Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Buổi vấn linh chính thống tại Netschung

28/05/201318:47(Xem: 10414)
Buổi vấn linh chính thống tại Netschung
Con Đường Mây Trắng


Buổi Vấn Linh Chính Thống Tại Netschung

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Cái huyền bí của sự chết là một trong những thách thức lớn nhất của con người và là nôi sinh của tôn giáo. Chỉ với cái chết con người mới ý thức về cái sống. nhà sinh vật học người Pháp Lecomte de Noüy(41) đã nói: “Sáng tạo lớn nhất của tự nhiên là sự chết”. Nói cách khác, ngay cả từ cách nhìn sinh vật học, cái chết không phải là sự phủ định đời sống mà là một phương tiện cho cái sống mở thêm không gian và tự nâng mình lên một mức độ cao hơn.

Tính liên tục vật lý là đặc trưng của các sinh vật thấp bé, của những dạng sống thô sơ và chưa phát triển; vì sự liên tục vật lý trói buộc sinh vật vào các định luật cứng nhắc của vật chất và vào quy định của những mẫu hình sẵn có, chúng chỉ biết lặp lại, ngăn cản mọi dạng thay đổi và trở thành chướng ngại lớn nhất trên đường phát triển.

Ngược lại, cái chết là một đặc tính riêng của đời sống cao cấp, chúng gìn giữ được những tính chất và kinh nghiệm đã có bằng cách phát triển một đời sống mới, bây giờ không phải bằng gián phân tế bào, mà bằng một quá trình hội nhập, nó không còn giữ tính liên tục vật lý nữa mà tính liên tục tâm lý - một sự liên tục cho phép xây dựng nên một thể sống mới phù hợp với động lực riêng của mình, nó không bị những gì xưa cũ cứng nhắc và mòn mỏi chồng chất lên.

Cũng như sự chuyển biến từ thể liên tục vật lý qua thể sau là tính liên tục tâm lý, thì bước sau đó chỉ được thực hiện bởi một cá thể đã phát triển cao nhất: đó là bước đi từ sự sống vô thức đến cuộc sống hoàn toàn ý thức (và cuối cùng là tâm thức quán chiếu) bằng phép chuyển htức (hpho-ba)

Nhưng trước khi con người hình dung được về bước di này thì nó đã nhận ra ý nghĩa của cái chết như một chìa khóa mở cánh cửa huyền diệu của một đời sống cao hơn. Từ nhận thức này mà sinh ra sự thờ cúng cái chết, một dạng thô sơ của tôn giáo. Nó làm con người bắt đầu xây dựng những công trình kỷ niệm trường cửu (khác hẳn với nhà cửa mỏng manh của người sống), đó là những công trình không nhắm tới sự sử dụng đương thời mà xuất phát từ một động lực hướng về sự sử dụng đương thời mà xuất phát từ một động lực hướng về sự miên viễn, từ một tha thiết của tâm thức hướng về một thực tại nằm bên kia cuộc sống.

Vì thế nguồn gốc của tôn giáo không phải là sự sợ chết mà là thừa nhận cái chết như nhà đạo diễn lớn và kẻ dẫn đường vào tự tính đích thực và sau xa của con người. Sự sợ chết chỉ xuất hiện vào thời điểm khi mà tâm người đã tới một dạng cứng nhắc của tính cá thể, với ảo giác tưởng mình có một tự ngã bất di bất dịch, có một linh hồn tự tại, có một cái ta thường hằng, phân cách người này với người khác, tưởng rằng hữu sinh khác vô sinh: với cách này nó đã vạch một đường ranh giữa sống và chết, đường này cuối cùng thành một biên giới chắc thật, thành một bức tường không vượt qua được, nơi mà mọi đời sống đụng đến đều bị tan vỡ.

Thế nhưng lúc con người chưa đánh mất mối liên hệ nội tại của nó với gốc rễ và thực tại quanh mình, trong một thế giới mà con người còn tiếp xúc với những năng lực tinh tế của thiên nhiên, của linh hồn, của tổ tiên, của thánh thần và ma quỉ - nói gọn là trong một thế giới mà không có gì được xem là chết - thì cái chết không phải là đối thủ của cái sống mà là một giai đoạn trong vận động của con lắc đồng hồ, một bước ngoặt, như sự sinh nở. Vì con lắc dao động từ lúc sinh đến lúc chết và về lại từ lúc chết đến lúc sinh.

Sự dao động của con lắc đời sống không phải chỉ có một chiều, một bình diện; nó có thể dao động trên vô số bình diện, trên mọi bình diện của tâm thức, tuân thủ động lực tiên thiên của nó, hay phù hợp với những gì nó nhận được trong khoảnh khắc phi thời gian; đó là chỗ con lắc nằm giữa cái chết và đời sống mới, chỗ nằm giữa những đời sống. Trong khoảnh khắc phi thời gian này thì những ai biết cách nhìn vào bên trong, ai có khả năng nội quán nhờ thiền định sadhana hay dhyana, người đó sẽ nhận thức được giai đoạn hiện hữu này, giai đoạn cho phép họ nắm lấy cơ hội tốt nhất để chứng mục đích cao nhất của mình, như trong Tử Thư đã mô tả.

* * *

Ta cũng có thể tiếp xúc với những lĩnh vực của đời sống mà thường ta chỉ gặp lúc chết, giai đoạn bước ngoặt, nếu ta chủ động đưa mình vào trong một tình trạng đặc biệt của sự tiết giảm cõi sinh, bằng cách tự mình đi vào cõi chết, néu ta biết chế ngự được thân và từ bỏ ý thức cá thể. Đó là tình trạng đồng cốt, nó có thể sinh ra bằng sự tự thôi miên, bằng một số phép du già bay bằng lễ nghi nhiều uy lực, trong đó nội tâm ngoại thể tác động lên nhau để sinh ra năng lực siêu nhiên mà thường chúng chỉ nằm tận trong các tầng tâm thức sâu kín của con người mà ý chí không đạt tới.

Những lễ nghi này mà các nhà huyễn thuật, phù thủy và pháp sư ngày trước từng biết rõ - những người có uy lực lên tâm người và chìa khóa tìm đến các năng lực bí ẩn - các lễ nghi này vẫn tồn tại sau khi đạo Phật đến Tây Tạng, mặc dù có thay đổi chút ít, chúng được đưa vào trong khung cảnh của ý niệm và truyền thống Phật giáo. Liên Hoa Sinh, bản thân Ngài cũng là đại sư trong khoa học huyền bí này, sử dụng chúng một cách khôn khéo để dành chiến thắng chống lại các phù thủy đạo Bưn bằng chính vũ khí của họ, khi họ tìm cách chống các ảnh hưởng của đạo Phật. Đồng thời Ngài cũng tôn trọng các vị địa thần tại đó và cho họ một vị trí đáng kính trọng trong hệ thống Phật giáo, xem họ là các vị hộ pháp, cũng như Phật Thích-Ca đã làm với các vị thần của Ấn Độ giáo.

Các vị hộ pháp này được thờ trong một ngôi đền riêng tại Samyé, đền cô nhất của Tây Tạng, do Liên Hoa Sinh xây dựng. Người ta nói rằng các vị tu sĩ cao cấp ở đền này luôn luôn được các vị hộ pháp nhập vào khi cử hành lễ nghi hô triệu họ. Trong các dịp này các vị đó xuất thần, các vị hộ pháp thông qua các vị đó mà phát biểu và trả lời các câu vấn linh. Vì thế mà có các cuộc vấn linh tại Samyé.

Thường người ta cho rằng phái Gelugpa là phái lánh xa nhất với phái cổ truyền Nyingmapa, ít chịu ảnh hưởng nhất của các lễ nghi huyền bí. Lạ thay cũng chính Gelugpa không những là người giữ các cuộc vấn linh truyền thống tại Samyé mà còn xen nó là một công việc chính qui của quốc gia. Điều này xảy ra với Đạt lai lạt ma thứ 5, lúc Gelugpa đạt tới đỉnh cao của quyền lực. Trong thời đó, vấn linh tại Netschung, trong tu viện nổi tiếng ở Drepung trở thành chính thống cho cả nước. Cuộc vấn linh này được xem là có thẩm quyền cao nhất và người ta luôn luôn hỏi ý kiến mỗi khi gặp khó khăn trong việc đi tìm tái sinh của một lạt ma cao cấp (ví dụ Đạt lai lạt ma hay Tomo Géché Rimpotsché) hay trong các quyết định quan trọng. Ngay các vị Đại lai lạt ma cũng nghe theo những phát biểu của cuộc vấn linh mà các tiên đoán thường chính xác đáng ngạc nhiên.

Không phải chỉ tại Netschung mới có vấn linh. Nhiều tu viện quan trọng của Gelugpa cũng có những cuộc vấn linh riêng, thông qua các tu sĩ có vị trí cao cấp trong hệ thống giáo hội. Tất cả các vị đó đều phải được cuộc vấn linh chính thống thừa nhận,sau khi đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc và kiểm tra chặt chẽ. Nhiều đền đặc biệt được chuyên sử dụng cho nghi thức vấn linh đó và tất cả mọi thứ liên quan đến lễ nghi đều hết sức rực rỡ nên những đền đó đều chứa dựng những bảo vật thiêng liêng nhất của Tây Tạng. Cũng như chính điện tại Lhasa, Dschokhang và tháp chuông của Đạt lai lạt ma, mái đền thờ Nétchung đều được nạm vàng.

Từ Netschung có nguyên nghĩa là “làng nhỏ” và bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian. Có một nhà huyễn thuật nọ, sống trên thượng nguồn của sông Kyi-tschu - sông chảy qua Lhasa - ông bắt được một thần thức nhiều uy lực và giam giữ nó trong một cái hộp vứt xuống sông. Khi chiếc hộp trôi qua tu viện ở Drepung, có một vị tu sĩ đang ở dưới lũng, ông tò mò vớt hộp lên và mở ra. Thức liền thoát ra khỏi hộp, mang dạng một con chim bồ câu bay đi, hạ cánh xuống một khu vườn. Để lấy lòng thần thức và tránh tai ương, người ta cho xây nơi đây một ngôi đền và kể từ đó vị lạt ma giữ đền luôn luôn được thần nhập vào, cứ mỗi khi làm lễ hô triệu.

Thực tế là buổi vấn linh tại Netschung không phải được một vị mà đến sáu vị thần hộ pháp tham gia, đó là một dấu hiệu rõ ràng là nó bắt nguồn từ Samyé. Câu chuyện huyền thoại nói trên có lẽ nhằm che đậy thực tế đó, nhất là trong thời kỳ mà phái Gelugpa tìm cách đẩy lùi ảnh hưởng của các trường phái cổ để củng cố hệ thống hóa và tập trung lực lượng tâm linh và chiếu cố đến các truyền thống cổ, vì kiến thức cũng như khả năng của các truyền thống đó về các vấn đề tâm lý hay tế tự đã đi sâu vào lòng quần chúng và chiếm được lòng tin nơi họ.

Vì những lẽ đó mà có lẽ Đạt lai lạt ma thứ 5 đã chấp nhận cho phép vấn linh được trở lại với tầm quan trọng ban đầu và cho nó một chỗ danh dự trong giáo hội Gelugpa. Điều này tỏ rõ trong việc trang hoàng lộng lẫy đền vấn linh. Để chiếm cảm tình của những lực lượng hung hăng và đen tối, ngôi đền thiêng liêng và tất cả pháp khí liên hệ đều được thiết kế bằng những vật liệu quí giá và được chế tạo theo quy định nghiêm nhặt của biểu tượng huyền bí rất cổ. Tất cả các pháp khí đều được làm bằng vàng hay bạc, nạm đá quý. Các vách tường đều mang bích họa mà những hình ảnh ma quái với bảo vật cùng đồ cúng dường được phủ bằng nhũ vàng trên nền đen. Trong những viền vàng đó, màu sắc ít được sử dụng đến, nhưng nhờ nền đen nên nó hiện ra lung linh, hầu như được một thứ ánh sáng phosphor(42) chiếu rọi. Dưới các bích họa là một băng dài chạy quanh đền với các câu chú chữ vàng, viết chữ Lantsa của thế kỷ thứ 10,11, trong đó hiện thân các năng lực thánh thần và ma quái. Chiếc ngai cho thầm vấn linh được đẽo gọt và thếp vàng được đặt tren bục cao giữa các cột sơn son và cẩn đá. Tượng lớn bằng người thật của sáu vị thần, mang dáng như ma quái, vung vũ khí để bảo vệ đền. Các vũ khí đó cũng được để trước ngai của tu sĩ vấn linh, và lúc ông xuất thần bất chợt nắm vũ khí nào là dấu hiệu của một trong sáu vị thần hộ pháp nào đang nói chuyện; họ biến ông thành hình ảnh sinh động của vị thần đang nói qua miệng ông.

Ai chưa tận mắt thấy sự chuyển hóa này thì không thể hình dung ra được ấn tượng lạ kỳ, thậm chí đáng sợ sinh ra, kể cả đối với những người khách quan nhất; vì những gì xảy ra ở đây hầu như đi ngược lại mọi qui luật của suy luận: trước mắt ta, một người biến thành một sinh vật khác, có một nhân cách hoàn toàn khác, về thể xác cũng như linh hồn. Nét mặt người đó thay đổi liên tục, đầu trương to hơn bình thường, thân như cao lớn hơn và có một sức lực siêu nhân của năm sáu người hợp lại, năng lực đó chứa tràn trong thân người đang ngồi trên ngai.

Nếu có chuyện tâm thức mà biến thành vật chất ngay giữa ban ngày thì nó chính là đây. Đó chính là sự vật chất hóa của những năng lực - dù cho đầu óc suy luận của ta có muốn bác bỏ - mà tất cả những người tham dự đều thấy và cảm được. Toàn bộ không khí trong đền hầu như tràn ngập một sức mạnh không sao cưỡng nổi, nó đến vơi tất cả những quan sát viên lạnh lùng nhất.

* * *

Có thể có nhiều lý giải về hiện tượng này, thế nhưng đièu chắc chắn là ở đây không có sự lừa dối, sự đóng kịch (điều này sức người sẽ không chịu nổi) mà là một thực tại vật lý, là những cái còn sót lại của một truyền thống xa xưa của con người, trong đó vật lý và tâm lý, người và thần, thế giới nội tại và ngoại cảnh, chưa hề tách rời lẫn nhau. Tây Tạng xem ra là vùng đất cuối cùng trên địa cầu, trong đó tri kiến về năng lực tâm lý không những chỉ được gìn giữ mà còn được chế ngự và chuyển vào những kênh trục an toàn. Đây cũng là nhờ tri kiến sâu xa và sự hướng dãn khôn khéo của các thánh nhân Phật giáo, những người đã không kiềm hãm truyền thống lễ nghi - mặc dù không liên hệ gì với Phật giáo - chúng vốn đóng một vai trò sống động trong đời sống tâm linh của dân tộc Tây Tạng, mà còn cho nó một chỗ đứng hợp lẽ trong thế giới Mật tông và nhờ thế đã cứu chúng khỏi rơi vào trong thuyết ma quái vô phương kiểm soát. Những vấn đề thuộc loại này không thể giải quyết bằng cách phủ định nó mà bằng sự chủ động đối mặt với nó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4701)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6623)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4845)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10097)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3624)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4824)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5057)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7534)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4234)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13457)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]