Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 18: Kiến Địa Cạn Sâu

24/06/201318:38(Xem: 9106)
Chương 18: Kiến Địa Cạn Sâu

Kho báu nhà Thiền

Chương 18: Kiến địa cạn sâu

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Ðại sư Vân Môn nói:
Dẫu cho càn khôn đại địa không mảy may lầm lỗi vẫn còn là chuyển cú, chẳng thấy một sắc mới chỉ là bán đề, lại cần phải biết có cái thời tiết toàn đề nữa.
Ngài Vân Môn nói:
Pháp thân cũng có hai thứ bệnh: Ðược đến pháp thân, mà vì pháp chấp chẳng quên, kiến chấp của mình hãy còn, nên chỉ ngồi bên cạnh pháp thân, đây là một bệnh. Dẫu cho thấu được pháp thân mà buông bỏ chẳng được, kiểm điểm kỹ càng lại có hơi hám gì cũng là bệnh.
Ngài Ðại Huệ nói: Ngày nay, người học Phật pháp lấy sự thấu qua pháp thân làm cùng tột mà ngài Vân Môn trái lại cho đó là bệnh. Chẳng biết thấu qua pháp thân rồi, phải làm gì? Ðến đây như người uống nước lạnh nóng tự biết, chẳng cho hỏi người khác, hỏi người khác ắt là tai họa.
*
Thiền Sư Ðộng Sơn Giới nói:
Thời đại mạt pháp con người nhiều càn huệ, muốn phân biệt chân ngụy, có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy):
1/ Kiến sấm lậu: Nghĩa là căn cơ chẳng rời địa vị, rơi vào biển độc. Ngài Minh An nói: Vì cái thấy bị kẹt nơi sở trị, nếu chẳng chuyển vị thì ngồi tại một sắc. Nói là sấm lậu vì ở trong ấy chưa tận thiện, cần phải phân biệt lại tung tích thì mới được tương tục huyền cơ diệu dụng.
2/ Tình sấm lậu: Nghĩa là trí thường hướng theo thuận hoặc nghịch, chỗ thấy thiên khô. Ngài Minh An nói: Vì tình và cảnh viên dung, kẹt nơi thủ xả, trước sau thiên khô, cái giác chiếu soi chẳng hoàn toàn, là sóng thức lưu chuyển, là việc giữa đường, bên bờ. Cần phải mỗi câu phải lìa hai bên chẳng kẹt vào tình và cảnh.
3/ Ngữ sấm lậu: Nghĩa là thể diệu mất tông, cơ muội sau trước. Người học trí ô trược lưu chuyển chẳng ra ngoài cái loại thứ ba này. Ngài Minh An nói: Thể diệu mất tông là kẹt nơi đường ngôi ngữ, câu mất tông chỉ, cơ muội sau trước là kẻ đương cơ tối tăm chỉ nhận trên ngôn ngữ nên tông chỉ chẳng viên mãn. Mỗi câu phải là vô ngữ trong hữu ngữ, hữu ngữ trong vô ngữ thì mới được cái diệu chỉ mật viên.
*
Quốc sư Vô Nghiệp nói:
Giả sử có người ngộ lý có một tri một giải mà chẳng biết phép tắc trong ngộ này là cái cửa nhập lý, bèn cho rằng hằng ra khỏi danh lợi thế gian, rồi vào trong núi ở bên khe, khinh thường bậc thượng lưu đến nỗi khiến tâm lậu chẳng hết, lý địa chẳng sáng, luống đến già chết sự nghiệp không thành, hao phí năm tháng. Dẫu cho có thông minh cũng chẳng địch nổi nghiệp, càn huệ chưa thoát khỏi luân hồi. Giả sử tài ngang Mã Minh, hiểu bằng Long Thọ, chỉ một đời hai đời chẳng mất thân người, do căn tánh sáng suốt đời trước thanh tịnh nên nghe qua liền hiểu.

Truyền Ðăng Lục


*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Người đại tử [1]đều không có Phật pháp, đạo lý huyền diệu, đắc thất, thị phi, trường đoản. Ðến chỗ này mà thôi nghỉ thì Cổ nhân gọi đó là trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai góc mới là tay tài giỏi, cần phải thấu qua bờ bên kia mới được. Tuy nhiên như thế, nhưng người đời nay đến được chỗ đất này cũng thật là hiếm có. Hoặc như có người do nương tựa mà được giải hội thì không dính dáng gì. Hòa thượng Mai gọi đó là cái thấy chẳng tinh khiết, Tiên sư Ngũ Tổ gọi đó là mạng căn chẳng cắt đứt, phải một phen đại tử rồi sống lại mới được. Hòa thượng Chiết Trung Vĩnh Quang nói: Ngôn phong nếu sai, quê hương xa vạn dặm, phải trên vực thẳm buông tay, tự chịu đảm đương, chết đi sống lại, dối ông chẳng được, ý chỉ phi thường, người đâu giấu được.

Bích Nham

*
Cổ nhân nói:
"Nương theo lời cần phải hội được tông, chớ tự thiết lập quy củ". Như người đời nay cho rằng cứ đuổi đi là xong, được thì được đó, nhưng vẫn còn ở trong mịt mờ lầm lạc. Nếu họ đến trước mặt bậc tác giả, các Ngài đem ba yếu ngữ ấn không, ấn bùn, ấn nước để nghiệm họ thì sẽ thấy như cây vuông tra vào lỗ tròn, không thể nào được!

Bích Nham

*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Người học đạo bắt đầu có niềm tin, chán thế gian phiền rộn, rất sợ chẳng được lối vào. Ðã gặp thầy chỉ thị hoặc nhân tự mình phát minh được cái chân tâm mầu nhiệm viên mãn, vốn tự đầy đủ từ xưa đến nay. Chạm cảnh gặp duyên tự biết mình không dính mắc, liền bảo thủ chỗ đó. Sợ chẳng thể ra được nên bèn làm khuôn sáo, ở trên cơ cảnh lập chiếu lập dụng, buông một tiếng hét, một cái đánh, nhướng mày trợn mắt một cách kỳ đặc, lại gặp bậc thầy đắc đạo tước đoạt cho hết những cái tri giải như thế, liền đó khế chứng cảnh giới bổn lai vô vi, vô sự, vô tâm, rồi sau đó mới hổ thẹn vì biết rằng chỗ cứu cánh hãy còn mờ mịt. Chư Thánh còn tìm chỗ khởi của nó chẳng được, huống là người khác! Sở dĩ ngài Nham Ðầu nói: "Người được nó chỉ giữ chỗ nhàn nhàn, trong suốt 24 giờ đồng hồ vô dục, vô y, đâu chẳng phải là pháp môn an lạc!".

Tâm Yếu

*
Hòa thượng Lạc Phổ thượng đường nói:
Một câu rốt sau mới đến lao quan (cổng kiên cố), bẻ khóa yếu tân (cửa trọng yếu) chẳng chung phàm thánh.
Ta thường nói với các ông: Mặc cho thiên hạ vui hớn hở, ta riêng chẳng chấp nhận. Muốn biết, bậc thượng lưu chẳng nên đem ngôn giáo của Phật Tổ dán trên trán, nếu giống như con quy mang cái hà đồ thì tự chuốc lấy cái điềm táng thân. Con chim phượng hoàng ở trong lưới vàng đến khi nào mới tung cánh được trên bầu trời cao lồng lộng, Phải nên ngoài ý chỉ mà rõ tông thú; chớ hướng vào ngữ ngôn mà nắm lấy cực tắc. Thế nên, người máy bằng đá in tuồng như ông biết xướng khúc Ba Ca thì ông cũng như người đá phải họa lại bản Tuyết Khúc.

Hội Nguyên

Hòa thượng BạchVân Ðoan nói:
Cần phải ngộ mới được! Sau khi ngộ rồi, cần phải gặp thiện tri thức. Nhà ngươi nói: Ngộ rồi là xong, đâu cần gặp thiện tri thức. Nếu ngộ rồi lại gặp thiện tri thức thì đương lúc ra tay làm phương tiện hằn tự có đường xuất thân, chẳng làm mù mắt người học. Còn nếu chỉ ngộ được đầu cây cải khô thì chẳng những làm mù mắt người học mà khi chính mình cử động trước tiên phạm nhằm mũi nhọn bị thương tay.

Hội Nguyên

*
Hòa thượng Ngũ Diện nói:
Có một bọn tham thiền như giã bột lọc trong bình lưu ly, lại động chuyển chẳng được, xông xáo chẳng được, chạm nhằm liền vỡ. Nếu muốn đến chỗ sống linh hoạt thì chỉ cần tham thẳng nơi cái đảy da rách này[2]. Phải hướng thẳng lên núi cao chót vót buông tay xuống mà cũng chẳng bị vỡ, cũng chẳng bị hư.

Bích Nham

*
Hòa thượng Hối Ðường dạy chúng:
Nếu người chỉ thấu rõ tự kỷ mà chưa ngộ cái trước mắt, người này như có mắt mà không có chân. Nếu ngộ được cái trước mắt mà chẳng thấu rõ tự kỷ, người này như có chân mà không có mắt. Hai người này, trong hai mươi bốn giờ thường có một vật ngăn trong lồng ngực. Vật đã ở trong ngực thì cái tướng bất an thường ở trước mắt. Ðã ở trước mắt thì gặp việc, thành ra bị kẹt, làm sao mà được an ổn? Tổ chẳng nói:
Chấp đó mất chừng (chánh đạo)
Ắt vào đường tà
Buông đó tự nhiên
Thể không đi, trụ
Đó sao!

Chánh Pháp Nhãn Tạng

*
Hòa thượng Diệp Huyện Tỉnh nói:
Tham học cần phải đủ mắt tham học. Kiến địa cần phải được câu kiến địa. Có lúc câu đến mà ý chẳng đến, chỉ là vọng duyên bóng dáng phân biệt của tiền trần. Có lúc ý đến mà câu chẳng đến thì như người mù sờ voi, mỗi người đều nói mỗi khác. Có lúc ý và câu đều đến thì đập vỡ cõi hư không, ánh sáng soi khắp mười phương. Có lúc ý và câu đều chẳng đến, như người không có mắt chạy ngang chạy dọc, hốt nhiên bất giác sa xuống hầm sâu.

Hội Nguyên

Thiền sư Huyền Sa Bị buồn vì đạo pháp khó nói, ít gặp người thượng căn, người học thường dựa theo ngữ ngôn mà sanh tri giải, theo chiếu mất tông, nên Ngài bèn dạy ba câu cương tông:
Câu thứ nhất: Hãy tự đảm đương sẵn sàng đầy đủ, vì cả mười phương thế giới không có người nào khác mà chỉ là ông, lại bảo cái gì là thấy? Cái gì là nghe? Toàn là tại tâm vương ông làm ra, trọn thành bất động trí. Chỉ vì thiệu sự tự đảm đương nên nói là mở cửa phương tiện để khiến ông tin có một phần chân thường lưu chú, cùng xưa tột nay chưa có chẳng thị, chưa có chẳng phi. Nhưng câu này, chỉ thành pháp bình đẳng. Vì sao? Chỉ vì dùng lời để dẹp lời, lấy lý để đuổi lý, bình thường tánh tướng nhiếp vật lợi sanh mà thôi. Vả lại, đối với tông chỉ còn là chỉ biết rõ phía trước mà chẳng biết rõ phía sau, gọi là một vị bình thật, là chứng từng phần pháp thân, chưa có câu xuất cách, chết ở dưới câu, chưa có phần tự do. Nếu biết cái lượng xuất cách thì chẳng bị tâm ma sai khiến và đến trong tay bèn chuyển một cách lỗi lạc, nói là thông đại đạo chẳng rơi vào kiến giải bình thường trong lòng.
Câu thứ hai: Xoay nhân về quả, chẳng mắc vào lý bình thường nhất như, phương tiện gọi là chuyển vị hợp cơ. Sanh sát tự tại, buông bắt tùy nghi, ra sanh vào tử làm lợi ích rộng lớn cho hết thảy chúng sanh, thoát khỏi cảnh sắc dục, ái kiến, phương tiện gọi là Phật tánh đốn siêu tam giới. Ðây gọi là hai lý cùng sáng, hai nghĩa đồng chiếu, chẳng bị hai bên làm động, diệu dụng hiện tiền.
Châu thứ ba: Biết rõ cái gốc tánh tướng đại trí, kiến giải vượt bực, tối sáng rỗng suốt, trùm khắp pháp giới một thể tánh chân thật, đại dụng hiện tiền, ứng hóa cùng khắp mọi nơi, toàn dụng toàn bất dụng, toàn sanh toàn bất sanh, phương tiện gọi là cái cửa từ định.






CHÚ THÍCH

[1] Người đại tử là người hoàn toàn bặt hết tình thức như người chết, để rồi sau đó sống lại với cái tâm chân thật bất sanh bất diệt sẵn có của mình (hoát nhiên đại ngộ)
[2] Chỉ cho tự kỷ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8199)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
21/03/2017(Xem: 5599)
Đây là một tập bút ký, ghi lại cảm nghĩ của tác giả từ các nơi chốn tùng lâm ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam. Không hề có một so sánh hay đánh giá ở đây, tất cả đều trình hiện như nó chính là nó. Chúng ta cũng vui đọc theo chân người đi, đôi lúc mình cũng là người đang đi như thế. Chiều thu muộn hay sáng hồng rực rỡ, một viên sỏi trong vườn thiền cũng chiếu rọi ánh tuyết lấp lánh. Tách trà xưa và nay cùng nâng lên để kỷ niệm giây phút tao phùng.
20/03/2017(Xem: 5205)
Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat. Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.
20/03/2017(Xem: 5385)
Cuộc sống của chúng ta có những lúc cần phải suy gẫm về ý nghĩa về đạo lý làm người. Ngày xưa có một người gánh nước, mang trên vai hai chiếc bình. Trong hai bình ấy có một bình bị vết nứt, còn bình kia thì nguyên vẹn. Suốt một chặng đường dài từ nơi mé sông về nhà, chiếc bình nứt chỉ còn một nửa. Thời gian đã tròn ba năm, ngày nào cũng vậy, người gánh nước chỉ mang về đến nhà chỉ có một bình rưỡi nước.
28/02/2017(Xem: 12700)
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
24/02/2017(Xem: 4012)
Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà như
23/02/2017(Xem: 4598)
Họ đã kết hôn được 78 năm, người chồng 103 tuổi, người vợ 100 tuổi, họ vẫn ở bên nhau suốt ngần ấy năm tháng, mạnh khỏe và hạnh phúc. Trong ngày Valentine năm nay, câu chuyện về họ được biết tới, chia sẻ và gây cảm động.
22/02/2017(Xem: 36839)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA CON TRAI CỦA TÔI (DALAI LAMA, MY SON) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tác giả: Diki Tsering Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup Việt dịch: Thích Nguyên Tạng Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
05/02/2017(Xem: 4113)
Khi tôi lên giường, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Thông thường vào giờ này, vốn dễ ngủ, không mộng mị, nếu có, chỉ toàn giấc mơ hoa, không bao giờ gặp ác mộng, tôi đã ngáy khò khò; thế mà hôm nay, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Nằm trăn trở trong đêm, tôi lắng nghe âm thanh của đêm. Sài Gòn giờ này đã trả lại sự yên vắng cho nó. Không còn tiếng rao hàng, không còn tiếng người qua lại, không còn tiếng xe cộ? Lâu lắm mới có chiếc Honda xẹt ngang của vị nào đi chơi khuya về.
03/02/2017(Xem: 3823)
Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ thêm lộng lẫy đẩy lùi tất cả vào dĩ vãng trong một ngăn nào đó của bộ nhớ, và tuổi già thường hay hoài niệm những ngày cũ mà ngậm ngùi nuối tiếc. Tuổi già đối với những người khác không biết thế nào nhưng riêng tôi lại thích tham dự những buổi họp mặt với bạn bè cũ, gặp lại nhau biết bao mừng vui tràn ngập cả tâm tư. Tôi lại định cư tại một nước xa xôi lạnh lẽo, bạn bè ngày xưa không có, thành ra tôi cứ ao ước được bay đến những vùng trời khác. Nơi đó có những người bạn thời trung học thật tuyệt vời, là niềm an ủi cho mái tóc đã điểm bạc trong cuộc sống cách biệt quê người vạn dặm này. Tôi nhớ lại lần tôi qua Cali dự lễ kỷ niệm 50 năm xa trường. Đêm Đại hội đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ; sự suy nghĩ với nhiều thứ pha trộn nhau. Với tôi, đó cũng là một sự hạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]