Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiệp lực, mi là ai?

24/06/202307:38(Xem: 9110)
Nghiệp lực, mi là ai?

dau hoi

Nghiệp lực, mi là ai?


 

Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP. Chả thế sao có người lúc nào cũng than vãn: "Trời ơi! Sao nghiệp tôi nặng thế này! ". Nếu than mà đỡ khổ hay nghiệp giảm bớt đi thì ông trời cũng chịu khó cho thiên hạ réo tên. Riêng tôi có lẽ kiên cường hơn, ít khi nào ngửa mặt lên trời kêu khổ, mặc dù nghiệp quả của tôi chất đầy, đã có vị trưởng lão đặt cho tôi danh hiệu: "Người nhìn đâu cũng thấy nghiệp". Cuộc đời của tôi quá ly kỳ và đặc biệt! 

 

Tôi sẽ không mất thì giờ kể lể ỉ ôi nỗi khổ niềm đau của mình, chỉ khoanh vùng trong bốn chữ T to đùng: "Tình, Tiền, Tù, Tội", có bốn chữ mà tôi đã nhận đủ cả hai chữ đứng đầu bảng, còn hai chữ cuối nhờ khéo Tu nên tôi chưa bị vướng vào. Vậy các bạn hãy theo dõi câu chuyện chuyển hóa khổ đau của tôi, cũng đồng nghĩa với sự chuyển nghiệp, làm vô hiệu hóa các nghiệp quả mà tôi đã gánh chịu. Biến bốn chữ T to đùng thành "Tu, Tấn, Tịnh, Tuệ", nghe thoải mái và an lạc hơn! 

 

Câu hỏi "Nghiệp lực, mi là ai?", từ đâu tới, cứ lẩn quẩn mãi trong đầu, chắc chắn mi đến từ kiếp trước hay nhiều nhiều kiếp trước, chứ kiếp này chưa kịp làm điều gì sai trái đã nhận quả rồi! Lúc ấy tôi rất muốn biết kiếp trước tôi đã gây ra nhân gì, nhưng đường tu quá thấp chưa chứng được Túc mạng thông nên chỉ đoán mò và cuối cùng không buồn nghĩ nữa, chỉ cố gắng tu tập để giải nghiệp. 

 

Trong tám vạn bốn nghìn Pháp môn, tôi chỉ chọn ra hai hướng thích hợp với căn cơ của tôi, đó là Niệm Phật và Lạy Sám hối Hồng danh các vị Phật, quán tưởng đến các công hạnh của các Ngài. Có người hỏi tôi, sao lại chọn câu Niệm Phật có vẻ thụ động và dễ dàng thế, chỉ dành cho các cụ lớn tuổi là thích hợp? Các cụ đã trả gần xong nợ tình lẫn nợ đời, nên Niệm Phật nghiêm mật để Phật A Di Đà phóng quang rước về Cực Lạc Cảnh Giới như mong đợi. Còn tôi mới bước chân vào đời, mải lo cơm áo gạo tiền nuôi một lúc đến ba cậu con trai hay ăn chóng lớn, nếu Phật Di Đà có khuyến mãi với chương trình "Đới nghiệp vãng sanh" thật hấp dẫn, chưa chắc tôi đã sẵn sàng! 

 

Ấy là do nghiệp duyên và nghiệp quả của tôi dẫn dắt, cho tôi yêu và lấy một anh chồng độc đáo! Anh ấy luôn là phe đối lập của tôi, chúng tôi tranh cãi về tất cả các đề tài, bên tám lạng người nửa cân, nhưng anh ấy luôn lấy quyền gia trưởng "Chồng nói thì vợ phải nghe!" ra lấn áp tôi. Nghĩ mình là đệ tử của Phật, không thể bắt chước đệ tử của Bà La Môn tối ngày đi tranh cãi mất hết cả hòa khí, tôi âm thầm Niệm Phật giả vờ lắng nghe giọng điệu "Mèo trắng nói thành mèo đen" của Chàng cho êm cửa êm nhà! Thì trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có ghi rõ "Một niệm Quán Âm hầm lửa sẽ biến thành hồ Sen", tôi cứ việc hành trì.

 

Chàng lúc nào cũng tỏ ra mình là một người Tri thức, thông minh, trên thông thiên văn, dưới làu địa lý, lúc nào cũng đứng trên đỉnh núi Tu Di cao chót vót. Tôi trái lại chỉ muốn mình là một người có Trí tuệ, nên nghĩ mình chỉ là giun dế lủi xuống đất chẳng bị té đau. Từ đó trong nhà có hai phép tu của Chàng Trí Thức và Nàng Trí Tuệ:

 

. Thông minh là năng lực của Chàng Trí Thức, tâm lúc nào cũng nặng chuyện được mất hơn thua. Trí Tuệ là cảnh giới của tâm hồn, xem nhẹ và xả bỏ như câu thơ của Thiền Sư Vạn Hạnh, mọi chuyện thịnh suy xem như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. 

 

. Thông minh không dễ để mình bị thiệt, thế nên Chàng Trí Thức chẳng biết nhường nhịn ai. Thấy Nàng Trí Tuệ chịu thua thiệt, chàng nổi nóng mắng nàng ngu dốt. 

 

. Thông minh biết bản thân làm được gì? Trí Tuệ biết bản thân không làm được điều gì? Thế nên Chàng Trí Thức rất tự cao tự đại cho tài tán gái trẻ của mình mà lăn trôi mãi trong sáu nẻo luân hồi. 

 

. Thông minh biết nắm bắt cơ hội, tận dụng thời cơ để ra tay, còn Trí Tuệ biết khi nào nên buông tay. Chữ Buông tưởng đơn giản, nhưng có người đến chết vẫn còn nắm chặt hai tay. Tóm lại, cầm lên được là thông minh, còn bỏ xuống được là trí tuệ. 

 

. Thông minh thể hiện thế mạnh, bộc lộ hết tài năng. Còn Trí Tuệ thật khiêm nhường, biểu lộ giống như khờ khạo. Trong 36 phép biến hóa của Tôn Tẩn có chiêu "Giả dại qua ải", khiến đối phương coi thường mà chuyển bại thành thắng. 

 

. Thông minh cố tìm cách thay đổi người để theo ý mình, còn Trí Tuệ thì thuận theo lẽ tự nhiên. Giống như câu "Đất không chịu trời thì trời phải chịu đất".

 

. Thông minh có nhiều tri thức hơn, nhưng Trí Tuệ có văn hóa. 

 

. Thông minh là bản tính trời sinh, nhưng Trí Tuệ là do tu dưỡng mà thành. 

 

Chàng Trí Thức chỉ cầu tài nhờ thông minh, nhưng Nàng Trí Tuệ có thảnh thơi an lạc nhờ trí tuệ. 

 

Sau một thời gian dài tu tập, nghiên cứu biết bao kinh điển, dùng Duy thức học để phân tích các loại tâm, biết cách đối trị với Tâm Vương rồi Tâm Sở. Tuy chỉ chạm vào vỏ ngoài của các loại Tâm, nhưng tôi cũng biến cái "Địa ngục" nho nhỏ của mình thành tro bụi, không cho nó cháy thường xuyên nữa. 

 

Tưởng đâu nhẫn nhịn Ba La Mật là yên ổn, tôi sẽ sống bình yên và hạnh phúc trong vòng tay êm ấm của gia đình. Nhưng nghiệp quả của tôi quá lớn, đến tuổi gần sáu mươi tôi vẫn đón nhận một loại "Oan gia trái chủ" vào sống trong nhà. Đến đây tôi đã hiểu, chỉ có Pháp môn Lạy Sám Hối mới làm tiêu nghiệp của tôi một cách từ từ, một kiểu "Có còn hơn không" như bài hát "Thà như giọt mưa" của nhà thơ thất tình Nguyễn Tất Nhiên. Sáng nào thức dậy tôi cũng quyết tâm lạy đủ một trăm lạy, hôm nào bận việc tối về phải lạy bù. Nếu không lấy sự tinh tấn và lòng dũng cảm ra đối phó với các con ma lãi đãi, chắc nghiệp của tôi vẫn còn nguyên. Tôi không thể sáng suốt nghĩ ra đường hướng khả thi để gỡ rối tơ lòng cho một mối bòng bong vào thời điểm ấy! 

 

Hôm đầu tiên thực hiện quyết tâm, tôi đạt được trạng thái ê ẩm khắp toàn thân, đôi chân như đeo đá khi leo cầu thang lên xuống trong nhà. Để Bồ Đề Tâm được kiên cố, tôi phải hạ xuống lạy chỉ ba mươi, cho cơ thể quen đi với những đổi thay, rồi gia tăng tốc độ từ từ cho đến khi đạt đúng chỉ tiêu rồi đi vào quỹ đạo hằng ngày. 

 

Thời gian thấm thoát thoi đưa, quay đi ngoảnh lại tôi đã Sám hối được mười năm và đã thuộc lòng tên các vị Phật theo thứ tự trên dưới ghi trong kinh sách, không cần phải nhìn bài bản. Điều này rất quan trọng, vì tôi hay đi du lịch xa, nhiều lúc phải trải chiếu ngoài biển vắng lạy Phật. Cho đến một hôm tôi tình cờ biết được cái nhân đau thương từ bao kiếp trước, để bây giờ phải chịu quả đắng cay! Có một kiếp nào đó, tôi đã không chung thủy với chồng, đã phụ bạc một ông Quan Phủ quyền cao chức trọng, để yêu thương một anh Kép Hát trăng hoa. Rồi tương tư sầu muộn đến sinh bệnh mà chết như câu:

Khối tình mang xuống tuyền đài.

Hận tình đến thác vẫn còn vương tơ.

Eo ơi! Thật là ghê sợ, khi kiếp này gặp lại đầy đủ cả hai: Người tình kiếp trước trở thành người chồng và người chồng kiếp trước dĩ nhiên thành người tình. Khi tôi kể lại câu chuyện này, bạn Đạo cũng như bạn Đời đều cho tôi thuộc loại "Madame de hoang tưởng" không chịu tin. Nhưng cũng chẳng sao, miễn tôi tin là được! Nhờ câu chuyện hoang tưởng ấy, tôi biết tội lỗi từ kiếp trước của mình nên không than van trách móc gì về tính tình phong cách của người chồng định mệnh mà tôi đã ước hẹn. Mình làm nhân xấu thì phải vui vẻ để người ta đòi nợ, bụng làm dạ chịu chớ có than van!

 

Tuy vậy tôi cũng chịu nhiều áp lực từ mọi phía đổ ập vào, ai cũng lắc đầu ngao ngán cho cái NGHIỆP kỳ quái của tôi. Ai cũng cho kế sách để tôi hạ cánh được an toàn, dùng kế thứ 36 của Tôn Tẩn: "Tẩu vi thượng sách", nhưng nghiệp cũ, nghiệp mới chất đầy, nợ tình, nợ tiền lời lãi gia tăng, chủ nợ đâu dễ dàng cho mình xù nợ! Thôi, cứ hiên ngang trả nợ, nhìn ngọn sóng cao thấp như thế nào mà nhảy lên, chớ đừng quay lưng sẽ bị sóng đánh ụp thiệt thôi! 

 

Nhớ lời Sư Ông Thiền Chánh Niệm: "Này con, có một thứ hành trang giúp con thanh thản đi qua những ngày giông bão của kiếp người, đó là TỪ TÂM...". Vâng, chỉ có thứ hành trang này mới làm tôi đón nhận được các "Oan gia trái chủ" rồi rước về nhà. Với lòng từ tâm tôi có thể làm được những việc mà ít ai có thể làm được. 

 

Bây giờ tôi đã tìm được an bình trong tâm hồn, ở vào tuổi khi quỹ thời gian không còn nhiều nữa, đó cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều người. Tôi nghĩ, tôi có quyền hãnh diện về điều đó! 

 

 

Hoa Lan - Thiện Giới. 

Mùa Xuân 2023.

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/07/2013(Xem: 10616)
Hoa Bất Diệt - Quang Lê & Hương Thủy
30/06/2013(Xem: 7531)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật.
01/06/2013(Xem: 4650)
Nói đến hồ Tịnh Tâm ở cố đô Huế, mọi người liên tưởng ngay đến sen. Một loài hoa tinh khiết, cao quý nhưng lại được mọc lên từ đất bùn nơi các ao hồ. Suốt cả một thời gian dài trong năm, mặt hồ Tịnh Tâm lặng lẽ chỉ có gió nước, nắng mưa, bèo và rau muống, không hề thấy dấu vết của sen hồng, sen bạch. Cuối mùa xuân, những tia nắng vàng giúp cho những cuống lá sen dần dần mở ra, trải rộng những hình tròn màu lục non với vô số đường gân mơ hồ vàng trắng đan lồng nhau như tơ trời, gợi lên những kỳ vọng về một tương lai thanh bình của loài người. Qua mùa hạ, sắp đến mùa Phật đản chúng ta sẽ thấy những phép lạ từ mặt hồ Tịnh Tâm.
28/05/2013(Xem: 4624)
Hoàng hậu Mahamaya sinh Siddhartha một cách rất dễ dàng. Trên con đường về quê ngoại để sinh nở, bà và đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ ngơi ở vườn Lumbini.
27/05/2013(Xem: 6530)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10974)
Thật chẳng có gì mỉa mai hơn khi giới thiệu một vị thầy đã thấy rõ cái giả tướng, hư vọng của đời sống và truyền trao cho đời những giáo pháp từ đơn giản, dễ hiểu, lên đến những thâm sâu, uyên áo bằng những lời chỉ dạy có giải đáp rõ ràng, mà lại được giới thiệu, bắt đầu bằng một câu chuyện thần thoại, hoang đường, có đầu mà không có kết: Một hài nhi vừa mới ra đời đã vươn dạy, đi đứng quen thuộc, tuyên bố lời dị thường, rồi sau đó không lẽ lại rùng mình ngã trở lại vào vòng tay nâng đỡ của thường nhân? hay là gì khác (chẳng thấy kể ra)? hay chỉ tan vào hư ảo như lúc nó xuất hiện?
22/05/2013(Xem: 4235)
Đức Phật xuất hiện giữa cõi đời, không như những vị thần linh và không hề mặc khải cho ai và cũng không hề để cho ai mặc khải, mà Ngài xuất hiện giữa cõi đời với tư cách của một bậc Giác ngộ hoàn toàn, nội hàm đầy đủ hai chất liệu đại trí và đại bi, đến và đi duyên theo đại nguyện.
18/05/2013(Xem: 7382)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]