bên ngoài tường, giữa hai dãy nhà, là cái sân lớn để tập họp toàn trại, trình diễn văn nghệ hay là chiếu cinéma. Buổi chiều dùng làm sân banh cho giới trẻ hoặc ai có sức. Như vậy chúng ta thấy, bên ngoài sân lớn chung và bên trong nhà giam, còn ngăn bởi một bức tường cao. Vì thế, bên ngoài chỉ nghe tiếng hò hét, đá banh của thanh niên Phục Quốc. Còn bên trong chỉ nghe tiếng chuông mõ trầm hùng và tiếng tụng kinh vi diệu. Sau ngày làm lễ, có sự khó khăn cho tôi. Nhưng nhờ Phật lực hộ trì, việc gì cũng qua. Riêng tôi bị đổi qua phòng giam khác. Điều làm cho tôi vui, là anh em phấn khởi lên tinh thần, bớt buồn lo, có điểm tựa tinh thần và đoàn kết chung quanh tôi.

 

Sau những ngày làm lễ cầu an và cầu siêu tất niên đó, tôi xuống bệnh xá nằm tỵ nạn. Anh Phạm Hữu Trung bên cảnh sát, đến gặp riêng tôi xin quy y. Tôi thấy mình đức mỏng nghiệp nhiều, nên giới thiệu anh đến Hòa Thượng T. Thiện Chánh và Hoà Thượng Giám Đốc Nha Tuyên Úy T. Thanh Long để anh đến quy y. Nhưng anh không chịu, tôi đành hẹn anh nên trở về suy nghĩ kỹ nên quy y với ai, bảy ngày nữa sẽ tính sau. Nhưng lòng chân thành tha thiết của anh, mới sáng hôm sau kẻng vừa báo thức. Các phòng vừa được mở khóa cho anh em sinh hoạt, thì anh Trung đã đến tôi đang nằm ở bệnh xá, cương quyết xin quy y. Không thể từ chối nữa, tôi mời Hòa Thượng T. Thiện Chánh, mới xuống bệnh xá nằm cạnh tôi, chứng minh cho buổi lễ Quy y thêm long trọng. Thế là bàn Phật trong chớp nhoáng được bày ra với hình tượng Phật, bình hoa bằng cái tách nhựa, chưng 5 cái hoa cúc hoa hồng hái trước sân. Lễ Quy Y bắt đầu, tuy đơn giản nhưng thật trang nghiêm và đầy đủ nghi thức như ở chùa. Từ đó anh trở thành thị giả cho tôi. Ai cho tôi món gì thì anh nấu, quần áo anh giặt giùm tôi. Bây giờ anh không còn là anh Trung nữa, mà anh trở thành Đại Đức T.Pháp Quang, hiện ở Tu-Viện Pháp Vương của Hoà Thượng T.Vân Đàm tại vùng Washington D.C.

 

Cuộc sống chúng tôi lúc bấy giờ như thế ! Phải trải qua nhiều trại, chúng tôi đã đổ những giọt máu chảy ở rừng sâu. Bởi những thương tích, do phá rừng xẻ núi, nhất là đốn nứa làm nhà. Khéo lắm mỗi ngày cũng ít nhất 40 vết nứa cắt trên hai tay và thân mình. Đến nỗi máu ra không còn đỏ nổi, chỉ toàn nước vàng với chút màu hồng lợt. Vì ăn lát sắn khô với nước muối pha loảng, ngoài ra không có gì dinh dưỡng. Lâu lâu ăn được vài miếng da trâu, kho với nước muối bốc lên mùi tanh ói. Được ăn như vậy gọi là ân huệ lắm rồi, để cầm máu bớt chảy hơn. Ngoài những giọt máu, là những dòng mồ hôi gian truân vất vả, và những dòng nước mắt cảm thương anh em kiệt sức chết bất ngờ. Nhất là lúc ở Hoàng Liên Sơn, ít tuần là có một chiến hữu vĩnh biệt anh em, vì ăn trái vải Guốc, ăn lá Ngón hay là ăn dây rau má dại trong rừng. ( Lá rau má ăn được, nhưng dây rau má rừng nó cứng như cọng tăm, dễ gảy và thành những cạnh nhọn đâm vào thành ruột non. Cho nên ăn vào đầy hơi và đau đớn vô cùng, càng uống thuốc tiêu lại càng đau hơn. Khi giải phẩu kiểm nghiệm mới thấy) Vì thế, anh em không biết ngày nào lại đến phiên mình lên đồi nằm. Anh em đã vĩnh biệt chúng tôi nằm lại nơi núi rừng, anh em đã sanh Nam, tử Bắc nơi núi đồi lạnh lẽo cô đơn. Có lúc chúng tôi trải qua các trại giam, chết đi sống lại, gần gũi với cái chết không lường trước được, tưởng đã ra người thiên cổ lâu rồi. Nhưng nhờ có Phật lực hộ trì, cho nên chúng tôi vẫn sống và vẫn cười vui vẻ. Chính nhờ vậy, tôi mới viết được quyển sách này, bằng những kết tinh bi thương, bằng những kiên trì chịu đựng hùng tráng. Tuy cay đắng xót xa, nhưng vẫn pha lẫn khôi hài như chuyện huyền thoại đã kể ở trên. Có một điều, làm cho chúng tôi thấy rõ được sự thật, pha lẫn chút tự hào. Là một  hôm  ở  trại  Nam Hà, chúng  tôi  hỏi vài đứa bé con của công an quản lý trại:

 

-         Các cháu lớn lên có muốn làm sĩ quan quản lý trại không ?

Mấy đứa trẻ đáp ngay :

-         Không ?

-         Các cháu muốn làm cán bộ cao cấp chứ gì ?

-         Không ?

-         Vậy khi lớn các cháu muốn làm gì ?

-         Muốn làm tù Chánh Trị như các bác !

Mọi người lúc bấy giờ đều trố mắt ngạc nhiên, hỏi:

-         Các bác bị tù mất tự do, thiếu thốn mọi thứ, tại sao các cháu lại muốn ?

-         Vì các bác đang tù mà chẳng phải lo gì cả ?! Rồi các bác sẽ được Mỹ lãnh qua bên đó. Thế là được tự do, được sung sướng ở quốc gia giàu mạnh, ai mà không muốn ?  !

 

Tôi lại không nghĩ như vậy ! Vì qua Mỹ chỉ được Tự Do, nhưng chưa chắc được sung sướng. Vì phải đi làm, phải lo nhiều việc, phải đóng thuế. Thật vậy, qua Mỹ có nhiều người sáng đi làm không thấy mặt trời mọc, tối mới về không thấy mặt trời lặn, thì sung sướng ở chỗ nào ? ! Ngoài ra phải nhín mặc, nhín xài, cái gì cũng phải tiện tặn. Mới có tiền dư gởi về cho cha mẹ, cho thân nhân ruột thịt đã chia xẻ cơm đùm, muối bọc cho mình sống sót trở về. Với may mắn mình được qua Mỹ, nhưng gia đình họ còn ở lại Việt Nam .

 

*   *   *

 

 

Đối với tôi, lúc còn trong trại giam cho đến bây giờ. Tâm tôi vẫn thanh thản, không thù hận, cũng không oán ghét ai. Đối với tôi, chỉ có tình thương, cảm thông và tha thứ. Suy nghĩ kỹ, nếu mình sống trong xã hội đó, hoàn cảnh đó, thì mình bị nhồi nhét cũng như người ta thôi! Nếu phải tranh đấu lại phải hy sinh thêm một thế hệ nữa ! Rồi sau này, người kế tiếp mình, có làm theo ý mình không ? Hay lại lo hưởng thụ độc tài nữa ! Tôi rất Quý trọng những nhà đang tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ và những anh em đã và đang tù đày vì chính nghĩa Tự Do.

 

Tôi đã sống theo giáo lý từ bi, hỷ xả của Đấng Cha Lành Tam Giới. Hơn nữa nhận thức lời Phật dạy:” Những hoàn cảnh khắc nghiệt, những sự việc khổ đau mà ta gánh chịu đời này, là kết quả của nguyên nhân nhiều đời trước chúng ta đã gieo..” Vậy khi nghiệp đến. Chúng ta hãy vui vẻ chấp nhận trả nghiệp, là chúng ta sẽ cảm thấy an ổn ngay, không ưu phiền không khổ sở. Vì đa số người ta khổ là vì không nghĩ đến trả nghiệp quả. Hơn nữa người ta khổ bởi hoàn cảnh thì ít, nhưng lại khổ nhiều gấp bội, do lo lắng rầu rĩ, do sợ hãi chết chóc, do hoang mang khủng hoảng tinh thần thì quá nhiều. Đó là nhân sinh quan của tôi. Cho nên tôi tuy lớn tuổi hơn nhiều anh em, nhưng lại trông trẻ hơn và khỏe hơn. Có nhiều anh em trẻ hơn tôi, nhưng lại già hơn. Thậm chí có người buồn đến tóc bạc sớm và răng rụng nhiều. Bởi khi chúng ta lo rầu khổ sở, thì hệ thống thần kinh xáo trộn chức năng. Khiến cho nội tạng rối loạn. Giống như đèn giao thông bị chạm mát, chớp tắt không đúng kỹ thuật, gây tai nạn giao thông ! Cho nên tóc cũng không có điều kiện để giữ được carbon làm đen, mà thải ra ngoài làm cho bạc trắng mái đầu như ông cụ.Vì thường thường, người ta khổ đau vì hoàn cảnh thì ít. Nhưng do lo sợ, hoang mang, ưu phiền, than thân trách phận. chính những điều này làm cho người ta đau khổ gấp nhiều lần hơn. Cách biết sống, là người ta sẵn sàng chấp nhận hiện tại, để làm vui là mình đang hiện hữu, đang đối diện với khổ đau mà không sợ hãi. Như vậy là mình đã chiến thắng bước đầu rồi. Như anh A là tù binh, ngồi trong song sắt, nhìn vào vách tường đang giam nhốt mình mà than thở. Đương nhiên anh ta cảm thấy buồn khổ nhiều, chóng già và dễ đau yếu mòn mõi. Cùng trong tù, nhưng anh B này lại nhìn ra bầu trời cao, ngắm chim bay, nhìn mây trắng, thưởng thức ánh trăng ngà, miệng ca hát. Đương nhiên anh B này vui, khỏe và tươi trẻ hơn. Tại sao ta không thản nhiên chấp nhận, để sống cho vui !? Lại dại dột đày đọa mình thêm, để làm cho mình đau khổ nhiều thêm. Cho chóng già nua và bệnh hoạn !

 

Vì khi mình lo rầu, thì hệ thống thần kinh căng thẳng và xáo trộn. Thay vì chất vôi được điều hòa cung cấp cho răng tốt, cung cấp cho xương chắc. Nhưng sự xáo trộn hệ thần kinh, làm cho các tạng phủ ảnh hưởng không hấp thụ. Chất vôi lại bị đẩy vào gan làm cho sạn đóng ống dẫn mật, đẩy xuống thận làm cho sạn thận. Chất đường cơ thể không hấp thụ, vì thiếu insulin do lá lách không tiết ra, thải vào máu thành ra người ta bị tiểu đường v . v . . Người xưa nói :” Tâm sầu bạch phát” là tâm buồn phiền quá thì đầu bạc sớm. Cho nên có nhiều anh tuổi nhỏ hơn tôi tóc bị bạc trắng và răng hư mau rụng. Tất cả điều này do ta biết cách sống, thì tinh thần ổn định, tâm an lạc thì thân cũng được an. Đức Phật dạy :

 

Không hối tiếc chuyện quá khứ

Không ưu tư chuyện vị lai

Hãy sống ngay thực tại

Được an vui lâu dài

 

 

*   *   *

 

 

Đến khi tôi được trả về, có dịp thuận lợi là tôi đi tìm các tài liệu tham khảo thêm. Dù tôi đã đọc qua nhiều loại sách, nhưng một hôm vô tình, tôi đọc ngay tài liệu tham khảo của giáo sư Trịnh văn Thanh, nói về Phật Thầy cho đến Đức Thầy. So sánh những tài liệu tôi tham khảo, cũng như các vị bô lão kể lại tôi ghi chép, thì giống hết 90%.

 

Tôi lại nghiên cứu thêm những bộ Việt Sử Toàn Thư của giáo sư Phạm văn Sơn tương đối đầy đủ, bộ Việt Sử của ông Trần trọng Kim rõ ràng và chính chắn . Bộ An Nam Chí Lược của Lê Tắc là kẻ phản bội Tổ quốc theo Tàu. Hắn ta đã dùng những chữ không chấp nhận đươc, như gọi Hai Bà Trưng là nữ yêu tặc, gọi các thuộc tướng của hai Bà còn lại là dư đảng giặc. Không biết ai sinh ra hắn, mà hắn phản phúc và gian manh như vậy ! Nhưng có một điều là hắn ghi được những dòng lịch sử mà không ai biết. Do Viện Đại Học Huế thấy rõ điều này, cho nên phiên dịch và xuất bản trước năm 1975 để cho mọi người làm tài liệu. Bộ Quốc Sử Quán triều Nguyễn, bộViệt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ, bộ Thiền Uyển Tập Anh của Kim Sơn, sau này Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát biên tập lại. Và Thiền Uyển Tập Anh do Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch. Tôi tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến sử Việt Nam, liên quan đến cung đình Huế, gồm các vị vua chúa và các phi tần trong những thời điểm quân Pháp xâm lươc v. v ...   Mục đích là tra khảo thêm niên giám các triều đại, để biết rõ thêm sự việc đó nhằm triều đại vua nào ở Việt Nam. Đồng thời truy tìm những gì có liên quan đến Phật Giáo, cũng như hiện tình đất nước ta lúc đó như thế nào ? Vì đó là bối cảnh cần thiết, để biết rõ vị Phật đó ra đời trong hoàn cảnh nào ! Nhất là thời Pháp thuộc dân ta ra sao? Từ đó tôi tìm đọc thêm quyển :  “Tận thế Hội Long Hoa” và tìm đọc lại bốn cuốn Sám giảng của Phật Thầy, của ông Sư Vãi bán khoai và của Đức Thầy. Dù những sách này, tôi đã đọc trước năm 1970, để đi hoằng pháp vùng Châu Đốc, Tri Tôn, Tân Châu, Hồng Ngự và Cái Dầu. Chúng tôi đã tiếp xúc nhiều vị bô lão tìm hiểu học hỏi thêm. Cộng với thời gian lúc tôi điều hành và dạy trường Bồ Đề Long Xuyên, kiêm Giám Đốc Bồ Đề Chợ Mới. Lúc đó Hoà Thượng T. Đức Niệm còn là Đại Đức làm Hiệu Trưởng,. Nhưng mỗi năm Thầy chỉ xuống Chợ Mới một lần rồi đi du học Đài Loan. Tôi phải qua hàng tuần giảng dạy, chăm sóc tinh thần khuyến khích anh em văn phòng và học sinh. Do đó, có dịp lúc chiều và tối, tôi tiếp xúc với các vị trưởng lão Phật Giáo Hòa Hảo địa phương. Vì Quận Chợ Mới, Phật Giáo Hòa Hảo hơn 80%. Nhờ vậy tôi đã có một số vốn liếng về Phật Thầy và Đức Thầy, nhưng lúc đó tôi chưa nhận thức đầy đủ. Mục đích tìm hiểu  lúc đó, để hiểu biết rõ Tôn giáo bạn khi đi giảng vùng Phật Giáo Hoà Hảo, khi cần đề cập đến những gì liên quan chung của Phật Giáo mà Đức Thầy kêu gọi :

 

“Cả tiếng kêu cùng khắp chư Tăng

Với Tín nữ, Thiện nam Phật Giáo

Nên cố gắng trau thân gìn Đạo

Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành

Làm cho đời hiểu rõ thanh danh

Công đức Phật từ bi vô lượng "

 

Còn những mẩu chuyện, về những vị có hạnh tu đặc biệt, có Huệ mầu thông suốt, hay những vị là Bồ Tát ứng hiện qua nhục thân, tôi cũng có duyên lành nghe các Phật tử kể lại cới sự kính trọng tột bực. Hoặc chính tôi  thấy, hay là đuợc tiếp xúc trong những lúc riêng tư đặc biệt. Tôi sẽ kể lại trong sách này, để cống hiến quý vị. Hiện tại bây giờ cũng có những vị tương tợ như vậy, đang hành đạo, hóa đạo cứu nhân độ thế. Nếu ai có duyên khi về Miền Tây sẽ gặp được các Ngài đang hiện hữu. Chứ không phải mơ hồ xa xôi như chuyện xưa tích cũ, hay là chuyện thần thoại hoang đường, hoặc như chuyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, mang tính chất tưởng tượng, huyền ảo đưa người vào cõi mộng . Nhưng trong sách này, tôi có kể một mẩu chuyện thực tế gần đây,  có nhiều anh em biết. Cốt chuyện thật ly kỳ vừa ảo vừa thực, còn hơn chuyện Liêu Trai Chí Dị .

 

Về những chuyện vui lạ tôi kể về miền Bắc ở phần trước, mới nghe qua như huyền thoại. Nhưng thực tế đã xảy ra rất nhiều người biết. Nhất là dân miền Bắc, họ đã chứng kiến và kinh nghiệm vấn đề này nhiều. Còn ở miền Nam cũng có nhiều chuyện hấp dẫn, báo Tuổi Trẻ cũng hay đăng. Những chuyện tôi sắp kể về miền Tây Việt Nam sau đây, người chưa nghe lần nào, hay chưa biết chưa chứng kiến. Cũng có thể cho là chuyện hư cấu huyền thoại, là chuyện lạ của mấy ngàn năm trước. Nhưng nó vẫn thực sự hiện hữu, đối với người vùng Cửu Long Thánh địa hữu duyên. Nhất là những người tu tại gia hay làm phước, hay giúp đỡ người nghèo khổ, tánh tình họ chân thật, nên các vị hay đến với họ. Trong sách này, tôi có sưu tầm ghi chép các mẫu chuyện về những Vị có hạnh tu đặc biệt, những Vị có huệ mầu thông suốt. Hay là những Vị Bồ Tát ứng hiện qua nhục thân, các Ngài thay hình đổi dạng trước mắt chúng ta, mà chúng ta không biết. Đôi khi người Phật tử tụng kinh, đến danh hiệu các Ngài như réo gọi. Bố Tát Quán Thế Âm, Đại Hạnh Phổ Hiền v . v . . Thời kinh vừa dứt, thì các Ngài đã đến trước cửa đứng chờ rồi ! Nhưng rất tiếc lại coi thường Ngài, không ai đón tiếp mừng rỡ. Vì thấy các Ngài rách rưới xin ăn ! Thế gian là vậy, khi vắng thì kính trọng, kêu gọi tha thiết, nhưng khi gặp lại coi thường, đôi lúc tỏ vẻ như khinh bạc. Vì chúng ta chỉ chờ Ngài từ trên mây sa xuống, với dung nghi đẹp đẽ, y phục rực rỡ với hào quang sáng chói, Chứ có bao giờ nghĩ, là các Ngài sẽ thị hiện một người tầm thường, nghèo rách nhất thế gian đâu !

 

Một người Phật tử thật sự, không nên xem thường ai. Bởi ai cũng là một vị Phật sẽ thành. “Vị Phật sẽ thành thì có những nhu cầu cần hơn vị Phật đã thành. Cho nên sự chăm sóc cúng dường vị Phật sẽ thành, là những công đức vô cùng quý giá và cần thiết, để làm trợ duyên cho vị đó mau thành thì công đức vô lượng”. Ngày xưa, nếu Ngài Ngộ Đạt Quốc Sư không ân cần săn sóc, không thân mật an ủi trò chuyện với một Thầy bệnh hũi đến chùa. Chắc chắn không ai cứu được Pháp sư, khi mang chứng bệnh ghẻ mặt người hành hạ đau nhức ngày đêm. Để hiểu rõ đức tính khiêm tốn, lòng từ bi thương giúp người bệnh hoạn, là một hạnh tu quý giá và cũng là yếu tố quan trọng cứu mình khi lâm phải gian nguy. Tôi xin kể mẫu chuyện nhân quả của Ngài Quốc Sư Ngộ Đạt, để hầu quý vị rõ :

 

“Thuở tiền kiếp xưa, một chuyện nhân quả hy hữu đã xảy ra bên Trung Hoa vào thời vua Ý Tông. Lúc bấy giờ Ngài Ngộ Đạt còn là vị Tăng trẻ đang đi du học các nơi, chưa nổi tiếng nên chưa ai trọng vọng. Người ta gọi tên Ngài là Tri Huyền. Bẩm chất Ngài thông minh, nhân hậu và đường đường tướng hảo. Trong lúc Ngài đang đi du học, một hôm đến ngụ ở ngôi chùa trong kinh thành. Gặp một vị Tăng mang bệnh hũi lở loét, mọi người trong chùa sợ hãi tránh xa không ai thân thiện. Ngài động lòng từ bi, gần gũi thân thiện, chăm sóc tận tình vị Tăng bệnh hủi, và thảo luận Phật pháp. Ngài thương vị Tăng có kiến thức sâu rộng không ngờ, lại bệnh hũi nên không thể hoằng pháp được. Ngài ân cần săn sóc và an ủi, trở nên thân thiện. Ngài ở kinh thành, tìm học các vị cao Tăng một thời gian, thông suốt tam tạng,giáo điển, thấu đáo thiên văn địa lý, rành các sách sử sâu rộng. Đến khi ngài thăng tòa, thuyết pháp như dòng thác thao thao bất tuyệt, làm tươi mát lòng người, làm sáng tỏ được con đường đạo mà ai cũng cần phải đi. Lúc ấy người ta mới biết đạo hiệu của Ngài là Ngộ Đạt làm Pháp sư. Vì muốn tham học thêm, nên Ngài từ giã trong chùa và giã từ vị Tăng bệnh hủi để tiếp tục hành trình. Vị Tăng bệnh hủi đó, cảm kích cái ân chăm sóc thân tình. Cho nên trong lúc chia tay ân cần dặn: “Sau này khi ông có nạn gì, hãy nhớ lên núi Cửu Long ở Châu Bành, thuộc quận Ba Thục tìm tôi. Tôi sẽ giúp cho ông. Nhớ chỗ tôi ở trên núi có hai hàng tùng cao, hãy nhớ tìm đến đó !”. Ngày tháng thoi đưa, qua nhanh như bóng câu chạy qua cửa sổ. Lời dặn dò đó quên dần trong ký ức của ngài. Lúc đó ngài đến một ngôi chùa An Quốc tại Kinh-đô. Ngài thuyết nhiều thời pháp vang danh, từ hàng thứ dân cho đến giới trí thức, quan quyền đều khâm phục.Danh tiếng  ngài vang đến cung đình, vua Ý Tông cho thỉnh ngài vào hoàng cung thuyết pháp, rồi gạn hỏi chỗ diệu mầu uyên thâm của Phật pháp, chuyện kinh sử đời xưa, ngài đều thông suốt, luận giải tinh tường sâu sắc. Vua kính quý, tôn ngài làm Quốc sư, tứ ân rất hậu. Cho thợ giỏi vào cung chạm khắc tòa trầm hương quý giá ban cho ngài. Với tước phẩm cao sang quý nhất thiên hạ, danh vị tột đỉnh không ai hơn. Khi ngài ngồi trên tòa trầm hương thơm ngát, bất chợt ngài khởi ý niệm tự hào về danh vọng, làm cho cái ngã phát triển bị ô nhiễm trần cấu, tổn đức lành rồi sanh bệnh. Trên đầu gối bên trái càng ngày càng sưng to và đau nhức. Ít ngày sau hình thành một mụt ghẻ mặt người thật dữ tợn. Có lằn mi giống như mắt,có nổi dạng giống mũi, miệng răng đầy đủ, ai trông thấy lạ lùng cũng kinh hãi.

Mụt ghẻ thường hay đau nhức khó chịu, ai nói đụng chạm đến là nó trợn mày nghiến răng, làm cho Quốc sư càng đau đớn quằn quại, khó chịu vô cùng. Phải nói nhẹ nhàng dịu ngọt, đút thịt ngon cho nó ăn, đưa rượu ngon cho nó uống, thì lúc đó mới ngưng đau nhức. Các quan Ngự y trong triều, cũng phải bó tay, không dám chữa trị nữa, và cũng không ai dám đá động đến nó. Vì nói động đến nó, nó sẽ hành hạ Quốc sư chết đi sống lại. Xưa nay chưa có ai mắc bệnh này, cũng chưa có sách sử nào ghi chép bệnh ghẻ mặt người, biết ăn thịt, biết uống rượu lạ lùng như thế ! Mỗi ngày mỗi trầm trọng, miệng của nó lại hay chảy ra nước vàng hôi hám dơ bẩn, nó đau nhức thấu xương, ngài chỉ có cách cắn răng chịu đựng.

 

Tuy nhiên hằng ngày, ngài cũng rán lễ Phật tịnh tâm. Một hôm sau khi niệm Phật tịnh tâm xong, bất chợt ngài nhớ đến vị Tăng bệnh hũi. Lúc giã từ, vị Tăng này đã ân cần dặn dò là : Sau này ông có nạn, hãy lên núi Cửu Long tại Châu Bành, Quận Ba Thục mà tìm tôi. Tôi sẽ giúp ông ! Chỗ tôi ở trên núi, có hai hàng tùng cao. Hãy nhớ tìm đến đó !” Quốc sư mừng thầm suy nghĩ, chắc vị Tăng này là Bồ Tát hóa hiện để giúp mình chăng ? Ngài vội chuẩn bị hành lý gọn, quảy túi lên vai với người tuỳ tùng, chống gậy đến tìm vị Tăng đó ! Trải qua đoạn đường thiên lý, với sơn khê vất vả, ngài mới đến chân núi Cửu Long. Trời đã vào Xuân hơn một trăng rồi, núi rừng đang thay màu áo mới, những hoa rừng đua nhau nở rộ với mùi thơm hoang dại của cỏ cây. Trời chiều tà hồng rực, những đàn chim hót gọi nhau bay về tổ ấm, hoà thành bản nhạc có nhiều âm điệu trầm bổng, ríu rít, rộn ràng. Tuy từ dưới chân núi, nhưng đã thấy rõ hai hàng tùng cao ngất ở trên cao, hiện trên khung trời đỏ rực lúc hoàng hôn, như réo gọi hãy cố gắng  nhanh chân vì đang đến đích. Lòng ngài hân hoan, dù đã trải qua cuộc hành trình mệt mõi, nhưng sắp đến nơi rồi đúng như lời hẹn nhắc của năm xưa. Ngài chống gậy lần theo con đường mòn lên núi. Tuy lên triền dốc núi cao, nhưng sao trong người Quốc sư vẫn khỏe, mà mụt ghẻ mấy ngày gần đây, nó cũng không hành hạ ngài như trước. Đi một đoạn rồi nhìn lên, Quốc sư thấy một cung điện nguy nga, hùng vĩ, sáng rực một khung trời. Trong lòng cảm thấy vui mừng, bước chân ngài càng nhanh nhẹn. Càng lên cao, cảnh hoa thơm cỏ lạ càng nhiều, không biết đây là cõi tiên hay cõi Phật. Duy điều đặc biệt nhất, là trong người Quốc sư cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát lạ. Ánh tà dương bây giờ đã khuất , nhưng ánh sáng vẫn rực rỡ khác thường, làm cho khách phương xa rộn lên niềm vui khó tả. Khi Quốc sư  đến cổng tam quan, thì thấy vị Tăng năm xưa đã đứng đợi sẵn ở đó tự lúc nào. Nhưng lạ lùng thay, vị đó không có bệnh hũi, mà tướng thể trang nghiêm đẹp đẽ khác thường. Gương mặt của vị ấy sáng rỡ, hiện rõ nét từ bi khả ái, với nét trí tuệ tuyệt vời của một vị Bồ Tát. Vị Tăng đó đón tiếp Quốc sư ân cần và thân thiện. Còn Quốc sư là người tha hương được ngộ cố tri, là người bệnh gặp thần y cứu giúp, thì nỗi vui mừng nào tả xiết.

 

Sau khi lo công việc thường nhật của bản thân xong, Quốc sư mới hàn huyên tâm sự, kể lại đầu đuôi bệnh chứng phát sanh. Vị Tăng đặc biệt ấy, yên lặng nghe, để Quốc sư kễ lễ tâm sự cho hết, để trút bỏ những phiền não đang vương mang, cho nhẹ nhàng tâm hồn. Khi Quốc sư dứt lời, vị Tăng ấy với giọng trong ngân, nhưng ấm áp thân thiện nói: “Ông đã đến đây rồi, thì mọi sự đã xong. Ông không phải lo sợ về chứng bệnh đó nữa ! Dưới núi này có cái suối Thanh Lương, Sáng mai, ông hãy xuống suối khoát nước rửa mụt ghẻ đó. Nó sẽ rơi rụng, hết ngay lập tức.Thôi bây giờ Quốc Sư hãy niệm Phật, tịnh tâm rồi đi nghỉ .”

 

Hôm sau, Quốc sư thức dậy sớm, ngồi niệm Phật, tịnh tâm. Đợi trời vừa hừng đông, khi chim rừng líu lo ríu rít, reo mừng trời bình minh đang chuyển mình rực rỡ. Một chú tiểu vui tươi với nụ cười mát dịu, gương mặt chú sáng như trăng thu, tươi cười đưa Quốc sư xuống suối rửa mụt ghẻ. Bầu trời hồng hồng, gió mai nhè nhẹ, chim rừng ca hót líu lo, làm cho cảnh núi rừng hôm nay vui nhộn, giống như niềm vui của Quốc sư đang bừng dậy trong lòng. Buổi sớm mai, dòng suối trong ngần và mát lạnh, in hiện cả bầu trời rực rỡ của ban mai. Nền trời xanh với mây hồng, điểm những con hạc trắng bay qua, gieo những tiếng trong ngân vang dội cả núi rừng. Quốc sư cảm thấy tâm hồn thanh thoát nhẹ nhàng, liền bước xuống suối định khoát nước, định rửa cái mụt ghẻ oan nghiệt đó. Nhưng ! Bổng có tiếng nói lớn vang lên từ mụt ghẻ, làm chấn động dòng suối, khiến con nai vàng đang uống nước, cũng giật nẩy mình bỏ chạy :

 

-    Hãy khoan rửa, Ông hãy nghe tôi nói xong hãy rửa không vội. Ông là Quốc sư, học nhiều biết rộng, thông suốt những chuyện cổ kim. Vậy ông có đọc mẫu chuyện, Viên Án giết oan Triệu Thố, trong bộ Tây Hán không ? !

Quốc sư đáp :

-    Có ! Tôi đã đọc hết mẫu chuyện đó !

-   Vậy lẽ nào ông lại không biết rõ những tình tiết trong ấy ! Viên Án đã giết oan Triệu Thố ?! Chính ông là Viên Án thuở xưa đó ! Còn tôi là Triệu Thố bị giết oan đây ! ! !

Quốc sư cảm thấy bàng hoàng, sợ hãi, lo lắng, bủn rủn chân tay, còn mụt ghẻ Triệu Thố ngưng một chút rồi nói Tiếp:

-   Vì nỗi oan khiên tức tối khôn nguôi đó ! Cho nên tôi căm hờn phải theo ông báo oán mãi. Nhưng trải qua mười đời ông tu hành nghiêm cẩn, vòng hào quang giới đức bao phủ bảo vệ ông. Cho nên tôi không thể xâm phạm đến ông để báo thù được. Nhưng thời gian gần đây, ông được vua trọng vọng trân quý, ưu ái, rồi ân tứ đủ điều vinh hoa, lại còn ban cho tòa trầm hương để ngồi. Do đó, tâm danh vọng cao sang của ông nổi lên sự ham thích, thấy không ai bằng mình, cho nên ông bị tổn phước đức lành. Vì thế, vòng hào quang bị mờ thưa, tạo thành cơ hội thuận tiện, cho tôi xâm nhập vào đầu gối để hành hạ ông, trả thù cái mối hận lâu dài của tiền kiếp xa xưa ! Nhưng may mắn cho ông, là thời gian trước ông có lòng từ bi, chăm sóc người bệnh hũi mà ai cũng sợ xa lánh. Chính vị đó là Bồ Tát A Nặc Ca hóa hiện. Vì thương ông muốn giải cứu cho ông, cho nên Bồ Tát đã dùng Tam Muội Thủy, rửa sạch cái oan khiên phiền não lâu đời đó cho tôi rồi. Bây giờ, tôi không còn oán hận ông nữa, tôi với ông chấm dứt hận thù từ đây. Nhờ ân đức của Bồ Tát, bây giờ tôi đi chuyển kiếp. Còn ông đã rõ oan nghiệp, hãy cố gắng tu hành, đạo hạnh cho cao siêu, để phổ độ chúng sanh đang hướng vọng về ông.

 

Nghe xong mọi việc, Quốc sư thất kinh hồn vía, bàng hoàng rủn cả chân tay, té ngồi bên bờ suối. Một lúc lâu mới hồi tỉnh lại, trong người vẫn còn bần thần bất an. Nhưng chực nhớ mụt ghẻ trên đầu gối, Quốc sư niệm Phật cầu nguyện cho Triệu Thố sớm siêu sinh, rồi khoát nước vội rửa mụt ghẻ oan nghiệt đó ! Lạ thay ! Quốc sư khoát nước rửa đến đâu, mụt ghẻ rả ra từ từ rơi đến đó, rồi tan mất. Đầu gối trơn lẳn trở lại, nhưng vẫn còn vết tích một lớp da đỏ hồng mới hình thành. Quốc sư rửa tay, rửa mặt cho hồi tỉnh hoàn toàn. Khi nghe trong người đã khỏe khoắn liền bước lên bờ. Quốc sư định lên đảnh lễ tạ ơn Bồ Tát A Nặc Ca, đồng thời lấy hành lý rồi từ giã trở về. Nhưng khi nhìn lên núi, không còn thấy đền đài nguy nga đâu nữa, kể cả hai hàng tùng cũng không còn. Con đường mòn lên núi đã biến mất, toàn là cây cao bóng cả và những sợi dây rừng chằng chịt. Chú tiểu đồng đã đi đâu lúc nào, còn túi hành lý lại nằm bên bờ suối như ai mới mang để đó ! Quốc sư định tìm người tùy tùng, thì thấy anh ta đang dáo dác tìm đường. Quốc sư kêu lại vác hành lý, rồi hai Thầy trò về kinh đô.

 

*   *   *

 

 

Qua mẫu chuyện này, chúng ta thấy đây là bài học quý báu, để chúng ta cố gắng rèn luyện mình tinh tấn tu thêm, đồng thời cần mở rộng lòng từ bi và khiêm tốn giúp người. Ở chùa có Tăng chúng đông, tuy thấy bình thường, nhưng phước đức các vị rất lớn. Vì “Đức chúng như hải”, cần phải biết nương tựa quý trọng và tương trợ lẫn nhau, để dưỡng được đức lành của mình. Hơn nữa biết đâu có những vị Thánh Tăng trong đó, thường ở lẫn lôn để độ người hữu duyên. Như trường hợp ngài Ngộ Đạt Quốc sư, có lòng từ bi thương thầy bệnh hũi. Cho nên khi có lâm nguy thì cũng được Bồ Tát cứu độ. Nếu ngày xưa, ngài khinh thường vị Tăng bệnh hũi mà xa lánh, không ân cần săn sóc, an ủi. Chắc chắn khi mang bệnh mụt ghẻ oan khiên đó, thì không ai cứu giúp nổi ! Vậy chúng ta không nên khinh thường người, bởi chúng ta mắt thịt, không phân biệt được ai phàm ai Thánh. Trong quyển sách này, tôi sẽ kể những chuyện thử thách ly kỳ, của những vị đang đi cứu độ thế nhân, đang hiện hữu bên chúng ta mà chúng ta không hay biết. Những chuyện có thật, không phải chuyện hư ảo huyền hoặc xa xôi nào khác. Để cống hiến quý vị tự răn nhắc mình và luôn khiêm cung, luôn mở rộng lòng từ bi của người con Phật. Đừng để tâm hồn mình phải ân hận khôn ngui, khi hối tiếc thì đã muộn màng, không thể nào bù đắp lại được.

 

Quyển sách này, không những chúng tôi viết cho thế hệ chúng ta đọc, mà viết cho những thế hệ con cháu chúng ta mai sau đọc. Cho nên mỗi phần mỗi đoạn, chúng tôi đều trình bày về bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Để cho con cháu chúng ta hiểu rõ phần nào lịch sử Việt Nam, và thêm được những nhận thức cần thiết.

 

Phật Giáo Sách

CHƯƠNG  II

Miền Tây Nam

thiên nhiên ưu đãi dân lành

 

1/- Sơ lược lịch sử lập quốc và kiến quốc:

Phần này, tôi viết chung, nhưng nhất là để cho các thế hệ con cháu chúng ta ở các quốc gia hải ngoại, biết rõ về quê hương thân yêu của mình. Để nhớ đến Tổ Quốc, để nhớ đến giang sơn cẩm tú quê Cha đất Tổ, để nhớ đến Tổ Tiên đã gian truân với thời tiết khắc nghiệt và những vùng đất đai cằn cỗi của miền Trung và miền Bắc. Cũng như những vùng mầu mỡ phì nhiêu của miền Nam trù phú. Các bậc Phụ Huynh, nên khuyến khích con em mình học chữ Việt. Con cháu chúng ta không học chữ Viêt, thì lần hồi sẽ mất gốc. Vì: “Văn Hoá còn là Dân Tộc còn”. Nếu không học chữ Việt, thì không còn biết phong tục tập quán của Việt Nam. Không biết chữ Việt, là cũng không biết được đạo đức cổ truyền quý giá, với truyền thống oai hùng của dân Việt Nam. Người Việt là nòi giống Tiên Rồng, đã chiến thắng quân Tống thời nhà Lý. Đánh tan quân Nguyên một cách oanh liệt thời nhà Trần. Còn vua Quang Trung, là người đã làm cho giặc nhà Thanh kinh hồn thất vía. Đến nỗi chủ soái chạy không kịp đem theo ấn tín và sổ sách danh bạ. Khiến vua Càn Long đang kiêu hảnh tự cao, phải khiếp sợ nể phục  hứa gả công chúa cho vua Quang Trung và đã hứa trả lại đất Quảng Tây cho Việt Nam. Nhưng rất tiếc, sắp ghi vào sử Việt những điểm vàng son rực rỡ đó, thì vua Quang Trung bị bệnh nặng bất ngờ, đó là chứng đầu thống đột ngột ( Có thể là tai biến mạch máu não chăng ?). Người chưa kịp kéo quân đến Quảng Tây, để ăn mừng vinh quang, để tiếp tục đòi lại Quảng Đông cho dòng tộc Việt, nhưng Người đã băng hà !. Sự hảnh diện cho dân tộc chúng ta, là lịch sử thế giới, chỉ có vua Quang Trung Việt Nam là bách chiến bách thắng !

 

 

*   *   *

 

Thật sự nước Việt Nam chúng ta xưa kia rất rộng, chiếm một vùng lớn bao trùm cả Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Phía Bắc nước ta giáp Động Đình Hồ của tỉnh Hồ Nam bên Tàu. Phía Nam giáp Hồ Tôn tức là nước Chiêm Thành xưa khỏi Thanh Hóa. Phía đông giáp biển với đảo Hải Nam, và phía Tây giáp với tỉnh Tứ Xuyên. Lúc đó nước Việt tên là Xích Quỹ do Kinh Dương Vương đặt. (chữ Quỹ là khuôn phépvì Kinh Dương Vương cai trị nước bằng khuôn phép lớn. Chứ không phải chử Quỷ là lanh lợi, ma quỷ) theo truyền thuyết thì nước Việt có trước Dương lịch 2879 năm. Đến khi truyền nối đến đời Lạc Long Quân họ Hồng Bàng, lấy bà Âu Cơ là Tiên nữ sanh ra một bọc trứng nở ra trăm người con. Vì tất cả cùng chung một bào thai, cho nên gọi nhau là Đồng Bào từ bấy giờ. Cha là Rồng và Mẹ là Tiên, cho nên dân Việt gọi là giống Tiên Rồng. Một hôm cha Lạc Long nói với bà Âu Cơ :” Tôi là giống Rồng, bà là giống Tiên, không thể sống chung lâu dài được. Vậy hãy chia con ra, tôi đem con ra vùng biển, bà đem con lên vùng núi để sống bền vững”. Cho nên hai Cha Mẹ chia nhau mỗi người 50 người con. Năm mươi con theo Mẹ lên vùng cao, sống với núi rừng và đồng bằng. Năm mươi con theo Cha sống ở vùng sông biển. Từ đó lại có tiếng Non Sông hay Sơn Hà, là chỉ cho đất nước của ta, và gọi chung mọi người là giòng Bách Việt. Người con trưởng được ban cho một vùng đất rộng ở miền Bắc, rồi xưng là Hùng Vương. Vua Hùng Vương đặt quốc Hiệu lại là Văn Lang, rộng 15 bộ, đóng đô tại Phong Châu. Truyền ngôi qua 18 đời Vua Hùng. Bị Thục An Dương Vương lợi dụng Mỵ Nương đổi nỏ Thần, rồi đánh chiếm nước ta trước Dương Lịch 257 năm. Bấy giờ An Dương Vương đặt quốc Hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Khê rồi xây thành Cổ Loa để phòng thủ. Được 49 năm, thì Triệu Đà đem quân đánh chiếm, rồi đổi Quốc Hiệu là Nam Việt năm 208 trước Dương lịch. Triệu Đà mở rộng lãnh thổ lên hướng Bắc vùng đất Bách Việt ngày xưa, rồi dời đô lên Phiên Ngung, đó là vùng Quảng Đông bây giờ.

 

Đến 97 năm sau, trước Dương lịch 111 năm, Nhà Hán kéo quân qua diệt nhà Triệu, nước Việt ta bị Bắc thuộc lần thứ nhất, dân chúng vô vàn khổ sở. Mãi đến năm 40 (Canh Tý) thuộc bán thế kỷ thứ nhất, hai bà TrưngBà Triệu thị Trinh 20 tuổi chưa chồng, là con gái nhưng chí khí hơn nam nhi, cho nên ai cũng quý trọng tôn xưng là Bà. (Khí Thiêng sông núi Việt Nam, đã từng sanh  ra Bậc Anh Hùng. Dù bất cứ thời nào, khi dân chúng Việt Nam khổ sở nhiều vì nạn cướp đoạt tài sản, nạn độc tài bất chấp gian ác. Lúc bấy giờ sẽ xuất hiện bậc Anh Hùng, hay một vị Anh Thư đứng lên tranh đấu đòi quyền Tự Do cho dân chúng. Như hiện nay 2008, có cô Lê thị Công Nhân, không sợ tù đày gian khổ, đứng lên tranh đấu đòi hỏi TỰ DO, DÂN CHỦ cho mọi người. Dù bị tù đày, cô vẫn anh dũng hào hùng tuyên bố: “Tôi sẽ tranh đấu đến cùng, dù chỉ còn một mình tôi. Trước nhất là tranh đấu Tự Do, Dân Chủ cho chính tôi, và Tự Do Dân Chủ cho mọi người Dân . .  .  . “.  Thật là bậc Anh Thư của thời đại không ai hơn. Cô Lê thị Công Nhân đã làm cho chúng ta nhớ đến Bà Trưng, Bà Triệu. khởi nghĩa đánh Tô Định giành độc lập, nhưng không đặt tên nước. Được 3 năm, quân Đông Hán do Mã Viện lại kéo qua đông nghẹt, quân ta ít ỏi nên phải thất trận, hai Bà phải tuẩn tiết để giữ sự trong sạch. Tàu lại đặt ách thống trị khắc nghiệt, nước ta lại bị Bắc thuộc lần thứ hai. Mãi đến năm 248 (Mậu Thìn), ở Huyện Nông Cống Thanh Hóa. Có

 

Nhắc lại Bà Triệu có sức mạnh như hổ, võ giỏi và mưu lược. Cho nên người dân Giao Châu theo bà để chống ngoại xâm Đông Ngô. Trước vũ dũng của Bà, voi bà đi đến đâu, Quân Ngô khiếp vía hãi hùng chạy tán loạn và chết cũng nhiều. Nhưng vì quân ít, quân Đông Ngô quá đông, 6 tháng sau quân Ngô tập trung phản công mạnh mẽ, bà lui về huyện Mỹ Hòa tỉnh Thanh Hoá tự tử. Sau này vua Nam Đế nhà Tiền Lý, tưởng nhớ công lao và sự hy sinh cao cả của Bà, sắc chỉ cho dựng miếu thờ và phong là Bật Chính Anh Liệt, Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân. Bà vốn là giòng quý tộc, cha mẹ mất sớm, ở nương nhờ người anh là Triệu Quốc Đạt. Tên thật của Bà là Trinh, nhưng Tàu bị mất mặt vì Bà, cho nên căm hận kêu là Ẩu. (Vì chữ Ẩu là con mụcó vẻ khinh miệt, như miền Nam gọi là con mẹ vậy) Bà đã để lại trang sử vẻ vang cho người dân Việt, và làm nhục cả nước Tàu thua một người con gái Việt chưa chồng. Vĩnh viễn ngàn đời sau, con cháu người Việt khi đọc trang sử này, đều nở phình cái lổ mũi, để thấy tự hào giòng giống Việt, để hảnh diện về Bà, hảnh diện về Tổ Tiên chúng ta.

Mãi đến năm 544 dl (Giáp tý), Lý Bôn khởi nghĩa đánh quân Tàu, chiếm lại Giao Châu, đặt Quốc Hiệu là Vạn Xuân. Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ ba này, nhiều cuộc khởi nghĩa bằng du kích chiến của Triệu quang Phục. Họ Triệu lên ngôi là Triệu Việt Vương. Kế tiếp Lý Phật Tử lợi dụng sự thân thiết, lật đổ nhà Triệu. Nhưng kém tài, bị nhà Tuỳ bên Tàu kéo quân qua phải đầu hàng. Nước Việt lại vào tay người Tàu năm 602 dl (Nhâm Túất), bị Bắc thuộc lần thứ ba kéo dài 336 năm. Đến năm 939 dl (Kỷ Hợi), Ngô Quyền khởi binh đánh tan quân xâm lược Nam Hán, trong chiến thuật Bạch Đằng Giang, lên ngôi đóng đô ở Cổ Loa. Kế tiếp nhà đường bên Tàu suy, cho nên nước Việt loạn 12 sứ quân dấy lên. Bấy giờ dân chúng thấy Đinh Bộ Lĩnh, ở động Hoa Lư có tài nên ủng hộ, đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất giang sơn thành sức mạnh. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi đóng đô tại thành Cổ Loa đặt Quốc Hiệu là Đại Cồ Việt, dân chúng tôn là Vạn Thắng Vương, hiệu là Đinh Tiên Hoàng. Nước Đại Cồ Việt hơn 60 năm tự trị (906-967), dân chúng được tự do, thoát vòng nô lệ, cho nên cuộc sống khá hơn.

 

Khi Đinh Tuệ mới sáu tuổi làm vua, Lê Hoàn bày mưu cùng Dương Thái Hậu và Phạm Cự Lượng, phế Đinh Tuệ đưa Lê Hoàn lên làm vua. Xưng là Đại Hành Hoàng Đế (980-1005). Vào năm 981 nhà Tống lại kéo binh qua hai ngả. Bộ binh đi hướng Lạng Sơn. Thủy Binh đi hướng sông Bạch Đằng nơi Ngô Tôn Quyền phá quân Nam Hán. Quân Tống bị lừa vào chỗ hiểm địa, thuyền bị cọc đâm thủng, rồi bị quân ta dùng trận hỏa công thiêu đốt các chiến thuyền, các tướng Tàu bị chết và bị bắt sống. Khi Lê Hoàn sắp chết, Lê Việt được tấn phong lên ngôi. Mới ba ngày, Lê Long Đỉnh thuê người vào giết Lê Việt rồi chiếm ngôi. Tất cả các quan đều sợ hãi chạy hết, duy có Lý Công Uẩn anh hùng, gan dạ không chạy, lại còn vào ôm xác vua mà khóc, chẳng ai dám làm gì Lý Công Uẩn cả ! Khiến Lê Long Đỉnh nể phục và khen là người trung nghĩa anh hùng, liền thăng làm Tứ Xương Quân phó Chỉ Huy sứ. Long Đỉnh là một ông vua ác nhất nước Việt, lại còn hoang dâm vô độ, cho nên kiệt sức phải nằm mà lâm triều. Vì thế người ta gọi là Lê ngọa triều. Long Đỉnh làm vua được hơn 4 năm (1005-1009) sống 24 tuổi. Bấy giờ lòng dân chán ngán họ Lê, Lý Công Uẩn lại tài năng và có đức độ đáng kính. Cho nên các Đại thần và nhất là Đào Cam Mộc, đều quý phục đưa lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt nhà tiền Lê. Nhà Lý kéo dài chín đời hơn hai thế kỷ từ 1010 đến năm 1225. Lý Công Uẩn nghe lời Thiền Sư Vạn Hạnh, dời kinh đô về Thăng Long tức là Hà Nội bây giờ, để bền vững xã tắc và phát triển bờ cõi thêm lớn rộng. Đồng thời lấy Quốc hiệu nước là Đại Việt. Năm 1069 (Kỷ Sửu) thời vua Lý Thánh Tông, quân Chiêm Thành suốt mấy năm cứ qua nước ta, quấy phá, cướp bóc, hãm hại dân lành. Vua Lý Thánh Tông cho quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Cũ vua Chiêm và mấy trăm cung nữ với quân Chiêm làm tù binh. Vua phân phát tù binh cho các quan để làm tạp dịch, trong đó có một vị Thiền sư Trung Hoa, là Ngài Thảo Đường, sau mở phái Thảo Đường ở Việt Nam. Khi vua Thánh Tông hiểu rõ lai lịch Ngài Thảo Đường, liền sắc phong ngài làm Quốc sư. Ngài đăng đàn thuyết pháp tại chùa Khai Quốc ở Thăng Long, rồi hướng dẫn tu tập thành Pháp Thiền Thảo Đường. Qua thời nhà Trần (1225-1400) vẫn giữ Quốc Hiệu nước ta  là Đại-Việt. Đến nhà Hồ chỉ vẻn vẹn 7 năm (1400-1407) lại đổi Quốc Hiệu nước ta là Đại Ngu. Đến thời Hậu Trần (1407-1414) và thời kháng chiến chống quân Minh gọi  là Đại Việt (1414-1427). Đến Triều Lê Thái Tổ kéo dài đến đời Lê cung Hoàng (Lê Xuân) (1428-1527) chẳn 100 năm, đặt lại Quốc Hiệu là Đại Việt . Đến thời Gia Long lấy Quốc Hiệu là Việt Nam. Qua đến thời vua Minh Mạng, muốn biểu hiệu sự rộng lớn và hùng cường của nước Việt, cho nên vua đổi Quốc hiệu là Đại Nam (Đại Nam Quốc)Đến thời vua Bảo Đại về sau, lấy Quốc Hiệu là Việt Nam đến hôm nay.

 

 

*   *   *

 

 

2-         Tổng quát ba Miền nước Việt và dân cư:

 

Còn hình thể nước Việt Nam giống như chữ S, khiêm nhường tọa lạc trên bán đảo Đông Dương, với thềm lục địa trải dài từ miền Bắc tỉnh Lai Châu nơi vịnh Hải Nam giáp Trung Hoa và Lào. Kéo dài đến miền Nam tới mủi Cà Mau ở biển Đông, dọc theo bờ biển đến vùng Hà Tiên giáp với Campuchia là biển Nam. Duyên Hải nước Việt dài hơn 2500km từ ranh giới Trung Quốc đến vịnh Thái-Lan. Còn chiều dài nước Việt Nam từ Ải Nam Quan, Lạng Sơn, Đồng Văn đến mũi Cà Mau là 1750Km. Ngoài ra nước ta còn những quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc v . v . .Nhưng bây giờ Ải Nam Quan và dọc  biên giới Việt Hoa, nước ta bị đảng cộng sản đem dâng cho Tàu mất, đi sâu vào nội địa của ta thêm 3 km nữa, kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với vùng biển quý giá nhiều Hải sản, mỏ khoáng làm giàu Tổ Quốc, nuôi dân và xuất cảng.

 

Còn diện tích nước Việt được 332.000 Km2. Nhưng bây giờ đã thu hẹp lại rồi ! Vì cộng sản đã nhường bán cho Trung cộng mất ải Nam Quan và đường biên giới phải lui vào Việt Nam 3,km suốt ranh miền Bắc. Miền Bắc đất hẹp mà người lại đông. Vì 85% là núi với vùng cao nguyên, và trung nguyên. Còn bình nguyên là 15%. Chiều ngang rộng nhất của nước Việt Nam là miền Bắc, từ Lai Châu băng qua Móng Cáy rộng 600 Km. Miền Bắc chỉ có 15% là đồng bằng. Miền Bắc dân số đông mà đất ít, cho nên sống vất vả nhọc nhằn. Luôn luôn tranh đấu với thiên nhiên, và tranh đấu với bành trướng Bắc Kinh lấn ép.

 

Còn miền Trung đã hẹp, núi và cao nguyên lại chiếm hết 90% . Đồng bằng chỉ có 10%, cho nên chúng ta nghe câu hát :

 

Quê tôi nghèo lắm ai ơi !

Mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn ! . . . “

 

Nghe thật não nùng chua xót, nhưng đó là sự thật. Vì đất cày lên sỏi đá, giống như vùng cao nguyên miền Bắc. Chỗ hẹp nhất của nước Việt Nam là miền Trung từ Đồng Hới giáp biên giới Lào ra biển Đông Thái Bình dương, bề ngang nước Việt vùng này chỉ rộng được 37 Km. Nhưng lại là vùng chiến lược Tam giác sắt. Lái xe như ở Mỹ, chưa được nửa giờ là giáp từ Đông sang Tây. Bây giờ,Tây Nguyên miền Trung, Nguyễn Tấn Dũng Thủ Tướng đại diện đảng cộng sản, đã ký giao cho Trung cộng khai thác Bauxite, một loại khoáng thạch để luyện thành nhôm (aluminium), trong đó có 3 khoáng chất: Al3 - y AlO và u AlO. Nhưng thực chất, các nhà khoa học cho biết, vùng này có nhiều uranium để chế bom nguyên tử. Nguồn lợi uranium sẽ làm giàu Trung cộng. Trung cộng biết rõ, cho nên tìm mọi cách xâm nhập khai thác. Trước nhất là làm nhiễm ô môi trường và nước uống của các con sông lân cận. Vì kỹ nghệ Trung quốc rất lạc hậu, nước thải và khí thải ảnh hưởng đến đời sống dân cư. Điều quan trọng hơn nữa, đó là chiến lược lâu dài, Trung cộng sẽ biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ hai tại Đông Dương, để văn hóa lần hồi bị tiêu diệt. Còn vùng biển, Hải quân Trung cộng đã trải dài ngoài biển, từ đảo Hải Nam đến Hoàng sa. Còn bên trong, đường giao thông từ Trung Quốc đã kẹp dài từ dãy Trường sơn đến vùng Tây Nguyên Việt Nam. Cho nên, việc Trung cộng thôn tính Việt Nam bây giờ quá dễ dàng. Trung cộng đã vẽ trước chiến lược này, như lời nhận xét của tướng Delattre De Tassigni vào tháng 12 năm 1950 :”Ai làm chủ được vùng Tây Nguyên ( Vùng Chiến lược của Khu Tam Giác Miên Việt Lào) là làm chủ được Đông Dương.” Nhà cầm quyền hiện nay đã mê muội, đã mượn tay ngoại bang bảo vệ duy trì chiếc ghế của mình, mà không nghĩ đến hậu quả của đất nước tương lai, sẽ bị nguyền rủa đời đời như Lê Ích Tắc và tên gian thần Lê Tắc phản bội Tổ Quốc. Trung cộng là môt chủ nghĩa độc tài có ý đồ bành trướng. Chắc chắn họ sẽ chiếm cắt ngang từ vùng Tam Giác Tây nguyên ra tới biển Đông, lúc đó có ngăn cản thì đã quá muộn màng. Còn như nhóm cầm quyền vì danh vì lợi, để trở thành kẻ bán nước, thì toàn dân sẽ không dung tha. Dù có chạy trốn qua nước nào, cũng bị dẫn độ về xét xử. Bởi đảng Cộng Sản họ nghĩ rằng : “Theo Mỹ không mất nước, nhưng phải tự do dân chủ thì đảng sẽ mất. Nếu mất đảng là mất hết tất cả quyền lợi bè nhóm độc tài. Còn theo Trung cộng thì nước sẽ mấtnhưng đảng còn, thì còn độc tài, còn quyền lợi.” Họ đã chấp nhận mất nước, nên đã nhường đất, nhường biển cho Trung cộng và sẽ còn mất dần nữa . . ! Cộng sản yêu dân thì chiếm đất chiếm nhà, tạo ra dân oan đầy dẫy. Cộng sản yêu nước thì bán nước từng phần cho ngoại bang ! ?

Nếu dựa theo bản đồ động đất sắp tới, thì Trung quốc sẽ bị trừng phạt động đất kinh hoàng, sụp đất rất nhiều. Giữa Việt Nam và Trung quốc, là một cái biển ngăn cách xa. Còn những cái vịnh của Việt Nam, được bồi bằng thẳng thành hình chữ nhật, không còn là chữ S nữa. Vậy những kẻ dựa vào Trung cộng, lúc đó chỉ có khóc với sầu. Vì còn gì nữa đâu khi mộng vàng đã đổ ! ! Hiện cộng sản đang bị phân hóa, chia rẻ trầm trọng. Cũng đã từng xảy ra những cuộc đảo chánh, nhưng sức chưa đủ đã bị dập tắt. Vì ở đời cái này sinh thì cái kia sinh, thế giới luôn trùng trùng duyên khởi, đó là định luật tất yếu.

 

Nước Việt Nam về nhiệt độ những năm trước 1975, miền Bắc trung bình là 23o C, miền Trung  trung bình 25 độ C, miền Nam trung bình 27o C. Còn cao nguyên  Đà-Lạt mát lạnh trung bình 21oC đến 18oC. Nhưng bây giờ từng khí quyển ozon của địa cầu, bị các chất thải tiêu hủy làm thủng nhiều khoảng lớn trên không gian, làm cho quả đất nóng lên, khiến thời tiết xáo trộn bất thường. Cho nên khí hậu càng ngày càng nóng dần, miền Nam có lúc lên đến 38o, 39oC. Có lúc lại quá lạnh, như cuối tháng chạp năm Mậu tý (2008) từ ngày 22 đến ngày 24 tết, miến Nam lạnh tới 18o C. Thời tiết đảo ngược bất thường, có khi lạnh quá mức ngoài dự kiến. Dân cư cả nước bây giờ (đầu năm 2009) lên đến 86 triệu, tính mật độ trung bình 250 người 1 Km2. Còn Kiều bào Việt Nam, ở các nước  trên thế giới đã tới 3 triệu rưỡi người.

Bây giờ muốn biết Tổ Tiên ta, trong giai đoạn lập quốc thời xưa như thế nào? Chúng ta hãy đọc đoạn văn này, của Hoài Nam Vương và Lưu An là quan của nhà Hán Vũ Đế, can vua Hán đừng đem binh giúp Mân Việt mà đánh Nam Việt :

 

“.  .  . Nay nghe Bệ Hạ sắp cử binh, toan đánh nước Việt. Tôi tên là Lưu An trộm nghĩ mà lo cho Bệ Hạ. Đất Việt ở ngoài địa phương Trung Quốc, dân họ đều cắt tóc vẽ mình, không thể dùng pháp-độ (luật pháp và lễ nghi) của Trung Hoa, là nước mang đai, đội mũ mà cai trị được.

Từ nhà Hán định quốc đến nay là 72 năm, hai nước Mân và Việt đánh nhau không biết mấy lần, nhưng Thiên Tử chưa từng cử binh vào nước ấy. Vì Nam Việt không có thành quách, làng xóm. Chỉ ở trong khe suối, hang đá và vườn tre, từ xưa hay tập luyện thủy chiến. Đất đai ở sâu xa, tối tăm mà nhiều khe suối rất hiểm trở. Sông núi cách trở gay go, cây cối rậm rạp, lui tới khó khăn không xiết kể. Mới trông qua như tuồng là dễ, mà muốn tới thì khó khăn. Còn Thiên hạ nhà Hán, nhờ anh linh của Tổ Tông, cả nước đều yên, người từ trẻ đến tóc bạc chưa hề thấy giặc. Giữa nhân dân, vợ chồng và cha con đều được yên ổn, là nhờ ơn đức của Bệ Hạ. Người Việt tiếng là làm bề tôi, nhưng đồ cống hiến không đem vô Đại Nội, một tên lính của họ cũng không dùng gì được vào việc bề trên. Nay chúng nó đánh nhau, mà Bệ-Hạ đem quân qua cứu viện, tức là lấy người Trung Quốc mà chiều chuộng bọn mọi rợ. Hơn nữa người Việt có tính khinh bạc, phản phục bất thường, họ không tuân theo pháp độ của Trung Quốc lâu rồi. Hễ không phụng chiếu chỉ, bèn cử binh qua đánh, thì tôi tưởng việc binh cách không khi nào nghỉ ngơi đươc. Phát lệnh xua quân vào đất Việt là vấn đề quan trọng, phải đi kiệu qua núi, đi thuyền qua sông. Đi vài ngàn dặm là tiếp giáp rừng sâu, tre rậm, dòng nước trên dưới đều vấp phải đá. Trong rừng lại nhiều rắn độc, cọp dữ. Đến mùa hè trời nắng, thì sinh ra chứng thổ tả, hoắc loạn, gian nan vất vả và tật bệnh nối tiếp với nhau. Nước Việt sơn lâm chướng khí rất mạnh, họ phải ăn trầu cau với vôi để trừ chướng khí .

Quân lính ta chưa quen với chướng khí đó, lại chưa từng cầm gươm giao chiến, những người chết và bị thương chắc phải nhiều. Tôi lại nghe sau khi đánh giặc, ắt bị mất mùa. Vì mọi người dân đầy khí sầu khổ, làm cho âm dương mất điều hoà và ảnh hưởng đến trời đất, do đó mà sinh ra tai hại ! .  .  . Lão Tử nói : “Hễ quân lính ở đâu, mọc chông gai ở đó”.  .  .Vậy Bệ Hạ cần xét lại, mình chẳng có lợi mà hại đã rõ ràng !

Đó là trích một đoạn văn ngắn của sử Trung Hoa, trong bộ AN NAM CHÍ LƯỢC do Lê Tắc chạy theo Tàu, rồi ghi chép lại trong bộ sử Tàu. Nhờ vậy, ta mới thấy được nước Việt ta ngày xưa nằm bên kia vượt xa khỏi biên giới Tàu, đầy rừng núi hiểm trở kéo dài vào tới Thanh hóa. Còn từ ranh Nam Giới bên này sông trở vào Nam là của Chiêm Thành. Người Chiêm hiếu động, cứ đánh cướp vùng đất Thanh Hoá, cho nên bị ta đánh úp. Sau nước ta bị Tàu lấn dần, và sự khai quốc của Tổ Tiên ta rất gian truân vất vả. Bởi địa thế phong thủy hiểm trở, còn phải hy sinh không biết bao nhiêu xương máu, để chống ngoại xâm, để lập quốc và khai quốc tiến dần vào Nam. Nhờ vậy có đất đai mầu mỡ cho con cháu bây giờ được hưởng. Nhưng bây giờ chế độ Cộng Sản, đã dâng vùng đất biên gìới Lạng Sơn cho Bành Trướng Bắc Kinh, dâng cả đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thềm lục địa Việt Nam, biết bao nhiêu mỏ quý nằm ở vùng biển ra các hải đảo. Ai bán đất ? Ai dâng biển cho ngoại bang Tàu cộng, cả thế giới hôm nay ai cũng đều biết. Chế độ cộng sản chuyên môn lừa đảo, ăn nói ngược ngạo, che chở những tội phạm thuộc bè phái, làm nhục quốc thể, giẫm đạp lương tâm con người. Ruộng đất của dân trồng lúa, thì cướp đoạt làm sân golf chơi ! Còn những căn nhà bạc tỷ của dân lành, nguyên cả mấy dãy thì bắt đập phá, san bằng rồi bắt mua từng thước đất với giá cắt cổ. Như vậy gọi là vì dân lo cho dân ? ! Núp dưới chiêu bài được gọi là quyết định đúng đắn của Đảng. Đó là sự ăn cướp công khai, kiểu ăn cướp ban ngày, đúng như ca dao đã nói :

 

Con ơi ! Mẹ bảo con này

Ban đêm là cướp, ban ngày là cộng nô !

Như vụ hối lộ các viên chức Nhật làm cầu Cần Thơ và vụ các ký giả tố cáo tham nhũng bị tù  v . v . .  Tên hối lộ thì nhỡn nhơ, người bài trừ hối lộ tham nhũng thì bị tù. Đó là luật rừng của chế độ cộng sản Việt Nam. Người Nhật họ đã dùng danh từ, kêu những kẻ tham ô Việt Nam là giòi bọ, cho nên họ đã cúp viện trợ một thời gian. Pháp đã cúp viện trợ hơn mười năm. Những gì có lợi cho bè nhóm là làm, dù là đuổi nhà, chiếm đất người dân, bất kể tiếng kêu gào ai oán tuyệt vọng của nhân dân. Tất cả những điều trên, luôn được núp dưới danh xưng đẹp đẽ là: vì Tổ quốc vì nhân dân. Còn ai chống lại, thì sẵn sàng chụp những cái mũ nguy hiểm to tướng như: phản động, lạm dụng tự do dân chủ, phá hoại nhà nước, tiết lộ bí mật nhà nước, chống đối nhà nước, vi phạm luật pháp (dù chẳng có một chút tự do, một chút dân chủ nào để tạm dùng đượcCũng chẳng có chuyện gì gọi là bí mật nhà nước. Nhưng lại khôi hài chụp mũ gọi là Lạm Dụng Tự Do Dân Chủ. Rồi những người đày tớ ấy bắt Ông Chủ, dù Ông Chủ đang bảo vệ luật pháp, đang thừa hành theo luật pháp.  Đúng là :

Chú phỉnh tôi rồi Chính phủ ôi !

Theo Kart Max thì: “ Chỗ nào có áp bức, thì chỗ đó có đấu tranh”. Nhưng, Đấu tranh thìTránh đâu, Do đó người dân bị bắt bớ giam cầm trong oan khiên, căm tức. Nhưng dù sao, có kềm kẹp cách mấy, cũng có ngày phải bùng nổ tan tành như Liên xô, chỉ trong vài phút giây quyết liệt. Vì vạn vật vô thường, không gì tồn tại mãi với thời gian. Có thịnh là có suy, có vinh là có nhục, có họp là có tan. Sức ép lớn lao quá phải nổ. Đó là định luật tất yếu của cuộc đời, của thời gian và của cả thế gian này vậy. Theo bà Volga tiên tri thì thế chiến sẽ xảy ra cuối năm 2010, nhiều nước bị bom hóa học nặng nề, nhất là Âu châu đến năm 2014 thì Âu châu không có người ở và lúc đó thế chiến sẽ chấm dứt vào năm 2016. Trung cộng và Trung Đông cũng không thể thoát khỏi ngoại lệ đó. Và chế độ cộng sản theo lời tiên tri thì cũng tan tành, nhất là ở Việt Nam không thấy bóng dáng ở đâu. Như trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy, vạn vật vô thường, hữu hình hữu hoại :

 

Nhật thiết hữu vi pháp

Như mộng huyển bào ảnh

Như lộ diệc như điển

Ứng tác như thị quán.

Nghĩa là:

Các pháp thế gian vốn hữu vi

Như đang giấc mộng tỉnh dậy thì

Như đồ giả dối không bền chắc

Như bọt tiêu tan mất cấp kỳ

Như bóng theo hình không thật có

Như sương ngọn cỏ nắng còn chi

Như lằn điện chớp không tồn tại

Nhận xét đúng vấy mới thật tri

*

 

3- Cửu Long Giang Miền Tây:

 

Bây giờ, nói về miền Nam núi non ít, bình nguyên rộng rãi, mênh mông với sông ngòi nước ngọt, kinh rạch rất nhiều. Vùng núi chỉ chiếm 1% và cho nhiều cây thuốc. Còn các hải đảo ở vùng Rạch Giá như : Hòn Tre, Hòn Sơn Rái, Hòn Cu Tron, Hòn Thổ Chu, Hòn Đất, hòn Nghệ, hòn Khoai, hòn Chuối . . . với đảo Phú Quốc có ngọc trai, đồi mồi và thổ sản huyền. Những đảo Sơn Rái, Hòn Tre, Cu Tron và Phú Quốc tôi đều có ra ở ít ngày, để hưởng không khí trong lành và yên tịnh. Cảnh ở những hòn đảo thật đẹp, khi bình minh rực rỡ ở phương Đông, màu hồng đỏ với mặt trời thật lớn, và lúc hoàng hôn buông phủ trên biển rộng bap la. Không gì đẹp hơn khi đứng trên đồi cao, để ngắm nhìn trời bình minh trên biển rộng, hay hoàng hôn giữa trời nước mênh mông. Ngoài đảo Phú Quốc ngoài ngọc trai, còn có nguồn lợi về trồng tiêu xuất cảng với nguồn hải sản vô giá như cá, tôm, bào ngư và mực ống, nước mắm, cá khô, đồi mồi, bông đá đen và huyền. Còn vùng Hà Tiên có Hòn Phụ Tử và hòn Heo. Còn Hòn Khoai, hòn Chuối, hòn Đá Bạc nằm ngoài mũi Cà Mau cũng cho nhiều hải sản tôm, cá, mực, ngao, sò . . .

 

Ở miền Tây hằng năm có mùa nước nổi. Kể từ ngày

05 tháng 05 âm lịch, sông Cửu Long bắt đầu đục đỏ ngầu vì mang phù sa, và chỉ chảy một chiều ra biển đông, dù nước lớn cũng vậy. Mỗi ngày nước mỗi dâng cao, làm cho những cánh đồng thêm phì nhiêu. Vì mỗi năm được bồi đắp hàng trăm triệu tấn phù sa mầu mỡ, cho nên được gọi là vùng châu thổ Cửu Long. Đất miền Tây rộng và tài nguyên nông sản, thuỷ sản vô cùng phong phú, do nhờ khí hậu ôn đới điều hòa. Vì thế, đã giúp cho cây lành trái chín căng tròn mật ngọt, phát triển sum sê, hai bên dòng sông tươi mát của vùng Cửu Long trù phú .

 

Nói đến cây trái quê nhà, ai lại không nhớ đến quê hương, nhớ đến mái chùa thân yêu gần gũi với dân ta do Cha, Ông ta góp công xây dựng. Mái chùa đã làm ấm áp hồn dân tộc trong những năm tháng đất nước điêu linh. Mái chùa còn là những cánh tay từ bi vươn ra bảo vệ những người con đau khổ. Như Thi sĩ Huyền Không đã dệt những vần thơ, nổi bật nhất là hai câu đã đi sâu vào lòng người:

 

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ Tông .”

 

Người Việt Nam, dù đi tận phương trời xa xôi nào. Tình quê hương đó, vẫn âm thầm sống động trong tâm khảm con người. Tình quê hương luôn gắn bó và tha thiết trong lòng người viễn xứ. Dù có chết đi, vẫn vọng về cố hương gởi gắm tâm hồn, gởi gắm nắm xương. Như dòng thơ của Thi sĩ Du Tử Lê tuy ngắn gọn, nhưng đã vẽ thành bức tranh sinh động của quê nhà bên kia Thái Bình Dương. Với lũy tre xanh lả ngọn, là đà theo gió nhưng vững chắc, với màu xanh muôn thuở  tiêu biểu cho quê nhà:

 

“ Khi tôi chết, hãy đưa tôi ra biển

Nước ngược dòng, sẽ đẩy xác tôi đi.

Bên kia biển là quê huơng tôi đó !

Lũy tre xanh muôn thuở vẫn xanh rì .

 

Lời thơ tuy giản dị, nhưng xuất phát tận sâu thẳm của tâm hồn, ôm nặng tình réo gọi da diết thiết tha. Nó trổi dậy từ trong sâu hút của tâm tư thương nhớ, biểu hiện sự thao thức, sự trăn trở của người vọng nhớ quê hương. Dù không về được lúc sống, thì cũng tha thiết về lúc chết, để gởi gắm nắm xương tàn nơi đất Mẹ Việt Nam. Du Tử Lê có người em đi tu làm Sa Di. Hôm anh thuyết trình trên Internet, Room Phật Học Đường Vạn Hạnh, về vấn đề này với đông người tham dự. Tôi đã mở màn giới thiệu anh với các Vị Giáo Sư, Giảng Sư và các Thân Hữu. Tôi có  nhắc lại bài thơ trên của anh với sự xúc động và trân trọng.

 

 

*   *   *

 

Còn về văn hoá Việt Nam, dù người Việt hấp thụ hai nền văn hóa lớn của Đông và Tây. Nhưng Việt Nam vẫn là Việt Nam với nền văn hóa đặc thù hy hữu. Tuy nước Việt Nam ta bị xâm chiếm đô hộ gần ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng nền triết học Khổng Mạnh, nhưng Tổ tiên người Việt lại dùng chữ nôm biến thể, khiến người Tàu không đọc được chữ của ta. Ảnh hưởng văn hóa triết học Ấn, các dân tộc Thái, Miên, Lào Chàm, đều ảnh hưởng mẫu tự ngoằn ngoèo . Nhưng Việt Nam cũng không ảnh hưởng mẫu chữ Á rập ngoằn ngoèo đó. Đến thời Pháp đô hộ gần thế kỷ, Việt Nam phát triển văn hóa riêng, lấy mẫu tự La tinh tạo thành chữ Việt đặc biệt. Còn giọng nói người Việt tuy đơn âm nhưng lại có nhiều thanh nhất, (không, sắc, hỏi, huyền, nặng, ngã)không có quốc gia nào có. Cho nên người ngoại quốc khi nghe người Việt nói dịu dàng, lên âm xuống giọng thì bảo rằng: “Người Việt Nam nói chuyện, nghe âm điệu bổng trầm như hát, như ca”.

*   *   *

Vùng miền Bắc, đất hẹp người đông, núi rừng trùng điệp. Từ xa xưa, Tổ tiên ta đã vất vả với thiên nhiên để sống còn và duy trì nòi giống. Phải hy sinh gian lao và nhiều xương máu trước những hiểm nguy của thú rừng, của sơn lâm chướng khí, của giặc ngoai xâm. Cho nên cuộc sống của người dân miền Bắc luôn gian truân khó khổ. Vì phải tranh đấu với thiên nhiên, tranh đấu với giặc ngoại xâm để bảo vệ từng mảnh đất. Cho nên, đầu óc phải suy tư để tìm cách sống còn, tìm cách bảo vệ giống nòi và quê hương thân thiết.

 

Còn miền Trung, người dân hay bị thiên tai, lại thêm vùng đất không được phì nhiêu, nhiều nơi khô cằn sỏi đá. Cuộc sống quá vất vả với đất đai và thiên tai thời tiết, có nhiều năm phải ăn khoai bắp thay cơm. Cho nên người Trung và Bắc quen với hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt khó khăn. Vì thế, phải siêng năng cần cù vất vả, phải trầm tư tìm cách vươn lên, phải làm sao cho cuộc sống an toàn, khá giả cho mình và con cháu mai sau. Như câu hát đầy ý nghĩa:

 

 . . . Mẹ đẹp Huế, chẳng nơi nào có được

Nét dịu dàng, pha lẫn với trầm tư . . . ! “

Lời ca thật hay, tác giả đã diễn tả bằng tất cả chân tình về người Mẹ ! Mẹ thì chân yếu tay mềm, còn ưu tư lo cho con cái gia đình như vậy ! Huống chi là người cha gánh vác sự sống của gia đình, còn lao tâm, lao lực biết bao nhiêu nữa ! ? Vì thế, khi vào miền Nam, người miền Trung và Bắc rất cần cù bươn chãi, tích lũy dành dụm, cho nên dễ mau làm giàu hơn người miền Nam. Còn người miền Nam, riêng miền Đông người dân còn bon chen làm ăn mua bán cho mau khá giả . Nhưng người miền Tây có tính lè phè huỡn đãi, hay mặc kệ tới đâu thì tới. “ Vì trời sanh voi thì sanh cỏ màlo chi nhiều cho mệt !” Cho nên nhà dù nghèo, khi được con cá lóc nướng trui, con rùa rang muối, con rắn um dừa, thì lại rủ nhau cùng nhậu cho vui. Rồi mặc kệ “ Tới đâu thì tới chứ ! Cứ vui bây giờ trước, còn mọi chuyện tính sau, lo chi gấp, cứ từ từ, từ từ mà !”

 

Dân Nam kỳ Miền Tây họ sống như vậy ! Bởi  miền Tây đất rộng người thưa, thiên nhiên ưu đãi, trù phú. Nhờ hai dòng Cửu Long tươi mát ngọt ngào, giúp cho đất thêm mầu mỡ, cây lành đầy trái ngọt, với tôm cá vạn trùng. Nhất là trong rừng tràm, rừng đước, hay những lung trấp lâu năm của vùng Rạch Giá, Cà Mau. Những con cá bông cả chục ký là chuyện thường. Còn vùng trên như Ba Răng, Đốc Vàng, vào thập niên 1940-1850. Ông già bà cả cho biết, lúc đó người thưa thớt, có những con cá bông sống hằng trăm năm, to lớn bằng chiếc xuồng làm nghẻn lòng lạch, nước không chảy được. Tôm cá bị nghẽn, khi nước rút ra sông,  tràn ngập một khúc rạch. Dân làng chỉ bắt tôm cá. Còn con cá bông lớn, phải xúm lại dùng lưới, dùng dây kéo ra sông. Chứ chẳng ai dám đụng đến nó, coi nó như con cá Thần linh thiêng của vùng này. Vùng Đồng tháp mười thì tôm cá, rắn rùa, chim cò, chàng bè, gà nước, hoa sen, bông súng, rau dừa, rau muống, bông điên điển và các loại thực vật như lúa trời không ai trồng mà tự mọc. Đến mùa lúa những người không có ruộng, họ lấy xuồng dựng mê bồ một bên, rồi lót đệm dưới xuồng. Họ chống vào đám lúa trời, lấy sào đập lúa cho văng vào tấm mê bồ rớt xuống đệm. Họ đập như vậy một ngày cũng hơn một giạ. Vì lúa trời có đuôi dài nhọn dễ đâm vào tay, vào mặt và dễ gảy, mỗi ngày một bông lúa chỉ chín có một hạt, cho nên không thể cắt được. Lúa này thiên nhiên ưu đãi nuôi người dân lành trốn giặc, trong thời kháng chiến chống Pháp. Hiện nay vẫn còn lúa này trong ruộng sâu 2, 3m nước trong mùa nước nổi. Khi khô cạn,hạt lúa trời chín rụng, nằm chờ mưa lại lên mầm tiếp tục ra bông.

 

Còn ở rừng tràm, rừng đước Cà Mau như vùng: Năm Căn, Cái Nước, sông Ông Đốc, Thái Bình, Đầm Dơi thuộc vùng U-minh hạ. Trước thập niên 1970, ớ trong các con rạch trầm thủy lâu năm, có những con cá lóc có râu bằng đầu đủa dài từ 1cm đến 2cm, nặng 6, 7kg là thường. Vào những đêm trăng của năm 1970, chúng tôi ngồi trên xuồng máy đang chạy, các loại cá trong các con rạch này nhảy lên trắng nước, làm vui rộn mọi người. Còn trong đồng thì cá rô, cá sặc vô kể. Cá trê, cá chốt chỗ nào có mùi lạ là từng bầy dầy đặc. Từ Bạc Liêu đến Cà Mau, xưa kia người Viêt ít, người Triều Châu nhiều. Được gọi là người Minh Hương, theo nhà Minh chống lại nhà Thanh, bị thất bại. Họ theo Mạc Cửu. chạy qua nước ta khai thác rừng, sống từ Sóc Trăng đến Bạc Liêu và Cà Mau. Một số sống vùng Rạch Giá và Hà Tiên, sống nghề mua bán, hạ bạc và ruộng rẫy.  Một số khác theo Trần Thắng Tài sống từ Chợ Lớn dài đến Mỹ Tho, Đa số là người Quảng Đông, Quảng Tây chủ yếu thương mãi, dân nghèo Triều Châu, Hải Nàm thì làm ruộng rẫy, mua bán ve chai, kẹo đục, tiệm nước cà phê. Dân Phước Kiến thì chịu khó học hành, mở trường, ra nhật báo. Người Hẹ gốc đa số ở vùng rừng núi Sơn Đông, biết cây cỏ tánh dược, cho nên qua Việt Nam họ mở tiệm thuốc Bắc. Người Sơn Đông là dân võ nghệ, hay làm nghề bảo kê, cửu vạn chuyên chở đuờng xa qua rừng núi, thì mãi võ bán thuốc Sơn đông  v . v . .  Một số theo Dương Ngạn Địch lên Bình Dương Biên Hòa, sống nghề gốm sứ và mua bán. Đa số người Hoa là mua bán, vì sáng ra vốn, chiều lấy lại vốn lẫn lời. Họ khéo tổ chức hội họp thành từng Bang, như Bang Quảng Đông, Bang Phúc Kiến, Bang Triều Châu  v . v . Cho nên họ họp vốn lại lập nhà thương riêng, nghĩa trang riêng, và tương trợ lẫn nhau mua bán đồng lòng. Họ không bị nhốt vốn và bị ảnh hưởng thời tiết trúng thất như dân ta, cho nên họ mau khá giả hơn người Việt. Tóm lại họ có tinh thần tập thể lớn và đoàn kết rất tốt đẹp.

 

Vùng Bạc Liêu, Cà Mau thì tôm cá nhiều, người Triều Châu hay ở vùng này. Cho nên trong nhân gian bấy  giờ có câu:

 

« Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu”.

Còn tôm khi nước rút xuống, người ta chận đăng lại đầu con rạch, thì tôm nhỏ, tép bạc nổi đầu đưa râu lên dầy đặc hết mặt nước. Đặc biệt vùng Cà-mau có loại dừa sáp đặc ruột, ăn dẽo thơm ngon, một loại thổ sản riêng biệt của vùng đất cuối quê hương.

 

Ngoài ra, vùng rừng Cà-mau còn rùa, rắn, chim, cò, gà nước, mật ong, khỉ, heo rừng. Bây giờ thì khỉ và heo rừng vùng này, gần như bị tận diệt. Ngoài đồng sâu có cây bòng bòng với củ co, củ năng, bông súng ai mà ăn cho hết. Vào trong rừng tràm vùng Rạch giá, hay trong Láng Linh vùng Châu Đốc cũng vậy, Nhưng bây giờ sự tàn sát bằng thuốc nổ, sự hủy diệt những đàn cá lòng ròng với những đàn cá con như cá rô, cá sặc thì còn sinh vật nào chịu nổi. Vùng này, đặc biệt có loại lúa sạ miền Tây. Đó là loại lúa đỏ ngọt ngào, làm chơi mà ăn thiệt, trong những cánh đồng bao la từ Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Đồng Tháp, An-Giang, Rạch Giá, Cờ đỏ, Cần Thơ. Đầu mùa mưa nhà nông cày xong rồi sạ lúa, giao phó mặc cho đất trời. Không cần cấy, không làm cỏ, không vô phân, không xịt thuốc sâu hay thuốc kháng rầy và cũng không cần bơm nước tưới. Đến mùa nước nổi, mỗi ngày nước lên cao bao nhiêu, thì lúa cũng vươn lên bấy nhiêu. Những đồng sâu nước ngập đến 3m, thì lúa cũng lên cao khỏi 3m. Có khi nước lên nhanh, mỗi ngày 10cm, thì lúa cũng vượt lên mỗi ngày 10cm. Đến tháng mười một kéo dài qua tết, lúa chín đồng khô, nhà nông mới gặt hái lúa, phơi xong đem về nhà. Gốc rạ dài hơn 2m, đất phù sa còn ẩm ướt, người ta lại vạch lớp rạ dầy gieo hạt dưa hấu, cà gió (Tomato), cà tím, bắp, bí đỏ, dưa leo, rau cải v. v. Không cần tưới tẩm phân chất, cũng không cần xới gốc, vì đất còn ẩm ướt mềm xốp dưới lớp rạ quá dầy. Cho nên đến mùa Tết và tháng giêng lại tiếp tục thu hoạch một mùa rẫy ngon lành. Ít tốn công tô`n của, mà huê lợi lại nhiều. Nhất là vùng Châu phú và Tân Châu trù phú về rẫy, ruộng. Bây giờ kiểu lúa sạ này mỗi ngày mỗi bị thu hẹp, e rằng sẽ có ngày tuyệt giống. Để nhường cho các loại lúa Thần nông cao sản, phải gieo cấy, làm cỏ, xử dụng nhiều phân bón và thuốc sâu rầy, rồi cũng dễ sinh ra nhiều loại bệnh cho người dân. Cuối cùng trừ mọi chi phí và đóng thuế, chẳng còn lại được bao nhiêu. Vì sau năm 1975, thuế má rất nặng gấp 5 lần thời Việt Nam Cộng Hòa.Vùng Tân Châu có nuôi tằm kéo tơ dệt hàng lãnh Mỹ-a. Nhưng rất tiếc sau này tơ tằm bị xuống dốc trầm trọng. Ngoài đồng Miền Tây vào mùa nước, còn có các loại như rau dừa, rau muống, bông súng, ngó sen, củ co, củ năng, bông điên điển, bòng bòng làm dưa. Với các loại tôm cá đầy đồng thì tuỳ ý ai siêng thì đi hái, đi câu, giăng lưới, đặt lờ. Cuộc sống thoải mái, khí hậu điều hoà, làm cho người dân rất hiếu khách.

 

Miền Tây đất lành sinh cây trái ngọt như: Chuối, dừa tươi, xoài, mận, ổi, vú sữa, mãn cầu, cam, cóc, trôm chôm, sầu riêng, dâu, mít  v . v . . ưu đãi dân lành mộc mạc. Còn các cù lao xanh mướt, đủ thứ trái cây, nào bưởi, bòng, mít, vú sữa, trôm chôm, nhãn, mãn cầu, sầu riêng, mít, cóc, ổi, dừa, mận, chuối, bòn bon, cam, quít , dâu, mận  v . v . Xuống vùng Cái Mơn, Vũng Liêm, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, hoặc qua các vườn cây bên cồn. Hay là miệt vườn Sa Đéc. Mùa trái cây réo gọi khách dừng chân, để thưởng thức những trái vừa mới hái, tươi thơm căng tròn mật ngọt. Đến lúc gần tết kéo dài đến tháng ba âm lịch, cây trái sai quằng, sắc chín vàng có, đỏ có với mùi thơm ngon hấp dẫn khách đến thăm, ai thấy mà chẳng ham. Nhất là mấy cù lao ở Sóc trăng, tôi dắt toán học sinh lớp XII theo, vào vườn mua ăn, họ ưu đãi khách ăn tại chỗ không tính tiền. Nhưng công của họ cực khổ chăm sóc, hái trái, chìu chuộng. Nên chúng tôi, ai cũng phải mua một bọc đủ loại trái cây, tiền lẻ không cần thối lại, để đền bù sự tử tế chiêu đãi của họ. Tôi thấy tình cảm người dân ở đây, họ rất thương quý nhau và mến khách. Tánh tình hiền lành rộng rãi, cũng do ảnh hưởng phong thủy đất đai. Vì đất rộng mênh mông, lòng người cũng trải rộng mênh mông. Nhờ thiên nhiên ưu đãi như vậy, người dân sống thoải mái, trở nên rộng rãi, không cố chấp hẹp hòi. Nơi nào thức ăn cũng có sẵn, cho nên những câu hò, câu hát tình quê sản sinh khắp miền Nam. Đặc biệt ở Sa Đéc, có những nhà vườn chuyên môn trồng các loại hoa kiểng, muôn vẻ muôn màu, gần tết chở đi các nơi tiêu thụ, giúp cho Miền Tây thêm đẹp, thêm xinh trong cảnh vui Xuân rộn rã. Tội nghiệp những nhà trồng bông năm cho tết Kỷ Sửu 2009, bị lỗ nặng vì thời tiết trái mùa, mưa sớm làm cho hoa trổ sớm. Cộng với kinh tế Việt Nam đang xuống dốc trầm trọng. Các chủ hảng bị ế hàng lổ lả, họ bỏ nhà máy chạy lấy người. Công nhân không lảnh được lương. Không mua  đồ tết, cho nên các loại hàng tết bị ảnh hưởng ế ẩm chưa từng có. Họ bỏ công bỏ của ra, rồi đem cơm, ghe, bè bạn, khiêng chất những giỏ trồng bông lên Sài Gòn đóng tiền chỗ bán, nhưng bị ế lổ ít ai mua. Người đi xem thì nhiều, nhưng người mua chẳng bao nhiêu. Năm nay con Trâu cày bừa vất vả, họ ăn tết bằng sự nhọc nhằn thiếu thốn, nai lưng cày với tiếng thở than não nuột và nước mắt xót xa.

 

Năm Kỷ sửu 2009, kinh tế tuột dốc, ảnh hưởng đến mọi ngành nghề. Sự mua sắm của mọi người bị hạn chế, cho nên các nhà làm vườn cũng ảnh hưởng chung, vì ít người tiêu thụ. Góp thêm phần thê thảm này, những xưởng làm đồ hộp hoặc đồ khô, xuất cảng qua Mỹ và Âu Châu, kiểm nghiệm thấy rất dơ, nhiều tạp khuẩn và độc chất cấm dùng trong thực phẩm. Bên Mỹ phải trả lại mấy tàu, và không cho đổ bỏ ở vùng biển của Mỹ, vì sợ gây ô nhiễm. Những hàng hóa Việt Nam và của Trung Cộng sản xuất, các nước Âu châu và Mỹ từ chối không nhận, vì không bảo đảm sự tinh sạch và các hóa chất không đạt đúng tiêu chuẩn quốc tế. Cho nên bên Mỹ, không ai dám đụng đến các loại thực phẩm trời ơi đất hởi này ! Kể cả giày da cũng có độc chất gây ung thư, đồ tiêu dùng, cho đến các loại đồ chơi trẻ em có nhiều chì và những chất độc hại làm sưng miệng, sưng tay trẻ em và gây những chứng ung thư. Trung cộng có thầu một bến cất hàng  ở California. Bị Mỹ kiểm nghiệm năm 2008 có một contai- ner chứa toàn súng Aka. Ngoài ra còn có một container chứa toàn người Trung quốc đi lậu qua Mỹ. Không biết họ mưu toan khủng bố hay tổ chức phá hoại gì đây ! ? Cho nên các loại hàng nhập vào từ Trung quốc bị kiểm nghiệm rất gắt gao và lâu hơn hết, có những hàng hoá chờ lâu quá date, hay là có chất độc phải bốc trả lại tàu chở về.

 

Nhất là thực phẩm sản xuất từ Trung Quốc, thường đem vào nhà giam cho tù hình sự làm, thật là dơ bẩn. Vì tù hình sự là loại tù nhiều bệnh hoạn như giang mai, lao tổn, phong cùi, ghẻ ngứa, lác v . v  .  .  Họ lại bị hạn chế tắm mỗi tuần có hai lần, mồ hôi ra ngứa, vừa làm vừa thọt tay vào quần gãi lia gãi lịa. Rồi bốc đồ ăn trong lúc tay còn dính máu bỏ vào bao, hoặc ráp những món đồ chơi trẻ em, trong lúc đó còn dính máu mủ. Ai ham đồ rẽ mua ăn, hoặc mua cho con chơi, sẽ lây không biết bao nhiêu mầm bệnh. Những người chứng kiến cảnh này, là những anh hùng của phái Pháp Luân Công bị ở tù chung, khi về họ kể lại, được các báo ngoại quốc đăng tải phổ biến cả năm châu. Từ ngày các bài báo đó được đăng tải ở ngoại quốc, bên Âu Châu, Úc Châu và Mỹ tẩy chay đồ của Trung Quốc. Khi kiểm lại, thực phẩm Trung quốc đã làm cho chó mèo ở Mỹ chết nhiều ngàn con, và những chứng bệnh lạ phát sinh cho người như sưng môi, sưng mắt do nhiễm nhiều độc chất và chì. Còn thực phẩm thì đầy vi khuẩn và chất salmonellosis sanh vi khuẩn Salmonella làm cho người nóng sốt, buồn nôn rồi đi cầu. Chính dân tộc họ, họ còn không thương, họ bỏ chất melamine vào sữa trẻ em, để trẻ em phải chết hàng trăm trẻ dại và mang bệnh sạn thận,có mấy trăm ngàn người lớn và trẻ em. Huống gì dân tộc khác, họ làm sao thương được ? !

Đến nổi thịt bò chay thì họ làm phân nửa thịt bò điên. Một bà ăn chay trên 25 năm lại mắc bệnh chứng bò điên, ai cũng làm lạ. Khi xét nghiệm và truy tìm nguyên nhân là thịt bò chay hộp gây ra. Vì họ mua những loại bò điên, bò bệnh bán rẽ như cho đem về làm. Còn Hộp thịt heo là heo bệnh, heo Tai Xanh loại nguy hiểm, Còn gà chay cũng 50% là toàn gà toi vì H5N1, gà bị các loại bệnh dịch, bệnh cúm. Họ không có đạo đức, bất kể tội phước, chỉ có lợi nhuận là trên hết. Họ thờ chủ nghĩa Duy Vật đó là Tiền, Tiền và Tiền là đặt ra ngoài lòng nhân đạo, không có sự quý trọng mạng sống của người khác. Hàng Việt Nam đem qua cũng phải thận trọng, nhất là thịt khô, thịt chà bông. Vì thường có mấy trăm tấn thịt trâu bò bệnh, heo bệnh thối rùm, đáng lẽ đem chôn, họ lại đem sấy khô tuồn ra ngoài hoặc cho xuất cảng để bán. Do đó, bây giờ có nhiều thứ bệnh lạ xảy ra, là do ham rẻ để Bệnh tùng khẩu nhập

*   *   *

 

Người dân quê miền Tây đa số chân chất, hiền lành và hiếu khách. Vì cuộc sống của họ kiếm ăn dễ dàng và đầy đủ, nên tâm hồn của họ rộng mở. Nhà cửa miền Tây ở thôn quê như vùng Châu Đốc, Tân Châu, An Giang, Năng Gù, Chợ Mới trước năm 1968. Nhiều nhà sàn ba gian phía trước không làm vách, chỉ làm mái che mưa, không làm cửa, vì không có nạn trộm cắp. Bởi ai cũng đầy đủ, đồ ăn chỗ nào cũng có thì trộm cắp làm gì ! Nếu có chuyện trộm xảy ra, là người ta biết ngay dân cờ bạc nơi nào mới đến. Vùng Hà Tiên trước năm 1964 gọi là vùng đất Phật, với ba sắc dân Việt, Miên và người Hoa. Người dân không biết chữi thề, nói năng chân thật, mua bán sòng phẵng, không có chuyện lừa gạt dối trá. Đến mãi năm 1965 về sau, bến xe đò phát triển, những lơ xe Sài Gòn hay chữi thề, những con buôn từ xa đến lừa đảo, đã làm cho đất Hà Tiên phai dần sự chân chất rất đáng tiếc.

 

Vùng Châu Đốc, An-Giang ở trong quê, đa số nhà sàn. Vì tránh mùa nước nổi, ngập lụt bắt đầu từ tháng bảy đến tháng mười âm lịch mỗi năm. Vùng này, người dân rất ít khi đi chợ. Vì sau vườn có rau má, rau sam, rau dừa, rau diệu, rau trai, rau dền, rau muống đồng, đọt nhãn lòng, đọt bình bát v . v . .. Nhà có hồ ao thì có thêm bông súng, ngó sen, rau nhút, rau dừa. Còn góc hè thì có bụi hành, húng quế, ngò om, ớt hiểm hay ớt sừng trâu, bạc hà, giàn bầu, giàn mướp.. Ngoài đồng có cua, ếch, rắn, rùa tùy vùng có các loại khác nhau. Dưới sông rạch có tôm, có cá, với trong nhà ai cũng có lúa gạo, không phải lo lắng nhiều. Còn chịu khó nữa, họ nuôi thêm ít con heo, hay gà vịt .Chỉ ngại một điều là bệnh hoạn thời khí bất thường. Khi một nhà nào có chuyện cưới hỏi hay ma chay, thì cả xóm trên, xóm dưới xúm nhau giúp đỡ chân tình. Đó là tình nghĩa thân thiết của người dân quê hiền lành mộc mạc Miền Tây. Cuộc sống thoải mái như vậy, cho nên người Miền Tây rất hiếu khách .

 

Rất tiếc sau này từ năm 1968, dân xứ lạ đến, đã xảy ra nhiều nạn trôm cắp, cờ bạc, rượu chè, làm cho người dân mộc mạc trở nên e dè, phải làm cửa nẻo và rào chắn. Tệ nhất là từ mùa hè 1975 về sau, đạo đức xuống dốc trầm trọng, cuộc sống phước báu kém đi, người dân khó khổ rất đáng thương. Dân Bến Tre là quê hương Đồng Khởi, phải đi khắp tứ xứ tìm việc làm kiếm sống. Họ thù ghét Quản lý thị trường, những trạm kiểm soát. Họ gặp là họ đập dở sống dở chết, rồi tước súng quăng bỏ dưới sông. Họ nói ngày xưa :

 

«Thời đả đảo Thiệu Kỳ mua cái gì cũng có »

Còn bây giờ :

« Ủng hộ Hồ chí Minh, mua đinh phải đủ giấy tờ »

Đất Miền Tây là vựa lúa bao la mà thiếu gạo. Nếu chuyện trời rung đất chuyển thì có thể dễ tin hơn. Thế mà người dân phải ăn độn bắp, khoai là chuyện không thể tưởng nổi. Tôm cá bây giờ cũng bớt đi nhiều và nạn sâu rầy rất đáng sợ hay xảy ra. Vườn đu đủ trái còn non, những quày chuối chưa già, ban đêm bị những ăn trộm hái hết. Đến nổi đau yếu thuốc men không có, còn đến nhà thương thì miếng goòng, cây kim cũng phải mua. Còn nghèo thì chịu chết, chứ tiền đâu đi đứng trị liệu. Nhờ những cuộc vượt biên tìm tự do, người dân miền Tây, được thân nhân ở ngoại quốc gởi tiền về yểm trợ. Cho nên cuộc sống bây giờ được nâng lên nhờ nguồn ngoại tệ. Đó là bức tranh tổng quát, cuộc sống trù phú và bi thương của dân lành miền Tây từ xưa cho đến ngày nay.

 

 

 

 

*   *   *

 

 

4/- Cửu Long giang và vùng Thất Sơn huyền bí:

Theo kinh nghiệm của người xưa, thấy xa hiểu rộng, nhận thức sâu sắc rằng :”Tú khí sinh nhân Kiệt, Địa linh xuất Kỳ tài”. Vì thế vùng phù sa Cửu long với Thất sơn huyền bí. Xưa nay đã xuất hiện những bậc Kỳ nhân cứu đời, nhất là những giai đoạn đất nước bị đô hộ hoặc có chiến tranh. Người dân bị ruồng bố, bị bắt đóng thuế thân hoặc đưa đi đồn điền làm sâu khổ sở, cuộc sống gian truân không thể an cư lạc nghiệp.

Dọc hai bên Tiền giang và Hậu giang đã xuất hiện những bậc Kỳ tài, xuất hiện những bậc khai sáng các giáo phái Phật giáo, phù hợp với hoàn cảnh, phù hợp với nhân tâm. Mục đích các Ngài cứu thế độ nhân, giúp người dân đang sống trong cảnh khốn cùng, sinh mạng mong manh, tử thần đang đe dọa. Mọi người thiếu thốn đủ thứ, nhất là thuốc men chữa trị. Còn về tinh thần không ai hướng dẫn, không có chỗ nương tựa. Chính các Ngài là bóng mát, với lòng từ che chở cho những tâm hồn khổ đau, rát bỏng đáng thương.

 

So sánh về hình thể địa cuộc, bên Ấn Độ có dòng sông Hằng, phát nguyên từ đỉnh Everest và đỉnh Kailash linh thiêng. Thành dòng suối lớn đổ vào Tây Tạng trên cao nguyên của dãy Hymalaya. Trước khi đổ xuống Ấn Độ, thành dòng sông Hằng (Ganges) đã đi bảy vòng quanh núi Tuyết. Cho nên thời Đức Phật Thích Ca ra đời, có những Giáo chủ ngoại đạo cũng xuất hiện hai bên sông Hằng với những triết thuyết khác nhau. Những nhà bác học, những bậc kỳ tài cũng sản sinh từ hai bên sông Hằng.

 

Còn ở Việt Nam có dòng sông Mêkong, cũng phát nguyên Từ đỉnh Kailash của Hymalaya đổ vào Tây Tạng, chảy quanh  núi Tuyết, đi ngang Ấn và đổ xuống Miến Điện, Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Campuchia và  cuối cùng vào Việt Nam gọi là Cửu Long giang. Vì khi đổ ra biển Đông thành chín cửa sông. Mặc dù bây giờ một cửa sông, đã bị phù sa lấp cạn dần thành con rạch. Sông Cửu Long đến vùng Tân Châu và Hồng Ngự, chia làm hai nhánh. Sông Tiền chảy hướng Hồng Ngự xuống Cao Lãnh đến Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Mỹ Tho. Khi đổ ra biển, Tiền giang đã chia thành 6 nhánh đi ra cửa biển.:

 

1-     Sông Tiền giang từ Mỹ Tho và phía Nam Gò Công, chảy ra biển là Cửa Tiểu và cửa Đại...

2-     Sông Ba Lai chảy ra phía Bắc của Kiến Hòa Bến Tre ra cửa biển Ba Lai.

3-     Sông Hàm Luông chảy qua hướng Nam Kiến Hòa ra cửa biển Hàm Luông.

4-     Còn sông Cổ Chiên từ Vĩnh Long đổ xuống, tạo thành ranh giới giữa tỉnh Kiến Hòa và Tỉnh Vĩnh Bình, Trà Vinh. Sông này đổ ra biển thành hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu.

Như vậy ta thấy Tiền giang đã chia thành 4 nhánh sông và khi ra tới biển biến thành 6 cửa.

5-     Còn  sông  Hậu giang  chảy  hướng  Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng. Khi đổ ra biển biến đã thành

3 cửa : Định An, Ba Thắc (Bassac) và Tranh Đề cũng gọi là cửa Bồ-Đề.

 

Cửu Long giang, theo cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi là Bảo Giang, có nghĩa là Sông Báu. Cụ vốn là nhà Dịch lý tiên tri rất chính xác. Cụ đã nói :

 

« Bảo Giang Thiên Tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành »

Điều này thì chưa ai biết lúc nào sẽ xảy ra. Nhưng hai câu sau đây rất rõ ràng :

 

Hòa thôn đa khuyển phệ

Mục giả, dục nhơn canh

Hòa thôn đa khuyển phệ, Có nghĩa Hoà thôn là làng Hòa Hảo chó hay sủa nhiều ? Vì người ở đây không ăn thịt trâu, thịt chó. Cho nên chó sanh sản nhiều, vì thế nhiều chó sủa. Mục giả, dục nhơn canh. Chữ Mục giả nghĩa thông thường là người đi chăn. Nhưng ở đây không phải là người đi chăn trâu chăn bò, mà có nghĩa là đức Hùynh Giáo Chủ xuất phát từ thôn Hòa, là người chăn dắt hướng dẫn thế nhân đi vào con đường Phật đạo, tu hành, làm phước bố thí, cố gắng cày cấy để sống một cách chân chánh, để tăng gia sản xuất, giúp cho xã hội được no đủ và cứu trợ vùng đói.

 

 

*   *   *

 

Riêng vùng Hậu giang có Thất sơn huyền bí kể từ Châu Đốc đến núi Sam Tây An Cổ Tự của Phật Thầy. Nhưng núi Sam lại không có tên  trong Thất sơn huyền bí. Còn Thất sơn là bảy núi như sau :

 

Đi lên vùng biên giới đến chợ Nhà Bàng, phía sau chợ Nhà Bàng cách một cánh đồng nhỏ là núi Két, gọi là :

1-     Oanh Vũ Sơn. Núi này cao hơn mặt biển 225m, dài 1,100m, ngang rộng 1000m. Trên núi có hai tảng đá lớn như mỏ chim két.  Còn bên tay phải con đường qua một cánh đồng nhỏ khác là núi Trà Sư, gọi là :

2-      Nga My sơn. Núi này cao 50m, dài 600m và ngang 300m. Có ngôi chùa và trồng nhiều cây thanh trà và cây mãn cầu ta rất nhiều. Có người bảo núi này có vị sư trồng nhiều cây Thanh Trà, cho nên gọi tắt là Trà Sư. Nhưng theo tôi biết tiếng Trà là tiếng Miên như Trà Bai, Trà Ôn, Trà Úi, trà Lồng, Trà Cú  v . v . . ( Còn theo tài liệu ông Nguyễn văn Hầu và Trần văn Nhật thì không đề cập đến Nga My sơn, mà nói là Ngũ Hồ Sơn, là núi có năm giếng nước ở gần núi Két).Đi vào xa khoảng hơn 30km nữa, khỏi Trung Tâm huấn luyện Chi Lăng cũ là núi Cấm, gọi là :

3-      Thiên Cấm sơn. Núi này cao 800m và lớn nhất. dài 7km rưỡi, ngang rộng tới gần 7km. Chân núi hình Tam Giác, nằm khoảng giữa núi Dài và núi Bà Đội Om. Có những nguyên nhân kêu là núi Cấm. Theo thuyết thứ nhất : là ngày xưa khi chúa Nguyễn Phúc Ánh bôn tẩu đến đây thời gian ngắn, có lệnh cấm không cho dân đến núi. Còn thuyết thứ hai, xưa kia nơi đây là rừng rậm, núi cao, những đoàn thể chống Pháp hay về đây trú ẩn. Cho nên Pháp cấm không cho ai lên núi. Nhưng thuyết thứ ba là, Đức Phật Thầy nói đây là Linh địa, không cho đệ tử  cất chùa hay là lên núi ở. Chính ba điều này gọi là núi Cấm. Đi bộ từ dưới chân theo triền dốc lên núi, phải mất 6 tiếng đồng hồ đối với người khoẻ mạnh. Trên đỉnh Thiên Cấm sơn, nếu trên máy bay chụpkhông ảnh, để làm bản đồ quân sự. Dù trời trong không mây, lúc nào hình cũng bị mờ tối nhìn không rõ địa hình, địa vật như những núi khác. Trong thời gian còn là Tuyên Úy, tôi công tác trên chiến trường vùng này, tôi đã quan sát rất rõ. Núi Cấm còn có cọp và rắn lớn trú ẩn trong những hang động, vòng mình của rắn lớn hơn vòng tay người ôm. Những vị ẩn tu ở đây thường gặp, đặc biệt những cọp, rắn, gấu ở núi này đều tu không hại ai. Núi này nhiều cây thuốc như bí-kỳ-nam, quế, sa-nhơn, đổ trọng, bạch thược, cao thiên môn, cam thảo, sâm  v. v. .     Trước kia chúng tôi lên đây thăm, Thượng Tọa Thích Thiện Huệ. Thầy đãi một nồi canh chua, bằng củ hủ cây nhum nấu với bứa rất ngon. Lần nào lên núi ăn cơm cũng ngon, vì khí hậu trong lành, gió mát, người hiền, cảnh thanh tịnh, thêm tình đạo vị đậm đà, khiến cho ai cũng quyến luyến khi ra về. Sau này vì chiến tranh bất an, Thầy dời ra đảo Lại Sơn, tức là hòn Sơn Rái. Hòn này cảnh khá đẹp, nước trong xanh, nhiều cây dừa nghiêng mình xỏa tóc, suối nước róc ránh ngày đêm, những hòn đá lớn tròn lẳn do sóng vổ bào mòn, bãi cát vàng mịn màng, cảnh đẹp không thua Hawaii của Mỹ. Chạy tàu nhìn chung quanh đảo chiêm ngoạn thật đẹp mắt ai cũng thích.

Trong vùng đất cao của bảy núi, đi tới nữa có núi Tượng gọi là :

4-     Bạch Tượng sơn, cao 150m, dài 600m, ngang 400m, hình thể nó giống con voi, thuộc xã Ba Chúc gần núi dài. (Nhưng tài liệu của ông Nguyễn văn Hầu thì ghi là Liên Hoa sơn, tức núi Tượng). Núi này cao hơn mặt biển khoảng 150m, dài 600m, ngang rộng 400m. Có chùa Đức Bổn Sư, cũng là một chuyển kiếp Thứ Ba của Phật Thầy Tây An. Còn núi Kỳ Hương gần Chi Lăng, có Chùa Phi Lai. Chùa này là một di tích lịch sử của một vị Thánh Tăng, đó là Phật sống chùa Phi Lai, tôi sẽ kể ở những chương sau. Còn đi về hướng núi Dài, trên cánh đồng bao la trải dài đó, có những núi như núi Nước gọi là :

5-      Thủy Đài sơnTuy không cao khoảng 40m, giống như gò đất, nhưng nước chảy quanh năm. Vì thế người ta gọi nôm na là núi Nước. Còn núi Cô Tô được gọi là :

6-      Phụng Hoàng sơn, cao 615m, dài tới 5,800m, ngang rộng 3,700m. Trên núi này có một chiếc thuyền thành đá, mọi người ngồi trên thuyền cũng thành đá. Chúng tôi không biết bây giờ còn bảo quản như ngày xưa không ? Núi Cô Tô gần ranh giới Rạch Giá  và Hà Tiên. Tuy nhiên nó vẫn ở địa phận của quận Tri-Tôn như những núi kia. Còn núi Dài gọi là :

7-      Ngọa Long sơn, cao 580m, dài tới 8,00m còn bề ngang rộng 4,500m. Nó nằm trên bốn xã Châu Lang, Lương Phi, Lễ Trí và có xã Ba Chúc một thời đẫm máu dân lành. Nơi đây là quê của Thượng Toạ Thích Minh Giác Chánh Đại Diện GHPGTN tỉnh Kiên Giang. Chúng tôi cũng rất tiếc, Thầy bị mất tích sau ngày 30 tháng 04 năm 1975. Chúng tôi đã dò hỏi nhiều nơi, nhưng điều chắc chắn là Thầy bị cộng sản thủ tiêu qua hình thuc dẫn đi vượt biên. Ngoài ra còn nhiều núi nhỏ thấp chung quanh vùng Thất Sơn như : Núi Tà Chiếu, núi Trà Nghịch, núi Năm Sư, núi Nam Vi, núi Thốt, núi Khê Lập, núi Ca Âm, núi Ngát Xung, núi Đoài Tốn, núi Chơn Sum, núi Ba Xoáy, núi Bà Đội Om, núi Sam, núi Ba thê ( Tên thật là Hoa Thê sơn, vì đời nhà Nguyễn bị kỵ húy, cho nên nói trại ra là Ba Thê) và Núi Sập là Thoại Sơn. Những núi này nằm ngoài danh sách Thất Sơn, nhưng người ta kể chung là vùng Thất Sơn.

 

Bảy núi kể ở phần trên được liệt vào danh sách Thất Sơn huyền bí. Còn núi Ba Thê, từ Thị xã Long Xuyên đi vào hơn 30km. Còn núi Sập (Vì chóp núi đã có lần sụp đổ, cho nên gọi là núi Sập) thực sự được gọi là Thoại sơn, con kinh Ba Thê gọi là Thoại hà, để ghi nhớ công lao của vị Đại thần Thoại ngọc Hầu cho đào con kinh dẫn nước vào Hoa Thê sơn. Hai núi này với núi Sam và vài núi nhỏ vùng Châu Đốc, núi Tà Lơn ở Tri Tôn được ghép thành năm non, gọi chung cả hai là Năm Non Bảy Núi.  Nhưng thật sự có nhiều núi nhỏ, ông bà chúng ta có đặt tên để gọi cho dễ phân biệt từng núi.

 

Năm Non cũng có người cho là năm chóp cao đưa ra trên đường đi lên núi Cấm, cũng gọi là năm Vồ. Như

-  Một là: Vồ Đầu, là vồ đầu tiên người ta đi từ chợ Thum Chưng ở hướng Tây Bắc núi Cấm, gặp trước tiên nên gọi là Vồ Đầu. cao 584m.

-  Vồ thứ hai là : Vồ Bồ Hóng, vì xưa có nhiều bồ hóng đóng ở đây. Sau này có người tu ở, thờ phượng, cho nên cũng gọi là Điện Bồ Hóng. Vồ này cao 716m ở hướng Tây.

-  Vồ thứ ba là : Vồ Bà. Vì ở đây có điện thờ bà Chúa Xứ thuộc hướng Nam, cao 580m.

-   Vồ thứ Tư là : Vồ Ông Bướm. Được biết trước kia ông Bướm với ông Vôi đến ở nơi đây, vồ này cao 480m.

-   Vồ thứ năm là : Vồ Thiên Tuế, vì vồ này rất nhiều cây Thiên tuế mọc, cao 515m ở hướng Đông.

 

Xét về phong thủy, tú khí địa linh của Miền Tây. Ngoài những Giáo phái tôn giáo phát triển nhiều ở hai bên sông Tiền và sông Hậu của Cửu Long. Từ vùng Tân Châu có ông Đạo Gò mối, đến vùng núi Dài ( Ngọa Long Sơn) cùng núi Sam Châu Đốc có Phật Thầy Tây An, Phật Trùm, Sư Vãi bán khoai đến Đức Huỳnh Giáo-Chủ. Còn có Phật sống chùa Phi Lai núi Kỳ Hương phía trong Chi Lăng. Khi đến Năng Gù, Chắc cà Đao có ông Đạo Cậy. Đến vùng Chợ Mới có Ông Đạo Non ở Mỹ Luông, một thời có Huệ mầu rực rỡ, và nhiều Ông Đạo cũng một thời nổi danh vang bóng. Còn vùng Cà Mau gần rừng U minh hạ, có vị Phật Tổ nay còn Tháp và ngôi chùa Phật Tổ gần chợ Cà Mau, được vua Thiệu-Trị sắc tứ cho xây dựng thành di tích. Chùa này bây giờ gọi là Quán Âm Cổ Tự.

 

Còn đến vùng Cao Lãnh Tiền Giang có chùa Minh Bửu, do Ngài Phật Nằm khổ công chín năm công quả gian lao rèn luyện và với chín năm tu trì khổ hạnh, cộng với đức nhẫn nhục không ai bằng. Ngài đã trải qua nhiều thử thách gian truân, chịu trăm đắng ngàn cay mới đắc đạo. Cũng bên dòng Cửu Long Tiền Giang, dài xuống vùng Ba Lai Bến Tre có ông Đạo Dừa, sau chuyển qua cồn Phụng Mỹ Tho. Ông cũng một thời nổi tiếng có Huệ mầu. Khi tôi đến thăm ông, thì ông đã biết trước và nói rõ công việc tôi đang làm. Nhưng có điều, cách tu của ông chỉ ăn sống các loại quả như, bầu, bí, dưa leo, khổ qua, cà chua, mướp, rau, xoài chuối v . v . . . Ông tự gọt lấy trên lá chuối và rửa tay, rửa dao bằng chanh cắt ra vuốt, hoặc nước dừa. Không sử dụng nước sông hay nấu nướng. Ông tự gọt lấy ăn. Các loại này trong đệ tử hay con cháu trồng, không dùng phân hóa chất, chỉ dùng phân hữu cơ thiên nhiên như rơm mục, cỏ mục. Ông tu pháp riêng là Phật và Chúa đề huề. Ông dạy môn đồ niệm :

 

“ Nam Mô A-Di-Đà Phật, A-men 

 

 

Mọi người thường gọi ông là Cậu Hai. Ông không muốn người ta gọi ông là Thầy. Trên đầu ông nổi u lên với một cuộn tóc nhỏ. Sau này đệ tử của ông, cũng bới tóc trên đỉnh đầu, rồi lấy khăn màu nâu quấn chung quanh. Trước kia ông là một kỹ sư hoá học nổi tiếng, con một vị đại điền chủ giàu bậc nhất ở Ba Lai, Bến Tre. Ông bỏ công danh sự nghiệp, ông từ giả gia đình, nửa đêm ra đi lìa vợ với người con gái mới sanh hơn một tháng, ông lên núi Cấm tu hành. Ông đã từng ngồi tự phơi nắng dưới cột phướng ba năm. Ông cho biết tiền thân ông là vua Minh Mạng, đã ngược đãi Thiên Chúa Giáo: “ Cho nên bây giờ Cậu Hai phải dạy môn đồ tu hạnh hòa hợp Chúa và Phật:  “ Nam Mô A Di Đà Phật, A Men ! “.

Ông Đạo Dừa không xây chùa. Chỉ làm cái sân rộng, một bên  vẽ hình chùa, một bên để Nhà thờ cũng vẽ, mỗi cái khoảng 1m vuông. Môn đồ đến đó xá lạy cầu nguyện. Rồi niệm Nam Mô A-Di-Đà Phật, A-men. Ông dạy môn đồ ăn chay trường, làm phước, bố thí và nhất là hạnh nhẫn nhục.

 

*

Cũng vùng bến Tre, có Giáo phái Cao Đài riêng trước, khác với phái Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

Ngoài vấn đề tôn giáo, xuất hiện hai bên dòng Cửu-Long trù phú. Chúng ta còn thấy những nhân vật đặc biệt đã sinh trưởng từ những vùng này, đã ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của quốc gia. Từ triều đại Quân chủ rồi đến những triều đại Dân chủ sau này. Tôi xin mạn phép Quý Vị, nơi đây chúng tôi không đề cập đến vấn đề khuynh hướng chánh trị, vấn đề thời cuộc hay chủ nghĩa. Chúng tôi chỉ nhận định về vấn đề phong thủy địa linh nhân kiệt, của hai bên dòng sông Tiền giang và sông Hậu giang. Vùng nhiều phù sa mầu mỡ, nuôi sống bao triệu dân hiền lành và hiếu khách.

 

Về phong thủy của tỉnh An-Giang. Chúng ta thấy sông Hậu-Giang, từ vùng chợ Long Xuyên đi xuống đường Cái Sơn gần chùa Quảng Tế. Thấy một toà nhà rộng lớn với hàng rào sắt bao quanh. Đó là nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ sinh ở đây, làm quan đầu tỉnh, sau được cất nhắc lên Phó Tổng Thống Thời đệ nhất Cộng Hoà. Từ năm 1957 đến năm 1963. So với ngày xưa, là ngôi vị Phó Vương của Miền Nam Việt Nam. Còn có ông Tăng Kim Đông cũng ở con đường đó, sau làm chức Bộ Trưởng thời đệ nhị cộng Hòa.

 

Sau 1975, có ông Tôn Đức Thắng ở cù lao ông Hổ, từ chợ Long Xuyên nhìn ra giữa sông bên trái phía trên, có một cù lao lớn. Chúng ta nhìn thấy một cây cổ thụ cao hình dáng giống như cái lọng, đó là nơi quê của ông. Ông làm Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa suốt từ Nam ra Bắc. Trong thời gian sau đó, cũng tỉnh An-Giang bên cù Lao Giêng có hai người: Ông Ung văn Khiêm làm phó Thủ Tướng quê ở xã Tấn Mỹ. Ông Nguyễn văn Hưởng làm Bộ Trưởng Bộ Y-Tế quê ở xã Mỹ Hiệp, cũng trên địa phận Cù Lao Giêng phía bên sông Tiền Giang.

 

 

Còn phần gần cuối sông Tiền Giang thuộc Gò Công và Mỹ Tho có hai bà Hoàng Hậu.. Bà Nam Phương Hoàng Hậu quê ở Gò Công thời vua Bảo Đại. Đến thời đệ nhị Cộng Hòa, có bà Đệ nhất phu nhân quê ở Mỹ Tho, phu nhân của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. So với ngày xưa thời quân chủ, ngôi vị của bà là Hoàng Hậu.

 

Nêu rõ như vậy, để chúng ta thấy tú khí và địa linh của Miền Tây Việt Nam, đã sản sinh nhiều nhân vật nổi tiếng một thời. Dân miền Tây hai bên Cửu Long, trong thời chống Pháp đã hy sinh nhiều. Như bên Tiền giang đã đóng nọc giăng dây xích cản tàu Tây. Dây xích được chằng cột vào gốc cây đại thọ hai bên sông. Làm cho tàu Tây chạy ngang bị mắc dính chân vịt vào dây xích, tàu quay nghiêng ngửa muốn chìm. Rồi đoàn quân cảm tử bắn xối xả lên tàu, bơi xuồng ra leo lên tàu, bắn rồi đốt phá! Hai đoạn sông này xưa gọi là Cản Tàu Thượng và Cản Tàu Hạ. Nhưng vì lý do khi Pháp chiếm trọn miền Nam, lại goi trại ra là Cái tàu Thượng và Cái Tàu Hạ .

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/01/2022(Xem: 5086)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5336)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6004)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 4937)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 3852)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5150)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3717)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 2868)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 6168)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 17123)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567