Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 6

02/05/201311:54(Xem: 10899)
Phần 6
Ánh Đạo Vàng


Phần 6

Võ Đình Cường
Nguồn: Võ Đình Cường


Dứt với quãng đời quá khứ, sau hình ảnh cuối cùng của Xa-nặc và Kiền-trắc, đức Thích-ca xây mặt về phía trước.

Phía trước toàn một màu xanh đậm của nước và rừng! Cảnh tượng hùng vĩ ở đây làm rợn người yếu vía: Sông A-nô-ma (Anoma) trùng trùng dậy sóng. Điệp điệp bên kia bờ, từng dãy núi chồng dựng lên nhau. Hoang vu, hoang vu vây cùng mọi ngả. Chưa có một vết chân người để lại nơi đây! Từ nay muốn đến những chóp núi nhuộm vàng trong ánh nắng ban mai kia, đức Thích-ca chỉ có một cách, là tự vạch lấy con đường. Đá ở đấy có lẽ cứng lắm, dây hoang chằng chịt chắc nhiều và bao nhiêu gai góc nữa! Nhưng trước mắt Ngài, toàn một màu xanh đậm. Sắc màu ấy gây nguồn hy vọng, và tin ở sức mạnh của mình, Ngài mạnh bạo bước đi...

Ngài đi đến dãy núi Ra-na-ghi-ri và xin nhập vào đoàn tu khổ hạnh. Đây là những người xem thân thể là kẻ thù của linh hồn, xác thịt là con thú phải xiềng xích, phải hành hạ cho đến bao giờ tê dại không còn cảm giác nữa. Có người đưa một cánh tay lên trời, đêm và ngày luôn như thế cho đến lúc nào những khớp xương tay không còn cử động được nữa, gầy và khô dần như một nhánh củi mục; có người nắm mãi bàn tay lại cho đến lúc nào móng tay mọc dài, xuyên qua lòng bàn tay đã thối nát; có người đánh mình với một cái roi da, hay lấy dùi sắt hơ lửa đâm vào ngực. Ở đây, một người nằm lẫn lộn giữa đống thây ma đã thối nát để tập cho mũi quen với những mùi dơ bẩn. Đàng kia, một người ngồi nhai mãi những ngọn lá đắng để làm cho lưỡi không biết vị nữa. Một nơi khác vài người nằm trần dưới ngọn nắng nẻ đất, đếm mỗi ngày một ngàn hạt kê rồi bỏ dần vào mồm mỗi lúc mỗi hạt cho đến bao giờ chết khô vì nắng và đói.

Đức Thích-ca sống với họ ở đây, nhưng thấy những cách tu luyện ấy không có hiệu quả gì. Ngài hỏi:

– Ôi ! Đời đã đau đớn lắm rồi, sao các người còn cố làm thêm đau đớn nữa?

Một người trả lời:

– Trong kinh có dạy, nếu một kẻ tu, hành hạ thân xác cho đến nỗi không còn biết đau đớn, khổ nhọc là gì nữa, thì tâm hồn người ấy thoát khỏi nhục thể mà lên cõi trời, như một làn khói bay cao lên mấy tầng mây xanh, khi củi đã cháy trong lò.

Đức Thích-ca nhìn lên trời, chỉ một đám mây đang bay:

– Làn mây nhẹ trôi trên trời kia, vẫn biết là ở tự những làn sóng rào rạt trong biển cả, nhưng nó phải nhỏ dần từng giọt xuống lại trần gian, chảy qua những kẻ đá, đường lầy, hiệp nhau lại làm thành suối, thành sông, rồi lại lao mình ra biển cả. Tương lai và hạnh phúc của các người, sau khi đã trải qua bao nhiêu khổ hạnh, biết có thoát khỏi cái luật xoay vần ấy chăng? Cái gì có lên thì phải xuống, đã đến thì phải đi. Sau khi đã mua được cõi trời với bao nhiêu xương máu trong chợ đau thương mà các người đã tạo lấy, tôi chắc rồi các người sẽ trở về với những đau thương, khi kỳ hạn ở cõi trời đã hết. Bởi thế tôi khuyên các người hãy bỏ những trò nguy hiểm ấy đi. Tâm hồn trong sáng và thanh cao phải cần có một thân thể trong sạch và cường tráng để nương tựa. Sao các người lại đánh đập, phá phách thân thể cho đến nỗi nó phải kiệt quệ, phải gục ngã giữa đoạn đường dài như một con ngựa bất kham quỵ dưới sức chở nặng khi chưa đến đích?

Bấy giờ các nhà tu khổ hạnh bực tức, có lẽ vì thất vọng, kêu lên: Người ơi! Chúng tôi đã chọn con đường này, chúng tôi quyết đi cho đến đích. Nếu người biết con đường nào hơn, nói cho chúng tôi hay, nếu không, người hãy đi nơi khác mà tu luyện.

Đức Thích-ca cáo từ mọi người rồi ra di, lòng buồn rười rượi. Không phải buồn vì chán nản. Ngài buồn vì thấy người đời đã quá sợ đau đớn, đến nỗi phải tập cho quen với đau đớn, tham sống đến nỗi không dám sống, sợ chết đến nỗi tập cho quen với cái chết, cố gấp gấp đào huyệt cho đời mình để mau thoát cảnh địa ngục mà họ đã tạo ra.

Ngài dừng chân lại trên sườn đồi, chống hai bàn tay lên đầu chiếc gậy tầm xích, đứng nhìn cảnh vật ở dưới chân Ngài mà than:

– Hỡi những bông hoa dại mọc ở ven sườn đồi! Các con được tắm ánh sáng và thở khí thanh, có bao giờ các con thấy phiền muộn đến nỗi muốn diệt mất những hương thơm, muốn ruồng bỏ những màu sắc tươi đẹp mà các con đang phô bày ra đấy?

Hỡi những đám thuỳ dương kia! Các ngươi nhờ cái thuật chi mà được bằng lòng sống giữa thiên nhiên hoà hiệp, được sung sướng vươn mình lên cao để vít gió Hy-mã-lạp-sơn và ngân nga trong lá rậm?

Và các con nữa, hỡi đàn chim ơi! Cái thú nước mây dong ruổi mà thiên nhiên đã phú thác trên đôi cánh các con; cái hạnh phúc được tung từng tràng nhạc trong nắng mai và gió sớm: những của quý giá ấy, có bao giờ vì lòng ham muốn một cái gì khác quý giá hơn mà các con đành ruồng bỏ? Có bao giờ các con thấy chán nản đến muốn không hót nữa, và cố hành hạ thân các con để mong sống cuộc đời tốt đẹp hơn thế? Nhưng người, các con ơi, người, anh cả của muôn loài, đã đem trí thông minh để gây thêm khổ và đã sớm đào huyệt để chôn sống đời mình!

Đang khi do dự chưa biết đi về hướng nào, Ngài bỗng thấy dưới chân đồi, một đám bụi mù dấy lên. Trong ấy đang lúc nhúc một đàn cừu. Những kẻ chăn cừu chạy từ chỗ này sang chỗ khác để thúc giục chúng đi. Họ nắm đá ném vào những con đi chậm ở đằng sau. Một con cừu non đi bên cạnh mẹ bị trúng phải một hòn đá, què một chân. Nó đi chậm lắm. Nhưng cừu mẹ không thể đi theo, vì nó còn một con nhỏ khác đang chạy lạc ở phía trước. Theo con này thì bỏ con kia, cừu mẹ đành đứng nhìn lui và nhìn tới... Đức Thích-ca chạy xuống đồi, bồng cừu con bị thương lên, vỗ về:

– Dù con về đến đâu, ta cũng sẽ bồng con theo mẹ con cho đến đấy. Trong lúc ta chưa tìm ra được phương thuốc để cứu toàn cả chúng sanh, thì ít nữa ta cũng cứu được một mình con ra khỏi đau khổ ừ như thế còn hơn là ngồi trên núi như những kẻ tu hành kia để hành hạ thân mình và để cầu được giải thoát với những đấng thiên thần bất lực.

Ngài bước mau đến phía trước, hỏi những kẻ chăn cừu :

– Các ngươi dắt đàn cừu này về đâu đấy?

Một người trong bọn buồn bã trả lời:

– Vua Tần-bà-sa-la ở thành Vương Xá, bắt chúng tôi phải nạp một trăm con dê và một trăm con cừu để tối nay ngài làm lễ hy sinh cúng thần.

Đức Thích-ca nói giọng cương quyết:

– Vậy ta sẽ theo các người đến đấy.

Và vẫn ôm vào lòng con cừu con, Ngài đi trong đám bụi hồng của đoàn thú dấy lên. Đến một bờ sông kia, một người đàn bà mắt chưa ráo lệ, chắp hai tay, quỳ xuống bên chân Ngài:

– Thưa Ngài, hôm qua con đến bên Ngài cầu xin Ngài một phương thuốc để cứu đứa con trai nhỏ của con chết vì rắn cắn. Ngài vén khăn lúp mặt nó, dịu dàng nhìn, rồi đậy lại mà bảo: “Người hãy đi đến nơi nào chưa có một người cha, người mẹ, người con hay đứa nô lệ chết mà xin một nắm tro. Nếu người xin được thứ tro ấy thì mới có thể cứu con người được”.

Đức Thích-ca hiền từ nhìn người đàn bà đau khổ và hỏi:

– Nhưng người có tìm ra được thứ tro ấy không?

Ôi, con ôm đứa con đã lạnh vào lòng, đi gõ cửa từng nhà một, từ thành thị cho đến thôn quê, để xin thứ tro ấy. Tro thì không thiếu gì, nhưng không có nhà nào là không có người hoặc mới chết, hoặc chết đã lâu ? Con mệt nhọc và chán nản đặt con bên cạnh bãi dâu, đi tìm Ngài để nhờ Ngài chỉ cho con một nhà nào con có thể tìm được thứ tro như Ngài đã dạy. Đức Thích-ca đặt một tay trên vai người đàn bà như để trút cả một mềm thân mến xuống đấy và nói với giọng chua xót:

Người ạ, không có được thứ tro ấy, vì chết là một luật chung của muôn loài. Hôm qua ta bảo người tìm thứ tro ấy là chỉ cốt để cho người nhận thấy rằng, đã làm người thì phải chịu sự tử biệt. Không thể vượt ra ngoài luật cay nghiệt ấy được trong lúc còn ở trong kiếp người. Người phải hiểu rõ như thế để kiên nhẫn, chịu đựng tai nạn kia. Hôm qua người tưởng chỉ có một mình người đau đớn, bây giờ người đã rõ rằng toàn cả nhân loại, chúng sinh đều chịu như thế cả. Cái đau đớn của người trong cái đau đớn của toàn thể, một giọt nước mắt trong biển nước mắt, âu cũng là một chuyện thường, người đừng nên than khóc thái quá. Vả, có kêu gào than khóc cho lắm đi nữa cũng vô ích, vì không thể đổi được cái luật thiên nhiên khắc nghiệt kia mà mọi người đều phải chịu. Thôi, người hãy đi chôn con người đi. Nếu ta có thể cứu được con người thì dầu có cần đến máu xương ta, ta cũng không từ.

***

Ngài cùng bọn chăn cừu đi tiếp đến thành Vương Xá. Quân gác thành thấy vẻ hiền hậu và phương phi của Ngài đều tránh ra hai bên cửa để Ngài vào. Xe ngựa đều dừng lại để Ngài đi trước. Trong các phố xá, người ta đổ xô ra hai bên đường, nhìn Ngài ôm con cừu đi qua. Họ thì thầm với nhau : “Không biết người thuộc về hạng nào mà phúc hậu và trang nghiêm lắm thế? Ồ, hai mắt dịu dàng và thông minh quá đỗi! Có lẽ đó là một vị thiên thần mới xuất hiện đâu đây”.

Ngài đi thẳng đến đền vua. Vua Tần-bà-sa-la đang đứng trước bàn thờ. Các nhà quyền quý Bà- la-môn choàng áo lễ trắng đứng hai bên. Họ vừa đọc kinh vừa kính cẩn mang những bình đựng nước hoa, mỡ và rượu so-ma đổ vào ngọn lửa đang reo cháy trên đống củi thơm. Quanh giàn hoả, chảy lừ đừ một dòng huyết đặc của đàn cừu bị chọc tiết. Trước bàn thờ, một con cừu đực bị trói nằm sấp trên chiếc ghế dài, đầu bị kéo ngược ra đàng sau lưng. Một người Bà-la-môn kê lưỡi dao nhọn và sáng vào cổ con vật mà khấn to :

– Hỡi các thần linh! Đây là những dòng máu tinh khiết của đàn cừu vô tội. Xin các Ngài hãy sung sướng nhúng tay vào đấy mà rửa tội cho nhà vua. Xin các ngài hãy lấy mỡ của chúng mà đốt cho tiêu tan những lỗi lầm của cả nước. Từ đây xin các ngài đừng giận hờn mà gieo hoạ xuống nữa!

Đức Thích-ca vội đến bên cạnh nhà vua, tâu, giữa sự ngạc nhiên của mọi người:

– Xin bệ hạ đừng để cho người ấy giết con vật vô tội kia!

Nói xong, Ngài xoay lại mở trói cho con cừu. Mọi người đều đứng yên không ai cản trở: Ngài có một vẻ gì khác phàm đã làm mọi người từ vua đến quan phải kính nể.

Sau khi xin phép vua Tần-bà-sa-la, Ngài cao giọng giảng cho mọi người nghe:

– Ai cũng ham sống, thế mà ai cũng thích giết hại; ai cũng có thể giết hại một cách quá dễ dàng, thế mà không ai có thể tạo ra được sự sống.

Ngài tiếp:

– Dù muôn loài có khác, sự Sống chỉ là một. Trong Thánh kinh có dạy, sau khi chết, có người sẽ đầu thai làm thú vật, có nhiều thú vật sẽ làm người. Người và vật vì thế mà vẫn cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật để rửa tội cho người. Xin với thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các ngài ấy đều thiện, thì các ngài sẽ không thể tha thứ một việc làm ác như thế. Nếu các ngài ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các ngài cũng không hết ác được. Nhưng dầu thiện, dầu ác, các ngài cũng không tha tội cho ai được. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Đấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm hoạ.

Giảng đến đây, một cảnh tượng hoà thuận và đẹp đẽ hiện ra trước mắt. Ngài cất cao giọng và nói một cách say sưa:

– Ôi, thế giới này sẽ an vui biết bao và biết bao sầu thảm sẽ không có nữa, nếu nhân loại biết thương đến loài vật mà không nỡ tâm chém giết chúng để cúng và để ăn, nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với cỏ cây, hoa trái!
Ngài nói với một giọng rất thiết tha và đầy thương cảm. Các thầy Bà-la-môn nghe xong đều cởi bỏ hết lễ phục mang trong mình với hai bàn tay chùi chưa sạch máu. Mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên các đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự mê muội của loài người đã tạo ra.

Vua Tần-bà-sa-la kính cẩn đến bên đức Thích-ca, chắp hai tay vái Ngài và mời Ngài về cung. Ngày hôm sau, vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ rằng :

“Từ xưa đến nay chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để cúng thần. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật, vì chúng sanh đều cùng chung một sự sống. Và nên luôn nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Sau khi rõ lai lịch đức Thích-ca, vua Tần-bà- sa-la liền mời Ngài ở lại:

– Ngài là một đấng vương giả, sanh ra để ngồi trên thiên hạ, chứ không phải sống để nhờ sự bố thí của mọi người. Ngài hãy ở đây với trẫm, đem sự hiểu biết của Ngài để giáo hoá cho dân gian; rồi đến khi nào hết đời trẫm, thì giang sơn này trẫm sẽ giao cho Ngài cai trị.

Nhưng đức Thích-ca một mực chối từ:

– Tâu bệ hạ, tôi đã bỏ cha tôi, vợ tôi, con tôi và giang sơn, tổ quốc để đi tìm chân lý. Bệ hạ đừng cầm giữ tôi lại làm gì. Tôi không thể ngồi yên trên ngọc ngà châu báu, trong lúc tai tôi còn nghe những tiếng đau thương của nhân loại, lòng tôi còn cuộn lên những bào ảnh của cuộc đời. Xin bệ hạ để cho tôi đi. Bao giờ chân lý đã rạng ngời trước mắt tôi và sáng soi cùng thế giới, tôi lại xin trở lại đây để đền đáp ơn Ngài đã chiếu cố.

Vua biết không thể cầm giữ được Ngài, liền đi quanh Ngài ba vòng và cúi đầu dưới chân Ngài từ biệt, sau khi đã chúc Ngài mau thành Chánh Giác.

Từ đây, trên những con đường hiểm trơ và gai góc dọc theo Hy-mã-lạp-sơn, Ngài lại bước chân lên, mang theo bên mình một bình bát và một chiếc gậy. Và dưới những ngọn nắng cháy thịt, những trận mưa rách da của xứ Ấn Độ. Ngài chỉ biết đem một tình thương vô hạn, và một ý chí mạnh mẽ vô cùng để tự che chở.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2020(Xem: 8287)
Mẹ từ giã cõi đời vào những ngày cuối năm biến không khí đón tết vui tươi giờ đây càng thêm lặng lẽ. Nhìn Cha già ngồi niệm Phật, cúng lễ phẩm mỗi ngày 3 lần cho Mẹ, trông ra phía trước sân những chậu vạn thọ hoa đã nở tròn, khiến tôi càng thấy buồn và nhớ Mẹ nhiều hơn. Tôi ngồi xem mấy món đồ Mẹ để lại được đựng trong chiếc hộp gỗ đã bạc màu, lòng tôi cảm xúc dâng trào khi nhìn thấy xâu chuỗi bằng hạt bồ đề tự tay tôi làm và những lá thư tôi viết gởi về thăm Mẹ cũng như những bài thơ võ vẽ tập làm từ tuổi ấu thơ. Những bài thơ từ khi tôi viết đến khi Mẹ qua đời đã gần hai mươi năm, tưởng chừng đã hư mất thuở nào nhưng được Mẹ gói trong mấy lớp bao ni lông thì giờ đây cũng đã ố vàng. Đây là rất ít số bài thơ còn sót lại trong thời tuổi thơ của tôi. Cảm xúc nhớ Mẹ dâng trào theo từng câu chữ, những kỷ niệm thuở ấu thơ bên Mẹ hiền đầm ấm, hồn nhiên, hạnh phúc biết bao. Đặc biệt, “Đôi Gánh trên vai Mẹ” là một trong những hình ảnh thiêng liêng của cuộc đời và là nguồn động lực vô cùng lớn
10/07/2020(Xem: 8141)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
02/07/2020(Xem: 5346)
- Chú An ơi, chú còn pin không cho tôi xin với? - Ô, hết rồi Cụ ơi, con cũng không có tiền để mua pin mới! Thôi Cụ chịu khó nghỉ nghe tin tức vài hôm nha, có tiền con sẽ mua cho Cụ! Ông Cụ mắt nhìn vào chiếc radio buồn buồn, cúi đầu xuống rồi lại ngước lên, trông thật tội! -Thì cũng đành vậy thôi. Cám ơn Chú! Cụ có chiếc radio đã cũ lắm rồi, khổ cỡ của nó bằng cuốn vở học trò, cái cần ăng ten đã sứt từ lâu, ông tự chế lại bằng cọng căm xe đạp khiến tiếng nói nghe khàn khàn, thỉnh thoảng ông phải đập đập vào tay nó mới có âm thanh; màu sơn bây giờ cũng phai gần hết, lốm đốm, thay vào đó, mồ hôi tay, nhiều chỗ dính chút xi măng, lấm tấm đất…và thời gian đã làm chiếc radio của ông trông thật tội! Ngày nào cũng vậy, cứ hai lần sáng tối, ông nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách đất, đến giờ đài phát thanh thời sự là ông mở radio. Thời gian đầu, mấy Chú lo lắng, vì theo sự quy định của Sư Phụ thì tất cả những chú Tiểu mới vào chùa đều không được phép sử dụng bất cứ loại máy thu
29/06/2020(Xem: 6581)
Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu lại một câu đối đậm thiền vị tại ngôi chùa cổ Hội Khánh, nơi đặt Trụ sở Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Bình Dương: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” Tạm dịch: Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây. Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), 1861 chùa đã bị chiến tranh tàn phá thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với khuôn viên trên 1.200m2.
28/06/2020(Xem: 23523)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5605)
Thầy tôi là Giáo Thọ về môn Lịch Sử Phật Giáo và Cổ Đại Hán Ngữ trường Cao- Trung Phật Học Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Thầy có trí nhớ rất tốt, ngoài lĩnh vực chuyên môn thì hầu như “bỏ túi” nhiều bộ tiểu thuyết Lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc như Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử .v.v…Và đây là những viên kẹo tinh thần mà Thầy tôi thường thưởng cho huynh đệ chúng tôi trong lúc làm việc. Tưởng chừng những câu chuyện đó đã trôi vào dĩ vãng theo những năm tháng đầy biến động của cuộc đời, nhưng thật kỳ diệu tất cả dường như đều được sắp xếp lại gọn gàng trong ký ức của tôi như những món quà tâm linh và cùng lớn dần với dòng đời. Thời gian qua, thế giới đang oằn mình giữa cơn đại dịch Covid-19.
18/06/2020(Xem: 3891)
Phiên đại triều của Thiên Đình cứ trăm năm một lần kỳ này diễn ra trong bầu không khí thật hoang mang, mệt mỏi. Thái Bạch Kim Tinh nay đã già yếu lắm rồi. Cụ tâu trình quên trước quên sau khiến Ngọc Hoàng Thượng Đế chau mày rồi cũng phải thông cảm, khoát tay ra hiệu cho qua. Nam Tào, Bắc Đầu tai đã nghễng ngãng, gầy ốm hom hem, vầng trán nhăn nheo vì quá căng thẳng với chuyện của trần gian. Bà Lê Sơn Thánh Mẫu có lẽ nhờ Vườn Đào và biết sửa sang sắc đẹp cho nên trông vẫn trẻ. Thiên Lôi tuy còn khoẻ nhưng kể từ khi loài người chế ra cột thu lôi thì ông chỉ còn “ vớ ” được một vài người ngu ngơ chẳng may lang thang ngoài đồng ruộng trong lúc trời mưa gió. Ngoài ra uy quyền của ông còn bị sứt mẻ vì Ngọc Hoàng Thượng Đế vừa bổ
17/06/2020(Xem: 3262)
- Hai Chú đói bụng lắm phải không? Mặt mày xanh lè, tái mét hết rồi! Con có cơm của Ông Bà Chủ đem ra để chút nữa ăn. Con chia hai chú một miếng nha. Tôi quay nhìn, Dũng Đen chạy đến gần tôi nói giọng líu ríu, Nó chăn đàn vịt thuê cho Ông Bà Chín trong xóm, nghe nói nó quê Miền Tây nhưng không biết chính xác ở nơi nào, chỉ nghe nó kể nhà nghèo, anh em đông, Dũng là con trai lớn, dù thương lắm nhưng Ba Mẹ nó đành bấm bụng cho nó đi giữ vịt thuê lấy tiền để nuôi gia đình. Mỗi năm Dũng chỉ về nhà được một lần trong dịp tết. Dũng Đen nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng trông mạnh khỏe và lanh lợi, mọi người kêu Dũng Đen vì ngoài cặp mắt ra thì cả người nó đen nhánh. Không biết vì da nó đen hay là vì từ nhỏ đến giờ ở ngoài đồng ruộng nên mới đen như vậy?
15/06/2020(Xem: 4693)
Thuở ấy nơi thành Ca Tỳ La Vệ của xứ Ấn Độ nhiều tín ngưỡng, nhiều giai cấp và nhiều bất công, đấy là nơi lý tưởng cho họ sinh ra và gặp nhau để nối mối lương duyên kết thành vợ chồng trong kiếp cuối cùng. Chàng là Thái tử phước báu đầy người với 32 tướng tốt, sức khỏe phi thường. Nàng là công chúa nước nhỏ láng giềng, dung mạo đoan trang và diễm kiều, lúc nào cũng là đối tượng thu hút cho các vương tôn công tử con nhà quyền quý đến tuổi kén vợ. Nhưng duyên trời đã định sẵn cho họ thành vợ chồng, nên cho dù anh chàng Đề Bà Đạt Đa có ba đầu sáu tay đến đâu, có mưu mô giành giật tới đâu cũng không chiếm được trái tim nàng công chúa khả ái này. Tuy nhiên để cho công bằng và theo đúng luật lệ của hoàng gia, các chàng phải thi đấu trong tất cả các bộ môn từ cung cho tới kiếm, ai chiến thắng sẽ được làm phò mã.
04/06/2020(Xem: 4001)
- Nhanh chân lên các con, vào chòi tránh mưa thôi! Tiếng Thầy gọi, huynh đệ chúng tôi mỗi người cùng phụ nhau đem giỏ thức ăn và mấy đồ lặt vặt đi làm vào trong chòi. Gọi cái chòi chứ thật ra đây chỉ là chuồng Bò cũ của ông Sáu già gần chùa đã bỏ vài năm nay, trống trơn, chỉ còn phần mái che ở trên nhưng tranh cũng đã sắp mục rồi! Giữa bốn bề đồng ruộng trống trơn không có bóng cây thì cái chòi tranh là nơi duy nhất để tạm lánh những lúc nắng mưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]