Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 6: Tin Nhận Đúng Như Thật

24/06/201317:24(Xem: 9457)
Chương 6: Tin Nhận Đúng Như Thật

Kho báu nhà Thiền

Chương 6: Tin nhận đúng như thật

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Lục Tổ, một hôm bảo chúng:
Tự tâm các ông là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài ra không một vật có thể kiến lập, đều là bản tâm sanh ra muôn pháp, cho nên kinh nói: "Tâm sanh các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt". Nếu muốn thành tựu chủng trí cần phải đạt được Nhất tướng tam muội và Nhất hạnh tam muội. Nếu ở tất cả chổ mà không trụ tướng, ở trong tướng ấy chẳng sanh thương ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ đến sự lợi ích, thành hoại v. v…, an nhàn, điềm tĩnh, rỗng rang đạm bạc, đó gọi là Nhất tướng tam muội. Nếu tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm thuần nhất trực tâm, chẳng động đạo tràng liền thành Tịnh độ, đó gọi là Nhất hạng tam muội.
Tăng hỏi Thiền sư Bá Trượng:
- Thế nào là pháp yếu Ðại thừa đốn ngộ?
Sư đáp:
- Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát.
Ðối với tất cả cảnh, tâm không loạn không tịnh, không nhiếp, không tán, vượt qua tất cả thanh sắc, không có vướng mắc, gọi đó là Ðạo nhân.
Lại bảo: Luận về người học đạo, nếu gặp các thứ khổ vui, vừa lòng hay trái ý, tâm vẫn không lui sụt, chẳng màng tới danh tiếng, lợi dưỡng, áo cơm, chẳng ham công đức lợi ích, chẳng bị pháp thế gian làm vướng bận, không thân, không ái, khổ vui chẳng bận lòng, áo xấu che thân, cơm hẩm đỡ dạ, ngây ngây như ngu như điếc, mới có chút phần tương ưng. Nếu ở trong tâm học nhiều tri giải, cầu phước, cầu trí đều là sanh tử, đối với lý nào có ích gì? Trái lại, bị gió tri giải thổi trôi vào trong biển sanh tử.
Lại nói: Ba thừa giáo dùng để trị các bệnh tham, sân… Nay đây, niệm niệm nếu có các bệnh tham, sân … thì trước tiên cần phải trị nó mà chẳng cần tìm cầu nghĩa cú, tri giải; tri giải thuộc về tham, tham biến thành bệnh. Nay chỉ cần lìa tất cả các pháp có, không, cũng lìa cả cái lìa, thấu qua ba câu thì tự nhiên cùng Phật không khác, đã tự là Phật, lo gì Phật không biết thuyết pháp! chỉ e chẳng phải Phật nên bị các pháp có, không ràng buộc chẳng được tự do, vì lý chưa lập mà trước đã có phước trí, bị phước trí lôi đi như kẻ hèn sai khiến người sang; chẳng bằng trước lập lý rồi sau hãy có phước trí.

Hội Nguyên

Mã Ðại sư nói:
Ðạo chẳng cần tu, chỉ cần đừng ô nhiễm. Cái gì là ô nhiễm? Hễ có tâm sanh tử, tạo tác, hướng về đều là ô nhiễm. Nếu muốn lãnh hội ngay đạo nầy thì tâm bình thường là đạo. Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh. Kinh nói "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Hiền Thánh, ấy là hạnh Bồ Tát". Nay chỉ cần đi đứng ngồi nằm ứng cơ nhiếp vật thảy đều là đạo.

Truyền Ðăng Lục

Hòa thượng Hoàng Bá dạy:
Nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều chẳng cần học, chỉ cần học sự không mong cầu, không dính mắc. Tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não chỉ là môn giáo hóa nhiếp dẫn.
Lại bảo: Chỉ cần tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo thêm nghiệp mới nữa.
Hòa thượng Ðức Sơn thượng đường dạy:
Nếu ở nơi mình vô sự thì chớ có vọng cầu, vọng cầu mà được thì cũng chẳng phải được. Ông chỉ vô sự ở nơi tâm, vô tâm ở nơi sự thì rỗng mà linh, không mà diệu. Nếu trên đầu lông cho nói gốc ngọn đều là tự dối. Sao vậy? Vì một mảy may hệ niệm là nghiệp nhân của tam đồ, chớp mắt tình sanh là gong xiềng muôn kiếp. Danh thánh, hiệu phàm đều là tiếng rỗng, tướng đẹp hình xấu đều là sắc huyễn, ông muốn cầu nó mà được không hệ lụy chăng! Hay chán nó để thành ra họa lớn? Rốt cuộc chỉ vô ích mà thôi.

Hội Nguyên

Hòa thượng Lâm Tế nói:
Ðã khởi niệm rồi chớ nối tiếp, chưa khởi niệm thì chẳng nên khởi, còn quý hơn ông mười năm hành cước.
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Chỉ cần một niệm không sanh, để cho thong thả; vừa có thị phi, thị ngã, đắc thất chớ đi theo nó; ấy là suốt ngày lẫn đêm đích thân tham học với thiện tri thức chân chánh của nhà mình, lo gì việc nầy chẳng xong! Cần nhất là phải tự khán .
Tâm Yếu
Hòa tượng Tuyết Ðường Hạnh nói:
Ta thường nói cới các huynh đệ là chẳng cần leo lên cơ cảnh khác. Cái gì gọi là cơ cảnh? Phật là cơ cảnh, pháp là cơ cảnh huống chi các việc văn chương tạp nhạp ư? Nếu giữ được nhàn nhàn thì tự nhiên rỗng mà linh, lặng mà diệu, như trái bầu thả trên mặt nước thênh thênh không bị ràng buộc, đụng đến liền động chuyển, thật là đại tự tại vậy.

Thập Di Lục

Hòa thượng Lại An dạy chúng:
Các ông đến An nầy tìm cầu cái gì? Nếu muốn làm Phật thì các ông tự là Phật, lại trốn nhà bỏ đi như hươu khát nước đuổi theo bóng nắng thì đến lúc nào mới được tương ưng? Các ông muốn làm Phật, chỉ cần không có các thứ tâm chúng sanh điên đảo phan duyên, vọng tưởng ác giác, dục vọng bẩn thỉu thì đó là tâm chánh giác Phật đầu tiên của ông, còn phải hướng đến chỗ nào nữa mà tìm !




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3843)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3128)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2942)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2779)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3215)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2614)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4169)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3195)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3323)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]