Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3. Xuyên Âu Châu

11/06/201316:19(Xem: 2166)
Chương 3. Xuyên Âu Châu

TRÚ QUÁN QUA ĐÊM
(Từ có nhà đến không nhà)
Tự Truyện của một Tăng Sĩ Hoa Kỳ

[Bản điện tử lần thứ ba với tu chính]

Tỳ kheo Yogagivacara Rahula
(Bhavana Society, 2005 )
Chơn Quán dịch Việt

Chương 3

XUYÊN ÂU CHÂU

Như đã tính trước, bốn đứa tụi tôi sẽ lái chiếc xe từ Riverside qua New York giao cho chủ. Ba má tôi và Gail tiển tôi tại lối xe trước cửa nhà. Chúng tôi xiết mạnh vòng tay và hun nhau luyến tiếc. Gail khóc. Sau đó chúng tôi lên xe, chiếc Buick có máy lạnh, ra lộ xuyên bang số 10, chạy ngang sa mạc Nam California. Thằng bạn bán xì ke tặng cho bốn đứa tôi một món quà quý--một ounce[28] pot loại tốt và một gram cocaine để giúp tạo thêm nghị lực cho chuyến đi xa. Tụi tôi mất bốn ngày mới tới New York; trên đường tụi tôi thay phiên lái và cùng nhau vui đùa thỏa thích.

Từ New York, tụi tôi bay qua vùng Đất có Mặt Trời Giữa Đêm và đáp xuống Stockholm đúng dịp lễ hội 'giữa hè' vào ngày 21 tháng Sáu, cũng là sinh nhựt của tôi. Lúc sắp hàng qua quan thuế, tôi rất bồn chồn vì các tép LSD dấu dưới đáy cái xách tôi mang trên vai. Bụng tôi đánh lô tô[29] khi thấy vài người đi trước tôi bị giữ lại để khám kỹ, nhưng tôi cố làm tỉnh. Tới lượt tôi, nhân viên quan thuế nhìn tôi, xem thông hành tôi rồi hỏi tôi có bao nhiêu tiền, định ở lại Thụy Điển bao lâu và yêu cầu tôi xuất trình vé lượt về. Tôi đưa ông xem năm trăm đô la bằng chi phiếu du khách và nói tôi dự tính ở Thụy Điển hai tuần. Ông có vẻ vừa ý, khoác tay cho tôi qua và chúc tôi vui vẻ. Fred đi sau tôi bị giữ lại và bị xét rất lâu. May là nó không có tép thuốc nào trong lưng hết. Một phút trớ trêu bắt đầu chuỗi thời gian ngông nghênh sắp tới!

Chuyện đầu tiên tôi phải làm là tìm tên Thụy Điển chịu mua các tép xì ke cam sáng của tôi. Tôi muốn tống nó đi cho khỏe thân vì tôi đang như ngồi trên đống chất nổ. Nhờ có địa chỉ nên tôi không mất nhiều thì giờ tìm hắn. Hắn ta đang ở chung với cô bồ cũng hippi như hắn. Hai người làm nữ trang để bán dạo ngoài phố. Hắn sáng mắt khi thấy các tép cam sáng tôi đem tới, Hắn muốn mua một ngàn tép và chịu trả một ngàn đô la hay số tiền cu ron tương tương. Thuốc cam sáng thứ tốt có thể bán tới mười đô la một tép vì quý hiếm ở Stockholm. Không có tiền sẵn, hắn yêu cầu tôi đợi vài ba hôm để hắn xoay sở với bọn ghiền của hắn. Tôi đồng ý đưa hắn một ngàn tép để hắn cất trong tủ lạnh và bán lần lần. Tôi hơi ngây ngô khi tin hắn, nhưng tôi không có chỗ cất và không thể mang tất cả kè kè bên mình. Còn chín trăm tép cũng là nhiều cho tôi bán dọc đường rồi. Bốn đứa tụi tôi định làm một vòng Thụy Điển-Na Uy-Thụy Điển trong một tuần, bằng cách có giang xe lên Sundswall, băng qua Na Uy xem một ít fjord[30] nổi tiếng của xứ này, xuống Oslo, rồi trở về Stockholm. Trước khi lên đường tụi tôi nhờ thằng Thụy Điển đưa đi mua mười gram lá hash. Để dễ có giang tụi tôi chia làm hai nhóm, tôi đi với Fred còn Barry đi với Rick. Không ngờ hai nhóm tụi tôi không có dịp gặp lại nhau cho đến khi về lại Stockholm một tuần sau đó theo chương trình đã được đồng ý trước.

Mưa tầm tã trọn một tuần nhưng tôi và Fred vẫn tiếp tục chương trình hoạch định, cứ dầm mưa xin quá giang. Về đêm thì ngủ hoặc trong trang trại hoặc ở chỗ nào có thể ngủ được dọc theo đường. Đêm nọ, sau một ngày dan mưa, tụi tôi lủi vô trú trong một chuồng bò sau nhà một nông dân. Bò không bị quấy rầy sẵn sàng yên giấc với tụi tôi. Một đỗi sau bác nông dân ra thăm chừng bò, kinh ngạc gặp bốn đứa tôi. Tôi nghĩ bác sẽ giận dữ tống cổ tụi tôi ra. Nhưng không, bác cười thân mật, xí xô xí xào và ra dấu (bác không biết tiếng Anh) biểu tụi tôi vô nhà bác ngủ cho ấm. Tôi và Fred không ngại mùi cứt bò, rất vừa ý với nệm rơm sẵn có và đang muốn hút một mẻ hash để kết thúc ngày dài vừa qua nên chần chờ. Bác vừa bịt mũi vừa chỉ bò ra dấu bắt tụi tôi phải vô nhà. Tụi tôi xin đồng ý để bác vui.

Bác gái còn vui hơn khi thấy bác trai dẫn tụi tôi vô nhà. Bà liền hâm cho mỗi đứa một tô súp, cắt cho mỗi đứa một góc bánh pie nhà nướng và rót cho mỗi đứa một ly sữa tươi. Tụi tôi cám ơn bà rối rít rồi ăn uống ngấu nghiến. Sau đó bà đưa tụi tôi vô ngủ trong phòng trước đây là của con bà. Mền lông dầy giúp tụi tôi quên đi cơn mưa lạnh đêm nay. Sáng dậy, tụi tôi được cho ăn điểm tâm với trứng luộc, bánh mì, bơ tươi và phó mát nhà làm. Trong chuyến đi tuần này tôi và Fred gặp nhiều dịp hên, được bà con giúp đỡ rất nhiệt tình. Quang cảnh Na Uy thật hùng vĩ; fjord và làng đánh cá xem như tranh in trên bưu thiếp. Thêm vào, ngày hè dài 24 tiếng trên cực Bắc nên tụi tôi có thể thưởng lãm thiên nhiên liên tục nếu không muốn dừng chơn ngơi nghỉ.

Trở về Stockholm, tôi và Fred đi thẳng tới nhà của đôi bạn Thụy Điển. Tụi tôi sửng sờ khi nghe cô nàng cho biết anh chàng đã vô tù. Bằng giọng thiếu bình tỉnh và hấp tấp cô kể tụi tôi nghe câu chuyện cảnh sát vồ anh lúc anh bán LSD ngoài công trường thành phố, nơi tụ tập của hippi và du khách. Rồi phòng anh bị khám xét. Lúc thấy lính tới cô hoảng quá bèn tống hết các tép còn lại xuống cầu và dội nước. Cô khuyên tụi tôi mau rời khỏi chỗ này vì lính có thể còn đang theo dõi. Tôi bị sốc và chưa biết tính sao. Tuy nhiên vì an toàn, tôi phải đi ngay. Tôi liền băng qua đường vô công viên nhỏ gần đó tìm chỗ chôn các tép thuốc còn lại. Tôi cẩn thận làm dấu chỗ chôn. Xong, tôi và Fred xuống công trường nơi anh bạn Thụy Điển bị lính tóm. Tình cờ tụi tôi gặp lại Barry và Rick. Tất cả ngồi xuống bực thang gần đó để nghỉ và bàn về chuyện đã xảy ra. Lúc ấy tôi thấy ai như anh chàng Thụy Điển đó đi trên cầu vượt ngang công trường. Có lẽ anh thấy tôi nhìn nên lật đật lẫn mất. Tôi vụt chạy theo nhưng vô ích vì người qua lại đông quá. Tôi nghĩ ra rằng cô nàng kia đã nói láo. Tôi bèn gọi sở cảnh sát hỏi và được trả lời không có ai tên như anh trong tù hết. Tôi biết ngay rằng mình bị gạt một cách ngang nhiên rồi. Tôi hoang mang nhưng không thể kêu cứu vì chẳn lẽ nhờ mã tà bắt bọn cướp cạn LSD của tôi để 'lạy ông tôi ở bụi này' sao. Tôi không dám dính dáng với công lực. Fred và tôi căm lắm nhưng chẳng biết phải làm gì giữa thành đô điên loạn này.

Barry và Rick kể lại những vui buồn trong chuyến phiêu lưu vừa qua của hai đứa. Tôi kể chuyện bị gạt, Barry nghe nổi nóng đòi đi đập tụi lưu manh, tôi can vì tôi kể như mình bị mất và định quên hết để tiếp tục xuôi Nam. Chiều lại, tụi tôi gặp Jim, thằng bạn cùng ở Riverside vừa từ Los Angeles tới. Jim được công ty du lịch của nó đưa qua Âu Châu viếng một số đô thị để chuẩn bị đưa khách sang. Chuyến đi của nó nửa công nửa tư nên bị giới hạn nhiều về thời gian. Thêm Jim, nhóm Riverside có tới năm mạng. Nhóm định đi Copenhagen sáng mai vì không còn hứng thú ở lại Stockholm, một thành phố đắt đỏ (khó kiếm nhà trọ rẻ tiền), với dân (theo tôi) lạnh lùng lẫn rỗng tuếch, và bợm say nhan nhản ngoài đường cũng như trong hầm xe điện ngầm. Riêng tôi bị cướp cạn giữa ban ngày nên không có chút cảm tình nào với thủ đô này hết. Trước khi đi, tôi trở lại công viên đào lấy các tép LSD dấu hôm trước. Và để hiểu thêm chuyện mình bị lừa, tôi đi qua nhà cặp xỏ lá Thụy Điển, để bị thất vọng thêm vì đứng gỏ cửa hoài mà không ai mở nên bực mình bỏ ra về. Bị vố ấy, tôi hết mơ mua mô tô. Tôi phải tự bằng lòng với gì mình đang có, tìm cách bán lẻ chín trăm tép cam sáng và đi du lịch bằng phương tiện địa phương hay bằng lối có giang xe.

Tối, năm đứa tôi ra ngoại ô tìm chỗ ngủ ngoài trời. Tụi tôi dừng lại nơi sân cỏ trong khu nhà cao từng, trải nóp ra nằm. Thấy dân bụi đời, một ít thanh thiếu niên trong khu ra gạ mua LSD. Chúng là bọn con nhà trung lưu thừa tiền nhưng thiếu vui. Tôi ra giá mười lăm đô một tép để bù lại số bị giựt. Chúng móc túi trả tiền tỉnh khô cho năm tép rồi chạy dông vô nhà gần đây. Năm đứa tôi vừa cười chúng vừa hút chillum và thưởng thức một đêm ngoài trời ấm áp thú vị.

Barry, Rick và Jim lấy xe lửa xuống Copenhagen còn tôi và Fred chọn cách có giang xe. Tôi thích có giang vì ham phiêu lưu và muốn có cơ hội gặp bà con địa phương cũng như học hỏi về nơi mình đã đi qua. Có giang cũng là cách du lịch rẻ tiền, nhứt là ở Âu Châu và đặc biệt ở Bắc Âu. Tụi tôi đến Copenhagen gặp lại Barry và Jim ở điểm hẹn sau hai ngày quá giang bằng nhiều thứ xe. Barry cho tôi và Fred biết Rick có lẽ nhớ nhà nên đã bỏ cuộc và trở lên Stockhom lấy máy bay về Mỹ. Hai đứa tôi rất ngạc nhiên. Bốn đứa tụi tôi ở lại đây vài ngày để vui với sinh hoạt hè. Tôi nhớ mùa Đông năm 1968 lúc tôi dù lên đây. Mùa hè này trở lại tôi cảm thấy khác biệt lạ thường. Phải chăng vì bây giờ tôi là con người tự do có pha trộn chút vị ngon lành của "flower children[31]."

Vùng ngoại ô có nguyên một thành phố lều dựng lên đón dân hippi đi tứ xứ Đông Nam Tây Bắc.. Tụi tôi ngủ lại đây và có dịp nói chuyện với nhiều người. Được biết cuối tuần tới sẽ khai mạc đại nhạc hội rock ngoài Copenhagen. Nhạc hội và lễ hội là những dịp tốt để tiêu thụ ma túy. Barry muốn đến đó để bán bớt hai ngàn tép của nó. Tụi tôi tin rằng sẽ bán được nhiều với giá mắc và sẽ lấy lại cả vốn lẫn lời khẳm.

Ở Copenhagen có nhiều chỗ cho mướn xe đạp vì xe đạp là phương tiện di chuyển mà dân địa phương cũng như du khách rất thích. Xe cho mướn thường cũ kỹ, có vỏ mòn, và chỉ gắn một thắng. Tôi mướn một chiếc chạy quanh thành phố. Tôi nảy ra ý định mướn dài hạn để đạp đi Amsterdam, đạp thong thả chừng mươi ngày chắc cũng tới nơi. Như vậy tôi sẽ thấy được đồng trại và làng mạc kỳ thú của Đan Mạch và Hòa Lan. Hai xứ này có địa hình phẳng phiu nên chắc dễ đạp. Tôi quyết định thực hiện ý mình trong lúc ba bạn tôi chọn xe lửa cho có tiện nghi. Tôi đi mướn xe đạp. Không có chỗ nào cho mướn một vòng và không ai chịu cho đem xe ra khỏi xứ. Tôi có cách. Được biết ở Đan Mạch mướn xe không phải đăng ký hay dằn cọc vì chủ xe tin người mướn chơn thật và nhứt là vì xe cũ cà tàng không ai thèm lấy làm gì. Vậy thì tôi mướn một tháng, trước để đạp ra Roskilde dự nhạc hội rồi sau đó đạp luôn qua Amsterdam. Tiền mướn một tháng, tôi tính, sẽ còn nhiều hơn tiền mua chiếc xe đạp đầm cũ sét có cặp vỏ lán o mà tôi đã nhắm. Bây giờ ngồi ngẫm lại, tôi nhận ra đó là một ví dụ điển hình của cái tâm và cái tôi xão quyệt đã dựng lên cái ý niệm cho là hữu lý để làm chuyện trái luân thường.

Ngày khai mạc lễ hội, tôi mướn xe, chất túi đeo vai lên bọt-ba-ga sau, ràng kỹ, rồi đạp hai mươi dặm ra dự. Barry, Fred và Jim lấy xe lửa tới. Tụi tôi gặp nhau lại ngoài ga của thành phố nhỏ Roskilde. Cùng đến có cả mấy trăm người trẩy hội, hầu hết thuộc giới trẻ. Tôi khóa xe vô rào ngoài khu lễ hội. Rồi bốn đứa vô tìm chỗ. Tụi tôi chiếm được một ô sau cái quầy nhìn thẳng lên sân khấu, cắm dùi ở đó liền tù tì trọn hai ngày đại hội. Nhạc đã bắt đầu. Bà con kẻ nhún nhảy người âm thầm hút chillum; một số khác đùa nghịch trong hồ bơi dã chiến mà ban tổ chức dựng lên để giúp khách tạm quên đi phần nào cái nóng rang của mùa hè. Nhiều cô cởi trần đi nghễu nghến. Hội không có cảnh sát kiểm soát nên tha hồ buôn bán và hút hít ma túy. Tôi viết tấm bảng "California sunshine orange" và cắm trước chỗ đang ngồi để chào hàng. Trong vòng mười phút tôi bán được năm tép giá năm đô mỗi tép. Sau hai tiếng tôi và Barry mỗi đứa bán hơn năm mươi tép. Và đến cuối tuần tụi tôi bán trên năm trăm tép. Tụi tôi cũng có thí một ít cho mấy thằng cô hồn ghiền mà không có tiền mua. Và tụi tôi cũng xài một mớ để rung cảm với nhạc điệu đang lên của cái không khí hoang dã và loạn cuồng đang diễn ra ở đây. Tụi tôi có mua thêm hai mươi gram hash để theo cho kịp cuộc đua đường trường hút chillum và cũng để phát không cho ông đi qua bà đi lại. Ôi vui thiệt là vui và mọi việc đều trôi chảy êm xuôi. Tôi rất thỏa dạ vì tôi đã thu lại vốn rồi mà còn lời những năm trăm tép, chưa kể số bị cướp cạn.

Trên đường đi Amsterdam, tôi ung dung đạp và đạp được những sáu bảy chục cây số mỗi ngày, dầu rằng cái xe thuộc loại cà tàng. Tôi thường phê và vui đậm với cảnh vật chung quanh. Tôi quên hết mọi việc kể cả xe cộ đi qua. Đến khoảng 6:00 giờ chiều tôi mới để ý tìm chỗ nghỉ đêm, có thể là một cụm cây bên lề, khu picnic dựa hồ, công viên làng, hay trang trại của nông dân. Tôi có ghé qua Isle of Sylt, một ốc đảo của giới khỏa thân Bắc Âu, ở hai ngày mong có dịp lấy lại cái sạm nắng California. Rất tiếc trời mù mịt và lạnh liên miên. Tuy nhiên cũng có khối dân Đan Mạch và Đức đến chơi. Họ nằm trần như nhộng trên ghế bật, dưới bóng dù cản tia hồng ngoại dầu mây đã che kín mặt trời. Không có nắng để phơi, tôi vô một chòi nhỏ nằm cho yên tĩnh. Chòi làm bằng cành cây khô và giấy bồi dựng dưới bãi. Tôi dấu xe sau bụi rậm, mở xách và xây ổ nằm thoải mái. Chập sau một đám trẻ con tới. Chúng ngạc nhiên thấy tôi chiếm chòi mà chúng đã bỏ công cất để chơi riêng trong những ngày dự trại hè thiếu niên. Tuy nhiên chúng vui vẻ theo nói chuyện để luyện Anh văn khi biết tôi là người Cờ Hoa chánh cống. Tối lại chúng còn đem cho tôi một ít thức ăn của trại.

Nghe bọn trẻ báo lại, cô giáo của chúng đến xem cho rõ thiệt hư. Cô trạc 20, có dáng điệu nội trợ. Cô không rành tiếng Anh nhưng cứ theo hỏi hết chuyện này tới chuyện khác. Tôi có cảm tưởng cô đang thiếu tình yêu. Cô trở lại tìm tôi lúc tối khi trẻ con đi ngủ. Hai tụi tôi đứa thì khát khao đứa lại sẵn sàng nên không thể chờ lâu. Chúng tôi lăn ra làm tình say sưa ngay trên cát và cả hai đều thỏa mãn như ý. Sáng, một em bưng cho tôi ít thức điểm tâm còn thừa của trại, bữa điểm tâm do người tình ngang xương gởi tới. Thấy trời cứ mù mù hoài tôi nhổ neo lên đường sợ cô giáo người tình đến thăm nữa. Làm vậy tôi khỏi phải bâng khuâng vì lời tạm biệt hay khó nghĩ với yêu cầu 'xin viết cho tôi.' Tôi muốn chuồn êm như lúc tôi đến.

Sau nhiều ngày đi qua vùng Bắc của hai nước Đức và Hòa Lan, tôi đạp tới bờ đê nhơn tạo, dài và lớn nhứt của xứ hoa tu líp, và vui mừng biết sắp đến Amsterdam. Bấy giờ tôi mệt nhoài và ngán các đoạn đường đất tới tận cổ, nhưng chiếc xe đạp cũ khả kính kia chưa thấy sao, tôi thiệt tình phục nó sát đất. Tôi gặp lại Barry và Fred ít giờ sau khi tới nơi hẹn, Vondel Park. Không có Jim vì nó phải tách ra đi công việc cho hảng. Vườn Vondel là nơi tụ tập quen thuộc của bọn hippi đi rong. Thành phố cho phép họ cắm trại tại đây bởi thiếu nhà trọ rẻ tiền. Vườn có chỗ gởi hành lý và một câu lạc bộ bán thức ăn uống; nhạc và ma túy cũng có luôn. Tôi dựng xe dựa gốc cây cho ai cần cứ lấy đạp, nhập bọn với Barry và Fred, và cắm lều dưới một tàng cây lớn bên bờ con kinh. Có nhiều nhóm nhỏ như nhóm tụi tôi sống rải rác trong khuông viên rộng. Các nhóm thường đi làm quen với nhau để trao đổi tin tức hay kể cho nhau nghe những phiêu lưu của mình.

Tôi và Barry có dịp bán số orange sunshine còn lại, bán chạy như tôm tươi. Nhờ vào tiền kiếm được tôi khỏi phải rớ tới số chi phiếu năm trăm đô. Đã vậy tôi còn dư một số nữa. Để an ủi nỗi dầy vò ăn lời quá trớn, tôi phát không một ít cho bọn ghiền 'ca bài con cá' tại sao chúng không có tiền mua. Một lần nọ, nhơn dịp có nhạc miễn phí trong công viên, tôi tán nhuyển và thí những hai chục tép. Tôi rất vui khi thấy dân hippi phê trong những buổi chiều đầy nắng ấm và đầy nhạc vang vang. Phần tôi, hippi cũng không thua ai vì tóc vàng tôi đã dài tới vai và râu hun tôi ra rậm ri.

Ở đây tôi bắt đầu giở sách 'The Teaching of Don Juan[32]' ra đọc, cuốn sách mà tôi đổi bằng một liều acít. Sách kể chuyện của tác giả Carlos Castenada với thuốc peyote[33] và nhiều thứ cây thuốc gây ảo tưởng khác. Don Juan, nhà phù thủy Mễ Tây Cơ, dạy cho Carlos cách dùng chất gây ảo giác để khám phá bí mật của tâm và phát huy quyền năng tâm thần hầu đạt giác ngộ. Tác giả là một sinh viên nhân chủng học của Đại Học UCLA[34]. Anh thọ giáo thầy Don Juan và thu thập được nhiều kinh nghiệm ngộ nghĩnh quý báu mà anh thuật lại trong sách. Tôi thích sách vì câu chuyện chớ lúc bấy giờ tôi chưa hề biết gì về các chuyển biến của tâm linh. Tôi có thử peyote và một ít thứ nấm quỷ thuật khác nhưng chỉ để phê hơn là để khám phá tâm. Tôi chỉ học hỏi được thêm sau khi đọc tiếp sách của cùng tác giả.

Vào một ngày chủ nhựt nắng ấm nọ, có một nhóm Krishna đông tới công viên. Tôi có nghe nói về nhóm Tinh Thần Krishna từng gây tranh luận sôi nổi này, nhưng chưa bao giờ được gặp mặt. Và qua lớp tôn giáo thế giới lấy ở Đại Học Cộng Đồng Riverside, tôi biết Krishna là vị thần Hindu mà tín đồ rất sùng bái và nguyện cầu bằng cách xướng tên ngài, 'Hare Krishna, Hare Rama'. Guru[35] tinh thần Hare Krishna được kiệu tới và đặt trên bục dành riêng cho ngài. Ngài là một cụ già ốm yếu, mặc áo dài vàng. Trán ngài điểm nhiều chấm màu. Ngài có nhiều thầy và rất đông tín đồ hộ giá. Hầu hết đều mặc áo vàng và cũng có chấm màu trên trán. Đầu họ cạo trọc chỉ chừa chùm tóc đuôi ngựa nhỏ sau ót. Lần đầu tiên đứng gần họ và nhìn thấy họ tận mắt, tôi hơi là lạ.

Sau khi được giới thiệu, nhóm bắt đầu đọc chú Đại Hare Krishna theo nhịp trống, chập chõa và vũ điệu của tín đồ. Lúc nhịp điệu lên cao tôi có cảm tưởng như bị cuốn hút theo không khí huyền bí chung. Tôi bắt đầu lẩm nhẩm rồi lần lần đọc ra tiếng các câu chú. Sau lối mười lăm phút, tôi và đám đông đều như bị nhập tâm và có cùng một chu kỳ tâm linh. Hầu hết uốn mình nhảy nhót chung với các thầy và tín đồ Krishna. Tôi cảm thấy lâng lâng lên chín từng mây xanh. Tôi có nghe nói tới ảnh hưởng mê hồn của lối đọc chú này nhưng không biết ma túy hay lời chú đã đưa tôi lên cao, bởi trước đó tôi có nuốt nửa tép cam sáng và hút nhiều chillum. Tiếp theo, các thầy và tín đồ xuống đám đông phát 'prasad', một thứ bánh ngọt hình viên tròn nhỏ, để chúc phúc, hạnh phúc ban bố từ chính Đấng Krishna. Bánh ăn ngon.

Ít hôm sau tôi tìm đến đền Hare Krishna gần công viên. Được nghe nói rằng ai viếng đền lúc ngọ trai đều được mời ăn bữa cơm trưa Ấn Độ cổ truyền. Tôi đến lúc trước trai thời. Tôi thấy họ đang đọc kinh. Đền thờ có nhiều tranh và tượng của Krishna cùng nhiều thần linh Ấn Độ khác. Tôi ghé xem vì tò mò hơn là vì sùng kính. Tuy nhiên tôi yên lặng tôn trọng mọi nghi thức trong lúc chờ cơm. Trước lúc cáo lui, tôi ngạc nhiên nghe vài thầy và tín đồ cải nhau về nhiệm vụ được giao phó vì tôi đinh ninh rằng các bậc tu hành ấy không thể bôi mặt đá nhau trước mặt khách thập phương. Tôi ra về mà lòng chưa thanh thỏa và không mấy thiết tha với lối tìm Giải Thoát như tôi vừa thấy lúc bấy giờ.

Trong số người tôi gặp ở công viên, có một cậu người Mỹ chỉ tôi chỗ của một đảo nhỏ tên Gomera trong quần đảo Canary Islands. Anh có ở đó rồi và cho biết đảo có đời sống rẻ nhưng là nơi thoát phàm lý tưởng vì còn trinh nguyên. Nhóm nhỏ tụi tôi vui mừng tiếp tục chương hai của cuộc phiêu lưu tự do--mùa Đông ở Canary Islands. Thiệt ra cũng là lúc nghĩ tới việc theo nắng ấm xuống miền Nam vì hè trên vùng Bắc Âu Châu sắp chấm dứt.

Không hiểu vì sao tôi lại muốn rủ Gail qua Amsterdam để cùng quá giang xe đi với tôi xuống Tây Ban Nha và Canary Islands. Có lẽ tôi có đủ tiền trả cho cô nàng cái vé khứ hồi và muốn cô nàng có cùng kinh nghiệm du lịch xuyên Âu Châu và sống ở Canary Islands trong mùa Đông sắp tới. Tôi không có ý định đưa nàng qua Ấn vì sợ nàng bỏ con lâu quá. Ngoài ra, hình như tôi đang thiếu bàn tay mềm dịu của người đàn bà và tình tri kỷ của một bạn đường như tôi đã từng được Terri dành cho trong kỳ hè vừa qua. Sau khi suy nghĩ kỹ tôi gọi Gail từ Amsterdam. Nàng hết sức vui mừng và nói sẽ xin thôi việc ở Sears ngay để đi càng sớm càng hay. Nàng cho biết có thể gởi con cho ngoại ba-bốn tháng và đang có vài trăm đô la trong quỹ tiết kiệm nên tôi chỉ gởi về năm trăm đô nữa là nàng có thể mua vé khứ hồi đi từ Los Angeles.

Barry và Fred định mua chiếc xe con bọ VW[36], láí xuống Cadiz, bán xe, rồi lấy tàu qua Canary Islands. Gail và tôi sẽ gặp tụi nó ở Cadiz và cùng nhau làm một chuyến du lịch bằng tàu..

Sau khi hai thằng bạn tôi đi, tôi ở lại công viên hai tuần tiếp tục bán acít. Tôi cố đào ra tiền càng nhiều càng tốt để trả cho chuyến đi của tôi và Gail. Lúc bấy giờ tôi gặp khá nhiều du khách trở về từ Ấn Độ. Tôi hỏi thăm cách xin chiếu khán, phương tiện rẻ tiền, chỗ nên đến hay nên tránh, nơi có thể mua thuốc tốt, vân vân. Ngần ấy giúp tôi hăng hái đi về phương Đông sau khi chuyến đi Canary Islands kết thúc vào mùa xuân tới.

Gail đến đúng giờ. Tôi rước nàng về công viên và lưu lại đó hai ngày trước khi xuống miền Nam. Nàng cho tôi biết nàng bị tổn thương nặng nề khi tôi rứt áo ra đi, cho nên giờ đây nàng không còn hứng thú ái ân với tôi nữa mà chỉ muốn làm bạn đường đi du lịch. Tôi ngạc nhiên về lời nói phũ phàng nhưng thành thật của nàng và nhận thấy nàng có thay đổi thiệt. Tôi thiếu đàn bà trong hai tháng dài và đang mong đợi Gail cho tôi những phút tùng phục thần tiên như trước đây. Nhưng trong đêm đầu với nhau tôi bị nàng lạnh lùng cự tuyệt. Tình tôi với nàng không còn nguyên vẹn nữa vì lời qua tiếng lại, ý nghĩ không hay và đau khổ. Tất cả tại tôi mong cầu quá trớn, gắn bó quá đậm và không chịu mở mắt nhìn nhận sự tự chủ và đổi thay nơi nàng!

Tôi và Gail mất một tuần quá giang xe đi từ Amsterdam đến Barcelona. Hai chúng tôi dừng đây hai ngày để lấy lại sức. Chúng tôi ăn hải sản, uống sangria[37] trong những quán bên lề đường. Nhiều lần tôi muốn làm tình nhưng nàng khăng khăng từ chối. Sau cùng nàng chìu lòng tôi nhưng dị biệt giữa chúng tôi vẫn còn nên chẳng ai hứng thú gì.

Lật đật xuống Cadiz, chúng tôi lấy xe lửa đi. Trên đường, chúng tôi có tạt qua Granada để xem Alhambra. Ở Cadiz, chúng tôi ra bến tàu hỏi chuyến đi Las Palmas và gặp lại Barry với Fred. Hai đứa tụi nó vui mừng lắm. Tụi nó đã mua vé rồi, đi chuyến ngày mai, và mong tụi tôi có thể cùng đi một lượt. Rất may, tàu còn chỗ. Cùng đi với Barry là cô nàng người Mỹ tên Penny gặp ở Paris lúc nó ghé ở vài hôm. Một tuần đợi tôi ở Cadiz, Barry và Fred có làm quen với một số thủy thủ Mỹ. Họ mua lại chiếc VW và cho tụi nó trọ với họ ở nhà riêng ngoài trại. Ráp lại, nhóm kéo nhau về nhà trọ mở tiệc hội ngộ và cũng để mừng nhóm Riverside có thêm Gail với Penny. Tất cả nhậu vang, hút hash và chơi xả láng.

Tàu thuộc loại đi biển lớn rất tiện nghi. Tụi tôi nằm trên ca-bin có giường ngủ, nơi mà tụi tôi thỉnh thoảng tụ họp để hút chơi. Sau hai ngày lênh đênh tàu vô bến Las Palmas. Hỏi ra biết hai ngày nữa mới có đò qua đảo Gomera, tụi tôi đi quanh đảo Gran Canaria để giết thì giờ. Nghe nói có trại bên kia đảo, cả đám kéo lên xe buýt đi qua. Tụi tôi dựng lều chung với nhiều du khách khác trong khu trại rộng và nghỉ lại đây trong đêm đầu tiên để ăn mừng đã đến Canary Islands.

Đò liên lạc với các đảo trong vùng ghé tại cầu cảng chính San Sebastian vào lúc trưa. Tụi tôi xuống đi qua Gomera, rồi từ đó lấy buýt về Valle Gran Rey, một làng nhỏ bên bờ đối diện với Gomera. Chỉ có một xe buýt duy nhứt nên tụi tôi phải chờ hai tiếng, đợi xe trở về. Xe chạy theo đường khúc khuỷu đồi dốc qua nhiều làng nhỏ đang say ngủ, nhiều ruộng từng trên cao, đồi xanh mơn mởn, và rừng già trên đỉnh đảo trước khi đổ dốc xuống đậu trước tòa hàng chánh trong phố.

Điểm đến của tụi tôi có bờ biển với một dãy nhà, tiệm ăn, quán rượu, và một ít khách sạn nhỏ trải dài chừng một dặm. Có thêm vài nhà cho mướn trong làng và hai nhà cho khách thích ở ẩn nằm xa trên sườn đồi. Chưa tìm được chỗ vừa ý--nhà rộng đủ chứa đám năm người ngay trên bờ biển--tụi tôi cấm lều cạnh bụi rậm trên bãi. Hai ngày sau tụi tôi dọn vô nhà ở gần quán của ông chủ vui tính Marciello, nơi mà tụi tôi đến mỗi đêm để uống bia và say sưa.

Du khách ở đây thường biết nhau hết bởi thung lũng quá hẹp và bờ biển không dài. Lúc tụi tôi đến có chừng hai chục người ngoại quốc thuộc giới trẻ sống từng nhóm nhỏ rải rác. Họ thường mở tiệc và mời qua mời lại hoài. Sau hai tuần với nhau, Penny bất thần khăn gói ra đi, cô trở về Âu Châu vì chán ngấy lối sống ăn nhậu đậm của nhóm đực rựa (Barry, Fred và tôi), và buồn lòng bởi Barry theo o bế các cô khác.

Một tháng sau, tôi cũng đi, dọn ra bìa thung lũng sống một mình. Tôi cần ngưng tiệc tùng cho tâm trí thảnh thơi và rời Gail một thời gian để bình tâm suy nghĩ kỹ về mối liên hệ giữa hai chúng tôi. Tôi mướn nhà của mẹ Marciello trong làng La Vizcaina, bên phía trái của thung lũng, tuốt trên đồi cao. Nhà bà cất cho thuê chưa hoàn tất, nhưng ở được nhờ đã xong một phòng ngủ với nhà tắm riêng và có chỗ làm bếp tạm dầu hơi bê bối. Từ phòng ngủ tôi có thể thấy toàn cảnh rất đẹp của thung lũng tận tới bờ biển cách đó chừng năm dặm và thấy cả mặt trời lặn trên hòn Hierro (đảo nhỏ nhứt của quần đảo Canary Islands) hai mươi dặm ngoài khơi về phía Nam.

Ở phía sau phòng tôi và trên cao một chút, có hai ông bà già Manuel và Henrietta sống rất nghèo nàn, chắc là nghèo nhứt trong làng này. Nhà ông bà là cái chòi đá đơn sơ một phòng với nhiều lỗ hang được trám bằng giấy báo cũ quấn nùi hay bịt cũng bằng báo cũ dán qua loa. Ông bà ở đây từ nhỏ tới bây giờ suốt hơn bảy mươi năm nay. Dầu tuổi đã cao, hằng ngày ông vẫn phải ra đám ruộng từng hay leo dốc lên đồi kiếm sống. Tôi thấy ông còng lưng ôm cỏ về cho dê ăn hoặc vác cây khô về làm củi đốt. Tôi phụ giúp ông mỗi khi gặp dịp và ông thỉnh thoảng mời tôi về nhà ăn tối bằng khoai lang ngọt với súp mở heo. Tôi rất thích thú. Ông bà có thêm con heo nuôi để xẻ thịt ăn trong mùa Đông. Chuồng heo chỉ cách phòng tôi chừng vài thước nên tôi nghe heo kêu ột ột tối ngày tưởng chừng nó có điều gì muốn nói với tôi. Nó còn ngáy rất to nữa chớ. Riết rồi quen, tôi thấy mến con heo và tự đặt cho nó cái tên Petunia. Nhưng chẳng bao lâu Petunia không còn nữa. Tôi buồn lắm. Định mệnh là đó! Mọi chúng sanh, gồm cả con người, luôn bị ngoại cảnh chi phối và là mồi ngon của tham.

Lần hồi tôi quen gần hết bà con trong làng và là bạn thân của nhiều nhà. Tôi thường được mời ăn tối và uống rượu chát. Uống 'rượu chát đồng quê--vino del campo' là thú vui của đàn ông nông dân. Họ khó thể bước chân ra khỏi nhà mà chưa cạn bốn-năm ly. Họ rất anh hùng rởm, nghĩ rằng đàn ông mà không uống nổi cở một lít rượu khi rời bàn tiệc thì không phải là đàn ông. Nhờ xã giao tôi nói được tiếng Tây Ban Nha nên dân làng khoái tôi lắm. Họ thân mật gọi tôi là 'El Rubio', chàng tóc hung, vì một số không phát âm được tên Scott của tôi. Có một ông thích tôi đến đỗi muốn gả con gái và cho tôi luôn cái nhà để tôi ở lại làng này. Đề nghị hấp dẫn nhưng rất tiếc tôi chưa sẵn sàng.

Sau ba tuần xa nhau, tôi muốn mời Gail lên La Viscaina ở chung, hy vọng môi trường mới sẽ giúp hàn gắn mối tình giữa hai chúng tôi. Tôi đã suy nghĩ kỹ và tự hứa sẽ thay đổi tánh chiếm hữu và tham dục của mình, cái tánh mà cô không chịu nổi. Tôi bắt đầu hiểu thế nào là tham lam quá độ và sức mạnh khó lường của nó. Gail chán tôi và trong những tháng qua cô đã gặp nhiều người khác khá hơn. Tôi biết lỗi về mình và cam phận chấp nhận sự đổ vỡ. Nhưng tôi không thể không suy tư và thường đặt vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau.

Cùng lúc, tôi đọc thêm quyển sách thứ nhì của Don Juan, 'A Separate Reality[38].' Sách mô tả ảnh hưởng vi tế của nhiều chất hữu cơ gây ảo giác. Tôi có thử so sánh kinh nghiệm của tác giả với kinh nghiệm tôi thu thập được khi sữ dụng mescaline hay nấm 'huyền diệu,' nhưng không thấy có gì giống nhau hết. Trong lúc tác giả bị phản ứng mạnh, dồn dập cộng với hồi hộp và sợ hãi, tôi có cảm giác thoải mái, an lành, và hạnh phúc với thiên nhiên. Một ví dụ khác. Don Juan đã có lần dùng rể cây cà dược Datura trong thí nghiệm gây ảo giác của ông. Tôi cũng thí nghiệm bằng cách lấy hột của cây cà dược mọc dọc bờ biển Gomera. Người ta nói hột chín đen của Datura nấu nước uống có phản ứng gây ảo giác mạnh. Tôi nấu nước rất đậm để uống thử nhưng cứ tỉnh bơ, trong lúc Fred cảm thấy như đang đi trong mộng và ảo giác đó kéo dài hằng giờ.

Đầu tháng Mười Hai, Barry được thư của em sanh đôi nó là Larry cho biết cậu sẽ bay qua nhập bọn trong hai tuần tới đây. Lúc nó tới tôi có xuống mừng. Thêm Larry, nhóm Riverside vui nhộn hơn bởi nó cũng là một tay thích chè chén, phì phèo và mèo mỡ không thua gì anh nó. Lấy lý do có Larry là bạn học cũ từ lớp 6 đến, tôi xuống chơi thường xuyên hơn.

Một cuốn sách nữa mà tôi được đọc là 'The First and Last Freedom[39]' của đạo sư nổi tiếng Ấn Độ, J. Krishnamurti nói về tâm, chấp trước, tự do tâm linh, thiền, và tỉnh thức. Lần đầu tiên tôi đọc được những kiến thức hay như vậy nên suy tư nhiều. Suy tư rất cần thiết vì tôi vừa trải qua giai đoạn đổ vỡ với Gail và còn trong tình trạng hỗn độn tinh thần với nhiều khó khăn, khổ đau, dục vọng, và chấp trước. Đọc Krishnamurti tôi muốn qua Ấn Độ ngay. Tôi (đã tốn nhiều thì giờ đi lang bang) ở Âu Châu và Canaries lâu rồi nên chân tôi bắt đầu thấy ngứa ngáy. Tôi bèn cùng Barry, Larry và Fred hoạch định chương trình sắp tới, sau khi rời Gomera vào ngày đầu năm.

Tụi tôi tính lấy tàu từ Las Palmas đi El Aiun, thành phố nằm trên bờ biển của Sahara Tây Ban Nha dưới phía Nam Ma Rốc, một vùng sa mạc đang tranh chấp. Đó là phương tiện đến Ma Rốc gần và rẻ nhứt. Còn bay thì quá mắc. Vả lại tụi tôi muốn đi phiêu lưu một phen cho biết con đường sa mạc từ El Auin lên mạn Bắc mà tụi tôi nghe nói nhiều lâu nay. Nhóm Riverside đi hết trừ Gail vì cô không đủ tiền còn tôi thì không thể giúp. Tôi ngưng giúp cô từ khi cô không chịu lên đồi ở với tôi. Tiền cô mang theo chỉ đủ cho cô lấy tàu về Tây Ban Nha và xe lửa lên Amsterdam để bay về Los Angeles bằng vé khứ hồi sẵn có mà thôi. Tôi khuyên cô làm vậy để trở về với con cô như tôi đã bàn với cô lúc trước. Con cô chắc đang trông cô lắm vì cô đi xa lâu quá rồi, lâu hơn dự định. Tôi nghĩ không giúp cô đi Ma Rốc sẽ bắt buộc cô trở về sớm. Lý luận của tôi lúc bấy giờ, sau này nghĩ ra, chỉ là một cách ngầm trả thù vặt cho cái ngã của tôi được chút thỏa mãn!

Sáng hôm Giáng Sinh, tôi lấy hết hai chục tép orange sunshine còn lại cắt đôi và đem theo xuống bãi. Trên đường quanh co qua làng mạc, tôi ghé chúc các du khách bạn "Merry Christmas" và mời họ hút. Ai cũng hoan hỷ nhận. Tôi tiếp tục mời các bạn dưới bãi. Hôm ấy tất cả khách ngoại quốc trong thung lũng tụ tập hết ở bờ biển, nằm ngồi trên bãi cát hay đùa giỡn với sóng nước. Nắng lên sưởi ấm buổi sáng 'thiêng liêng.' Hầu hết đều lâng lâng vui. Một số trong đó có tôi lội ra mỏm đá ngoài khơi tắm nắng hay ngồi ngắm cảnh đẹp chung quanh--trời, biển, núi, đồi, bãi cát, vườn chuối, vân vân. Tôi cảm thấy đến sát thiên nhiên, và trước thiên nhiên cái ngã cũng như tâm hồn vụn vặt của tôi trở nên vô nghĩa và không thật.

Vài người hiếu kỳ theo dõi đám lội ra mỏm đá nói lại rằng tụi tôi trông như một bầy hải cẩu trên đá, thỉnh thoảng nhảy ùm xuống nước cho mát rồi leo trở lên. Tôi cười và đồng ý ngay, biết rằng acít có thể ảnh hưởng nhận xét của con người. Tôi không biết hải cẩu có vui như tụi tôi đang phê vì acít không hay là chúng vui nhờ được thiên nhiên luôn luôn cho phê.

Tối 30 Tết Tây, có tiệc lớn tại nhà của nhóm bạn người Đức. Tiệc cũng để tiễn nhóm Riverside tụi tôi sẽ rời Gomera vào sáng mai. Không cần nói ra ai cũng biết tất cả chủ khách đều nhậu say, hút đã. Đến giờ giao thừa trai gái ôm nhau xà nẹo, chúc nhau 'Happy New Year.' Nhiều cặp lăn ra sàn, hun hít, mân mê, và ... làm tình thả giàn. Có cặp còn đổi bồ nữa. Một màn cụp lạc hết cỡ nói kéo dài tới lúc không ai còn đủ sức chơi nữa mới chấm dứt!

Trưa hôm sau, tụi tôi ra đi, trừ Gail. Gail không muốn ở lại nhưng không nói sẽ đi đâu. Tôi chỉ biết cô sẽ tạm trú với vài bạn mới gặp. Lúc chia tay thiệt buồn. Ramon và Manual mà tôi rất thân buồn nhứt khi thấy tôi leo lên taxi. Họ hỏi "El Rubio" chừng nào trở lại. Tôi cố giải thích cho họ biết tôi phải đi Ấn Độ và có thể sẽ trở lại một ngày nào đó. Antonio đề máy và rồ xe phóng, trong lúc tôi ghi lại trong tâm những kỹ niệm đẹp của thung lũng ngoạn mục này.



[28] Một ounce bằng 28,35 gram (nd).

[29] hồi hộp (nd).

[30] Fjord: cửa sông sâu do băng tạo nên bằng cách mài mòn vách núi đá (nd).

[31] Chỉ đám hippi của thời 1960 dùng hoa làm biểu tượng hòa bình và tình yêu mà họ tôn thờ (nd).

[32] 'Lời Giáo Huấn của Don Juan' (nd).

[33] Thuốc gây ảo giác rút từ một loài xương rồng Lophopora williamsii (nd).

[34] University of California, Los Angeles (nd).

[35] Đạo sư. Bậc thầy lãnh đạo tinh thần của người Hindu (nd).

[36] Chữ tắt của Vokswagen, một hiệu xe Đức (nd).

[37] Một loại rượu pha chế với chát đỏ và nước trái cây (nd).

[38] 'Một Thực Tế Riêng Rẽ' (nd).

[39] 'Sự Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng" (nd).

---o0o---

Nguồn: BuddhaSasana

Trình bày: Vĩnh Thoại

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2021(Xem: 21428)
309. Thiền Sư Thần Nghi (? - 1216) Đời 13, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Huệ Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 309 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 11/11/2021 (07/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/ https://www.facebook.com/quangducwebsite Tu Viện Quảng Đức 85-105 Lynch Road Fawkner, VIC 3060 Australia Tel: 03. 9357 3544; 0481 169 631
09/11/2021(Xem: 19271)
308. Thiền Sư Thường Chiếu (? - 1203) Đời 12, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Cao Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 308 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 0911/2021 (05/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/ https://www.facebook.com/quangducwebsite Tu Viện Quảng Đức 85-105 Lynch Road Fawkner, VIC 3060 Australia Tel: 03. 9357 3544; 0481 169 631
08/11/2021(Xem: 2367)
Mấy em tôi gọi điện thoại qua mét, giọng bực bội: “ Chị nói với Ba. Ổng bệnh vậy mà cứ lén hút thuốc hoài.” Ba tôi đã trên chín mươi và đang bị ung thư gan. Ai cũng nói ung thư gan sẽ đi rất nhanh. Ba tôi đã chuẩn bị tinh thần. Má tôi và chị em tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần cả rồi nhưng ba vẫn kiên cường trụ được hơn ba năm dù lâu lâu phải cấp cứu. Bản thân tôi đã hơn ba lần bay về để tiễn biệt ba. Tụi nó mét tôi vì nghĩ rằng tôi là chị lớn, lại là người cung cấp tài chánh cho ông cụ mấy chục năm nay. Chúng tin là tôi có uy tín với ông nhất. Tôi hỏi lại:” Lén hút là sao?”
06/11/2021(Xem: 8569)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
05/11/2021(Xem: 15780)
307. Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1190), Đời thứ 11, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Cao Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 307 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 06/11/2021 (02/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
04/11/2021(Xem: 2633)
Sau khi lên ngôi không lâu, Tào Phi tìm cách trừ khử mọi mối nguy hiểm với ngai vàng của ông. Trong số đó có em trai ruột – Tào Thực cũng trở thành mục tiêu. Tào Thực nổi tiếng với tài thơ văn xuất chúng hơn người. Tài năng này của ông được các sử liệu công nhận và cả trong các tác phẩm văn học đề cập đến ông. Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Tào Phi khi mới lên ngôi vua, trước mặt quần thần đã ép Tào Thực nội trong bảy bước chân phải làm một bài thơ về đề tài huynh đệ, và trong thơ không được có 2 từ huynh đệ, nếu không được sẽ xử chết.
04/11/2021(Xem: 18652)
306. Thiền Sư Tịnh Giới (? - 1207) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Anh Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 306 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 04/11/2021 (30/09/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
02/11/2021(Xem: 19132)
305. Thiền Sư Minh Trí (? - 1196) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Cao Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 305 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 02/11/2021 (28/09/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
01/11/2021(Xem: 3489)
Lời dẫn 2021: Cuộc đời Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc nơi đây dịch theo nhiều tài liệu, nhưng phần chính là từ học giả John Stevens. Ngài Bạch Ân ngộ đạo là từ tham công án, dạy pháp cũng là qua công án. Do vậy, đọc tiểu sử của ngài sẽ có lợi cho người học Thiền theo công án.
30/10/2021(Xem: 19390)
304. Thiền Sư Nguyện Học (? - 1174) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Anh Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 304 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 30/10/2021 (25/09/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/ https://www.facebook.com/quangducwebsite Tu Viện Quảng Đức 85-105 Lynch Road Fawkner, VIC 3060 Australia Tel: 03. 9357 3544; 0481 169
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567