Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổng Luận

02/05/201320:07(Xem: 9339)
Tổng Luận
Bàn Về Tư Tưởng Phật Học Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung


Tổng Luận

Thích Chơn Thiện
Nguồn: Thích Chơn Thiện


Nét văn hóa Phật giáo trong "Hiệp Khách Hành"

I - Khái quát

- Câu truyện là một chuỗi vận hành của nhân duyên:

Cẩu Tạp Chủng rời núi Hùng Nhĩ đi tìm mẹ - Gặp Huyền Thiết Lệnh và quái nhân Tạ Yên Khách - Gặp Đại bi lão nhân tặng pho tượng La hán là bí kíp nội công " La hán phục ma thần công " do các thần Tăng Thiếu Lâm sáng tạo - Theo Tạ Yên Khách đến sống ở Ma Thiên Lãnh, luyện nội công " La hán phục ma " - bị bắt về Trường Lạc Bang làm bang chủ. Truyện tiếp tục theo bước chân của Cẩu Tạp Chủng ghi lại các chuyện xẩy đến chung quanh chàng thiếu hiệp trên chốn giang hồ, và những diễn biến của tâm thức chàng như là hương hoa Phật giáo để lại trên một vùng văn hóa rộng: Núi Hùng Nhĩ, Ma Thiên Lãnh, Quan Đông, Lăng Tiêu, Hiệp Khách đảo. Đó là lộ trình tu tập để chuyển đổi tâm lý qua nhiều giai đoạn:

- Tu tập hạnh đức: chuyển đổi tâm lý vị kỷ thành vị tha, từ cấu uế đến thiện.

- Tu tập tâm đức: phát triển từ thiện tâm đến các tâm thiền định thuộc Sắc giới, Vô sắc giới, vượt qua các sầu, bi, khổ, ưu não.

- Tu tập tuệ đức: từ định tâm, hành thiền quán để vào Diệt thọ tưởng định phát sinh trí tuệ giải thoát thể nhập sự thật, dập tắt khổ đau.

Con đường chuyển đổi tâm lý cá nhân ấy là cơ sở để xây dựng văn hóa xã hội dưới hai hình thức:

- Hình thức tiêu cực: cá nhân sống lương thiện, không gây ra các rối ren cho tha nhân và xã hội.

- Hình thức tích cực: hành hiệp giúp đời.

II. Xây dựng Hạnh đức

Cẩu Tạp Chủng bẩm tính thuần lương, chân thật, vị tha và thông sáng, lớn lên trong môi trường văn hóa tự nhiên của núi rừng Khô Thảo Lãnh và Ma Thiên Lãnh, ở ngoài vòng tiêm nhiễm của thị phi, được mất, hơn thua, khen chê, dối gạt, hận thù, đố kỵ, ganh ghét, tâm lý phát triển theo hướng thiện lương.

Với các cá nhân khác trong xã hội, thì công phu huấn luyện phải kiểm soát, chế ngự được năm loại tâm lý vốn là tác nhân sinh ra các tâm lý bất thiện khác, là:

- Tâm lý trạo cử: tâm thiếu tập trung, không ổn định, dao động.
- Tâm lý hôn trầm: tâm lý mệt mỏi, thụ động, lười biếng.
- Tâm lý tham dục: ham muốn hưởng thụ sắc, thanh, hương vị, và xúc.
- Tâm lý sân hận: vội vã, nóng nảy, tức bực.
- Tâm lý nghi ngờ: tánh phân vân, mê mờ, chấp ngã, tà kiến.

III. Xây dựng Tâm đức

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng tập luyện nội công theo các huyệt đạo, kinh mạch được chỉ dẫn trên 18 tượng đất là thời gian tu tập Tâm đức. Thành tựu bước luyện công nầy là thành tựu Tâm đức phát sinh các tâm lý khinh an, hỷ, lạc; rời khỏi các tham, ưu ở đời.

Đây là công phu Thiền chỉ (Samatha) của Thiền định Phật giáo.

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng vận khí theo các đường kinh mạch trên 18 tượng gỗ là thời gian hành thiền quán (Vipassana), hay Chỉ, Quán song hành, dẫn đến kết quả tâm thanh tịnh và thấy biết đúng theo sự thật của sự vật hiện hữu. Kim Dung gọi kết quả này là thành tựu rực rỡ " La hán phục ma thần công ".

IV. Xây dựng Tuệ đức

- Công phu nầy hiện rõ từ thời điểm Cẩu Tạp Chủng biết rõ âm mưu của Bối Hải Thạch và các Hương chủ Trường Lạc Bang mà vẫn khởi đại từ tâm chấp nhận làm bang chủ bang Trường Lạc để đi vào hiểm nguy: dự hội yến Lạp Bát.

- Công phu Chỉ - Quán song hành trên đảo Hiệp Khách: Chú tâm tỉnh giác vào các đồ hình trên vách đá của 24 thạch động cho đến thời điểm giải ngộ bài cổ thi " Hiệp Khách Hành " là công phu xây dựng Tuệ đức.

Tại động 24, Cẩu Tạp Chủng nhiếp phục hoàn toàn các cảm thọ và các niệm tưởng - Nghĩa là hoàn toàn kiểm soát, chế ngự năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức - đi vào định cao nhất: Diệt Thọ Tưởng định. Trí tuệ giải thoát thấy rõ sự thật Duyên sinh, Vô ngã của con người và thế giới bừng tỏa từ định nầy.

V. Xây dựng các Tâm giải thoát

1. Tâm đại từ đại bi

- Bản tâm của Cẩu Tạp Chủng vốn đã thiểu dục vị tha. Các cảnh khổ hoạn trên giang hồ đã giúp chàng mở rộng từ tâm và bi tâm, không quản ngại gian khó, đi vào cứu giúp tha nhân như cứu Sử bà bà, A Tú, Bạch Vạn Kiếm, Đại bi lão nhân, Tứ đại bang chủ ở Quan Đông, Bạch Tự Tại, kiếm phái Tuyết Sơn, bang Trường Lạc, Thạch Trung Ngọc, và cả hai sứ giả "Thưởng thiện Phạt ác" tại Thiết Xoa Hội.

Tâm đại từ, đại bi có tác dụng mở lớn tâm thức hành giả để cảm nhận hạnh phúc thanh khiết vô bờ, vừa làm lắng dịu hận thù trong xã hội, tỏa sáng tình người, tỏa sáng nền văn hóa nhân bản.

2. Tâm không cố chấp (Không chấp thủ)

Cẩu Tạp Chủng sống hồn nhiên với thái độ tâm lý không thấy gì là ta, là của ta, dễ dàng chia xẻ với các người chung quanh mà không nệ hơn, thiệt. Chàng ngạc nhiên thấy các người khác hại nhau vì lợi lộc và quyền thế. Tâm không chấp thủ ấy là đối trọng của tâm lý vì ngã nhan nhản trên võ lâm, giang hồ.

Đây là điều đáng quan tâm của các nhà văn hóa thời đại mới.

3. Hiểu mình và hiểu thế giới

Câu hỏi mà Cẩu Tạp Chủng liên miệng hỏi " Ta là ai? " không chỉ liên hệ ý nghĩa "má má ta là ai? ", " gia gia ta là ai? ", ta là người đã lớn lên ở núi Hùng Nhĩ chăng? mà còn gợi lên ý nghĩa rằng: ta là thân thể vật lý ư? là tâm lý? sinh lý? tình cảm? tư duy - hiểu biết? hay ta làøbao gồm tất cả các thứ ấy? Có cái ta riêng lẻ để phục vụ không?
Đấy là các câu hỏi đeo đẳng mãi với con người cho đến thời điểm chứng nhập chân lý.

Kim Dung đã nhẹ nhàng hình dung ra câu trả lời là toàn bộ quá trình phát triển tâm lý của Cẩu Tạp Chủng, giữa khi các hàng cao thủ thì vướng vào tranh cãi chỉ một cái ta vật lý của chàng. Tác giả đã cho thấy sự sống không phải là các câu hỏi và trả lời về cái ta; mà là thực tại của mối tương quan nhân duyên không cùng tận đang giàn trải chung quanh ta. Chỉ có một sự thật rõ ràng nhất mà con người phải thường xuyên đối mặt là giải quyết các phiền não, khổ đau, và khát vọng hạnh phúc không khi nào vơi.

Theo giáo lý nhà Phật, con người hiện tượng là tập hợp không cách ly của năm nhóm:
- Thân thể vật lý, hay sắc uẩn (gồm cả thế giới vật lý);
- Các cảm thọ khổ, lạc, không khổ không lạc, hay thọ uẩn;
- Các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, hay tưởng uẩn;
- Các tư duy, tư niệm về sắc, thinh, hương, vị xúc, và pháp, hay hành uẩn;
- Các thấy biết, nhận thức đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, hay thức uẩn.

Cái gọi là Ta do năm nhóm trên tập hợp thành rõ ràng là liên hệ chặt chẽ với tha nhân, xã hội và môi sinh: tách khỏi tha nhân, xã hội và môi sinh thì cái ta không thể có mặt.

Trong tập hợp năm nhóm ấy có thể phát hiện trí tuệ giải thoát và tâm lý giải thoát mà Kim Dung tin tưởng, đã đưa đến sự giải ngộ qua 24 thạch động.

Thấy rõ sự thật ở tự thân, hay ở ngoại cảnh, đều cùng lúc thấy rõ sự thật của thế giới, bởi chân lý không thể có hai. Sau khi kinh nghiệm về sự thật vô ngã ấy, các hiệp khách vong ngã một cách tự nhiên, và hành hiệp một cách tự nhiên, bởi bằng con đường hành hiệp, các hiệp khách có nhiều nhân duyên để tiếp cận nguồn hạnh phúc không tên và không giới hạn. Nếu hành động khác đi, nghĩa là nuôi dưỡng tự ngã (cái ta) và dục vọng thì sẽ đẩy mình và người vào rối ren, khổ não như đã từng kinh nghiệm.

" Hiệp Khách Hành " đã gián tiếp giới thiệu với độc giả các cái ta lạc lõng, bi thương trải khắp toàn truyện, như:
- Cái ta tự cao tự đại thành cuồng của Bạch Tự Tại;
- Cái ta si tình của Mai Phương Cô, Đinh Bất Tứ;
- Cái ta ác loạn của Đinh Bất Tam;
- Cái ta phóng đãng của Thạch Trung Ngọc, Đinh Đang;
- Cái ta cố chấp của Tạ Yên Khách, Sử bà bà;
- Cái ta ước lệ hẹp hòi của Bạch Vạn Kiếm;
- Cái ta của giá trị văn hóa cổ xưa của bốn đại môn chủ ở Quan Đông;
- Cái ta trung chính của Thạch Thanh, Mẫn Nhu;
- Cái ta hiền hậu rất nhân thế của A Tú;
- Cái ta rất hào hiệp và có phần chấp thủ của Trương Tam, Lý Tứ;
- Cái ta vô dục, vô chấp, vị tha của Cẩu Tạp Chủng v.v... (đây là cái ta duy nhất của niềm tin của văn hóa trí tuệ và nhân ái)

4. Sống hạnh phúc:

- Sống là đi tìm hạnh phúc là sự hiển nhiên.

Người ta sinh ra không phải để khổ đau. Thế nên, giới thiệu các thái độ sống đem lại các cảm nhận hạnh phúc cho cá nhân và tập thể là sứ mệnh của văn hóa.

" Hiệp Khách Hành ", hầu như đặt niềm tin giáp mặt chân lý và hạnh phúc vào con đường thiền định và trí tuệ của Phật giáo - Nói của Phật giáo mà một cách nói; thật ra đó là con đường tâm thức của mọi người -. Con đường đó đã đươc phản ảnh ở Bồ tát Quán Thế Âm trong phẩm kinh Phổ Môn (Cách cửa vào sự thật của thế giới), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như đoạn kệ giới thiệu dưới đây:

Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán,
Bi quán cập từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Bi thể, giới lôi chấn,
Từ ý, diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm "

Dịch nghĩa:

Hãy nhìn thấy sự thật duyên sinh,
Vô ngã của các pháp,
Nhìn với trí huệ lớn,
Nhìn với tâm đại từ, đại bi
Hãy thường tư duy, niệm tưởng như vậy,
Ánh sáng vô cấu của tâm thức sẽ xuất hiện
Trí tuệ, như mặt trời, sẽ phá tan hôn ám
Xua tan các tai nạn
Chiếu sáng khắp thế gian.
Tâm bi như kéo về sấm chớp,
Tâm từ như mây lớn bủa ra
Cho xuống cơn mưa pháp thanh lương
Dập tắt lửa phiền não.

Cái nhìn đầy đủ sức mạnh của trí tuệ và từ bi ấy hệt như cái nhìn tập chú của Cẩu Tạp Chủng dán chặt vào 24 đồ hình và chữ nghĩa trên vách đá của 24 thạch động (chàng nhìn với tâm tuệ và tâm từ của chàng), tỏa sáng sự giải ngộ bí kíp mà Long, Mộc nhị vị đảo chúa đã phải chờ đợi suốt 40 năm, phải chăng?

- Hạnh phúc, phải chăng có mặt trong cái nhìn ấy, cái nhìn không dính mắc vào bất cứ gì ở đời, đã bùng vỡ trong tiếng la đầy niềm hoan lạc của Thạch Phá Thiên và Long Mộc đảo chúa vào thời điểm cuối của thạch động thứ 24:" Thật là tuyệt vời!" và " Quả thật là tuyệt vời! "? Cái nhìn tương tự kinh Kim Cương Bát Nhã diễn đạt: " Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm " (hãy khởi lên cái tâm lý không dính mắc).

Với tâm lý " không dinh mắc vào bất cứ gì " ấy, các hiệp khách dễ dàng đối mặt với các vô thường, hiểm nguy ở đời. Bấy giờ bốn mùa vẫn vận hành như từng vận hành, nhưng vắng bóng các ngã niệm, các sầu ưu. Bấy giờ, ở đó, là điểm hẹn của ba đại hiệp khách: Trương Tam, Lý Tứ và Thạch Phá Thiên tiếp nối gieo vãi các hạt giống tỉnh thức với thái độ của Châu Hợi, Hầu Doanh ngày trước:

" Việc xong rũ áo ra đi ;
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm "
(" Sự liễu bất y khứ ;
Thâm tàng thân dữ danh ")




Viết xong ngày 25/9/2003
Chùa Tường Vân, Huế
Tỷ kheo Thích Chơn Thìện

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3020)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20336)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3890)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8422)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7989)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9484)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4741)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4079)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]