Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 2: Những chuyện hàm oan

03/04/201312:07(Xem: 9279)
Chương 2: Những chuyện hàm oan
Vụ Án Một Người Tu

Chương 2: Những Chuyện Hàm Oan

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Khi nói đến vấn đề gì có tínhh cách ngang trái, bẽ bàng, khó khăn để diễn tả sự việc, oan ức cho người trong cuộc, người ta thường đề cập đến câu chuyện "Nỗi Oan Thị Kính" hay câu chuyện "Quan Âm Diệu Thiện", hoặc giả câu chuyện "Tình Duyên Tái Thế" được phóng đại từ cốt truyện "Thoát Vòng Tục Lụy" hay "Thiên Kim Tiểu Thư, Vạn Kim Hòa Thượng" để cho người đời biết rằng, đi tu chưa hẳn đã là thành Phật. Đi tu chưa hẳn đã là dứt hết nợ trần và đi tu cũng chưa hẳn đã là quên mình trong quá khứ để tìm đến một tương lai yên tĩnh đẹp đẽ hơn.
Ở đây người viết sẽ lần lượt đưa các độc giả lui về quá khứ, xem lại chuyện xưa, để hiểu cho chuyện nay và thiết nghĩ nhắc lại chuyện xưa ở đây cũng chẳng phải là một việc thừa thãi. Vì quá khứ bao giờ cũng là một chiếc cầu bắt nhịp với tương lai và hiện tại.

Câu chuyện thứ nhất được kể lại như sau:

Có một người con gái tên là Thị Kính. Khi lấy chồng đã hết mực thờ chồng, nhân một hôm người chồng đang ngủ, Thị Kính thấy chồng mình là Thiện Sĩ có cái râu mọc dưới cằm trông khó coi; vì thế nên mới lấy kéo định hớt cái râu kia. Nào ngờ đâu bà già chồng độc ác nghi quấy cho nàng dâu rằng: Thị Kính có ý giết chồng. Nỗi oan nầy biết tỏ cùng ai, có biện minh thế nào đi chăng nữa thì mẹ chồng mình cũng chẳng hiểu được chút nào! Không biết đây có phải là nỗi oan ức giửa mẹ chồng nàng dâu chăng? Người mẹ vì thương con trai mình mà nghi oan giá họa cho con dâu? Và người vợ vì thương chồng mà không dám nói lên sự thật mà mình đã làm như thế, như thế đó. Cũng là tình thương, nhưng hai thứ tình thương nầy lại không gặp được nhau? Tại sao lại ít kỷ quá như vậy?

Câu chuyện không dừng ở đây. Để cho nỏi oan ức của mình được vơi đi, nàng quyết chí vào chùa xuất gia tầm đạo, để quên đi nổi niềm cay đắng của trần gian. Nhưng quan niệm ngày xưa cũng cay đắng đủ điều, vì trọng nam khinh nữ, nên nàng không chọn bên chùa ni đi tu, mà chọn qua chùa nam để cải trang thành nam nhi mà tu cho dễ.

Ở đây một trong hai lý do nêu trên không biết có đúng được phần nào không? Chỉ có người đương thời mới hiểu được. Nếu ngày ấy Thị Kính vào chùa nữ để xuất gia học đạo, tu hạnh giải thoát thì đâu có cái oan thứ 3 là Thị Mầu trêu ghẹo.

Cái oan thứ hai của người con gái thuở bấy giờ là bị chèn ép nhiều quá, nên nàng đã không chọn giải pháp quyên sinh mà là đi tu để cho nhân tâm thế đạo có thay đổi được chăng?

Khi đã cải nam nhi để đi tu có được pháp danh là Kỉnh Tâm, vẩn bị một người đàn bà trắc nết tên là Thị Mầu, đã tư tình với ai đó, bụng mang dạ chửa, không biết đổ tội cho ai, nên mới lên chùa tìm cách lân la với chú tiểu Kỉnh Tâm và đổ thừa cái bào thai kia là tác phẩm của chú tiểu trong bao ngày chăng gió. Làm như là người tu ai cũng dễ đổ thừa được như thế. Đây là nổi oan thứ 3 của nàng Thị Kính.Ai biện bạch được cho mình đây? Không lẽ bây giờ tự dưng mình khai là nữ nhân mạo nhận nam nhân để vào chùa xuất gia học đạo? Nói như vậy chẳng khác nào thú tội với người ta là: "lạy ông tôi ở bụi nầy". Chi bằng lặng yên để nhận tội với dâng làng và Sư Cụ rằng cái bào thai ấy chính do mình gây nên. Vì thế dây chuông oan nghiệt mới kết thúc cuộc đời của một người trai không thành trai mà gái cũng chẳng thành gái.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4641)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43767)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4376)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4223)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6342)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4611)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4025)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24926)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23995)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]