Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện tại Dungkar Gompa

28/05/201318:22(Xem: 10014)
Câu chuyện tại Dungkar Gompa
Con Đường Mây Trắng


Câu Chuyện Tại Dungkar Gompa

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Kể từ ngày Tomo Géché Rimpotsché mất, tôi chưa có lại lần nào một cảm giác tâm linh tràn ngập mối liên hệ tinh thần sâu xa như thế, cái nói lên sợi dây giữa thầy và trò. Tuy thế Adscho Rimpotsché vẫn không hề làm lu mờ ấn tượng của vị thầy đầu tiên của tôi, mà ngược lại, ông trở thành một mắc xích tiếp theo, nối tôi với ông bằng cách tăng cường và bổ sung những gì tôi đã nhận được trong thời gian trước ở Yiga - Tscholing. Trong mối liên hệ đó, tôi cảm động nhớ lại sự hỗ trợ mà tôi nhận được từ bạn đồng môn (guru-bkhai) viện trưởng Dangkar Gompa, người quản lý tu viện chính của Tomo Géché Rimpotsché khi ông vắng mặt hay khi ông tái sinh lại nhưng còn nhỏ tuổi và học tập tại Sera gần Lhasa. Lòng mến khách và sự sẵn sàng giúp đỡ của sư trưởng trong thời gian tôi lưu trú tại Dungkar Gompa thật là đáng xúc động và khuyến khích tôi, vì nó cho thấy lòng khoan dung cũng như ­ tôn trọng lẫn nhau luôn có giữa các chi phái khác nhau trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, trong đó tất cả những người nhập dòng đều được đáng kính trọng, không kể trường phái nào.

Người ta cho chúng tôi một Lhakhang nhỏ rất đẹp để ở, đó là một phòng cúng riêng thường được dành cho các vị lạt ma tái sinh hay các bậc trưởng thượng. Theo giới luật của phái Gelugpa (sống độc thân) thì nữ nhân không được lưu trú ban đêm trong tu viện, nên người ta cho Li Gotami ở trong một phòng nhỏ của tòa nhà ngoài làm chỗ ngủ, đối diện với cửa ra vào. Thế nhưng Anila(39) không có gì phải sợ khi ở một mình, vị quản đốc viện nói thêm một cách tự nhiên: “Bà sẽ ngủ chung phòng của vị lạt ma chủ phòng”. Để cho rõ hơn, tôi liền nói cho quản đốc hay là chúng tôi sẽ ở với nhau trong phòng đó ban đêm vì nếu hành lý chia đôi thật là bất tiện. Vị quản đốc nói điều đó thật ra không có hậu ý gì vì tại Tây Tạng, phòng nghỉ thật là khó kiếm và trời giá lạnh nên thường khách hay du hành hay hành hương hai phái nam nữ đều ngủ chung phòng ban đêm và người ta không thấy có gì đáng phải băn khoăn.

Chúng tôi sớm có cơ hội để quan sát điều này. Phòng chúng tôi ngủ đêm có một vách ngăn bằng gỗ, thế nhưng một đầu hở nên nó chỉ ngăn đôi vậy thôi, bên này có thể nhìn thấy bên kia. Vị lạt ma ngủ một bên của vách ngăn, còn chúng tôi ngủ bên kia. Ông là người rất thân thiện và ân cần, không làm phiền điều gì nên chúng tôi thấy góc riêng dành cho mình như ở nhà vậy.

Trong những ngày lễ, rất nhiều khách từ lũng Tomo và Amotschu lên tu viện và những ai ở xa không thể về lại cùng ngày đều ngủ đêm tại Gompa, đàn ông thì ngủ trong tu viện, đàn bà con gái nghỉ trong các tòa nhà ngoài. Thế nên chúng tôi và vị chủ phòng có khi phải ở chung với một số lớn các bà, họ không ngần ngại chia nhau nằm trên nền của hai bên vách gỗ và ngủ qua đêm với chúng tôi.

Trong những chuyến đi sau chúng tôi có dịp quan sát sự tự nhiên và lòng hiếu khách vô cùng của người Tây Tạng. Họ không bao giờ câu nệ điều gì. Trong những ngày nóng nực cókhi phụ nữ cởi trần tới mông không chút ngượng ngùng để gội đầu hay tắm rửa,hay trong mùa gặt hái họ ở trần làm việc khi mặt trời trong lũng quá nóng.

Tất nhiên điều đó chỉ xảy ra ở vùng dân cư còn đơn giản chứ không còn ở các xã hội đã tinh tế như tại Lhasa, nơi mà chúng tôi tiếp xúc trong thời gian lưu trú tại Gyantsee. Nơi đó chúng tôi sống thời gian dài trong tòa Yabschi Punkhang, điện của một gia đình vương giả tại Lhasa, gia đình này có quan hệ hôn nhân với hoàng gia Sikkim. Nói chung thì vị trí của phụ nữ tạ Tây Tạng rất cao. Họ đóng một vai trò hàng đầu trong cá nghề nghiệp, chỉ trừ chính trị, nhà nước hay lãnh đạo tinh thần, các ngành này liên hệ với nhau trong một chế độ tăng lữ.

Mặc dù trong giới phụ nữ cũng có nhiều nữ tu uyên bác và sư trưởng đáng nể trọng nhưng phần lớn họ thiêng về đời sống thực tiễn, họ chuyên ngành buôn bán, quản lý tài sản gia đình. Họ là người thừa kế chính thức mọi bất động sản, chúng không được chia cho từng con cháu mà được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, thông qua người phụ nữ chủ chốt trong gia đình để tránh chuyện xé lẻ và mất mát của đất đai canh tác vốn hạn chế, đất này thường được tưới tiêu theo phương pháp thủ công. Vì điều kiện kinh tế này mà người Tây Tạng phải tìm cách giữ vững dân số của mình theo khả năng cho phép. Điều này một phần đạt được nhờ tục đa phu - phần lớn ở trong các vùng sa mạc miền tây Tây Tạng hay vùng núi non phía bắc - phần khác cũng vì tục lệ, trong gia đình ít nhất phải có một con trai, có khi cả một con gái, cống hiến đời mình cho hoạt động tâm linh.

Cả tu sĩ nam lẫn nữ đều được trọng vọng, nhất là những ai uyên bác hoặc thiền định, hoặc thực hành nghi lễ. Đối với người Tây Tạng thì tri kiến được trọng hầu như là sự thiêng liêng và thường hai mặt này đều thống nhất ở mức độ cao. Giáo phái Delupa (giáo phái duy nhất tại Tây Tạng nghiêm khắc giữ đời sống độc thân, ngược với giáo phái khác cho phép tín đồ có vợ con hay tự giữ độc thân) coi trọng đặc biệt việc nghiên cứu kinh sách tôn giáo, kể cả nghiên cứu lịch sử, văn minh học, triết học, thơ văn, một phần y học và thiên văn học. Ngược lại phái Kargyutpa xem trọng sự tu luyện tâm thức bằng phép thiền định hơn kiến thức sách vở và tài năng tranh luận. Nếu tín đồ Gelugpa thường học tập lâu dài trong tu viện đại học (như Drepung, Ganden hay Sera) thì minh chứng cao nhất đối với phái Kargyutpa là khả năng ẩn cư lâu dài trong hang cốc, trong các thất thiền định độc cư, nơi mà giáo pháp của thầy và truyền thống tâm linh được thực hành. Việc học hỏi kinh sách không được coi trọng bằng phép tu thiền định, nó chỉ được dùng như phương tiện cho một số phép tu (sadhana) và dễ hiểu những nguyên lý căn bản của đạo pháp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3906)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10643)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16752)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9168)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3260)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10336)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3113)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5595)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16576)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8540)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]