Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thông điệp của Bộ Đối thoại Liên tôn gửi Phật tử nhân dịp Đại lễ Vesak 2023

21/05/202317:42(Xem: 1891)
Thông điệp của Bộ Đối thoại Liên tôn gửi Phật tử nhân dịp Đại lễ Vesak 2023

Thông điệp của Bộ Đối thoại Liên tôn
gửi Phật tử nhân dịp Đại lễ Vesak 2023

(Message of the Dicastery for Interreligious Dialogue
to Buddhists on the occasion of the Feast of Vesak 2023)



21.04.2023

Nhân dịp Đại lễ Vesak, kỷ niệm những sự kiện chính trong cuộc đời của Đức Phật, Bộ Đối thoại Liên tôn thuộc Tòa thánh Vatican chân thành gửi một thông điệp chào mừng đến các Phật giáo đồ trên toàn thế giới, với tựa đề: “Phật tử và Cơ đốc nhân: Chữa lành vết thương cho nhân loại và hành tinh thông qua Karuna (từ bi tâm) và Agape (lòng bác ái).” (Buddhists and Christians: Healing wounded humanity and the earth through Karuna and Agape)

Sau đây là nội dung của Thông điệp được ký bởi Bộ trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn, Đức Hồng Y Ángel Ayuso Guixot, M.C.C.J., và Thư ký của cùng Bộ Linh mục Indunil Janakaratne Kodithuwakku Kankanamalage:

Phật tử và Kitô hữu

Chữa lành Nhân loại và Hành tinh bị tổn thương thông qua Karuna (từ bi tâm) và Agape (lòng bác ái).

Quý Phật tử thân mến,

Bộ này, trước đây được gọi là Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, gửi đến quý Phật tử lời chào thân ái nhân dịp Đại lễ Vesak, một thời điểm lễ hội mà quý Phật tử kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật, Đản sinh, Thành đạo và Niết bàn. Hy vọng lễ hội này một lần nữa truyền cảm hứng cho các Đạo hữu tiếp tục hành trình tìm hiểu sâu sắc về bản chất của khổ đau, những điều kiện gây ra khổ đau và cách vượt qua đau khổ.

Cuộc sống có phần đau khổ và vết thương, những dịp lễ hội có thể tạo khoảng cách cần thiết với thói quen thường nhật của chúng ta để tiếp cận chúng với cái nhìn sâu sắc mới. Ngày nay, sự trao đổi thông tin giữa các cá nhân ngày càng gia tăng trong thế giới toàn cầu hóa, đã khiến chúng ta nhận thức được rằng những vấn đề chúng ta gặp phải không phải là cá biệt; chúng là kết quả của những căng thẳng và tệ nạn đang bám víu toàn thể nhân loại. Có rất nhiều vết thương đang gây ra cho thế giới; nghèo đói, phân biệt đối xử và bạo lực; sự thờ ơ đối với người nghèo, tình trạng nô lệ do các mô hình phát triển không tôn trọng con người và thiên nhiên; sự căm ghét được thúc đẩy bởi tác động chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc; trên hết là thái độ tuyệt vọng với cuộc sống thể hiện qua nhiều kiểu lo lắng và nghiện ngập. Tất cả những thực tế này phơi bày lỗ hổng chung của chúng ta một cách đau đớn.

Nhận thức sâu sắc về tính dễ bị tổn thương chung này đòi hỏi những hình thức liên đới mới được định hình bởi các truyền thống tôn giáo tương ứng của chúng ta, qua đó chúng ta tìm kiếm “câu trả lời cho những thắc mắc chưa được giải đáp về thân phận con người vốn đánh động sâu sắc trái tim con người” (xem Nostra Aetate 1). Bởi vì chúng ta cùng chung một đại gia đình nhân loại, nên tất cả chúng ta đều có quan hệ với nhau như anh chị em, những người cùng sống phụ thuộc lẫn nhau trên hành tinh này. Chúng ta đi trên cùng một con thuyền, “nơi vấn đề của cá nhân một người tức là vấn đề của tất cả mọi người. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được tự cứu một mình; chỉ có thể cùng nhau được cứu chung cho tất cả chúng ta” (ĐGH Francis, Fratelli Tutti, 32). Đây là lý do tại sao chúng tôi cho rằng việc nhớ lại tiềm năng của các truyền thống tôn giáo tương ứng của chúng ta là có thể đưa ra các phương dược liệu có khả năng chữa lành vết thương trầm trọng của chúng ta, của gia đình, quốc gia và hành tinh của chúng ta.

Các Đạo hữu Phật tử thân mến, các Đạo hữu chữa trị bệnh khi thể hiện Karruna – từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh, được giáo huấn từ kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật (Sutta Nipata 1.8, Sutta Nipata 2.4) hoặc khi các Đạo hữu hành động vị tha như các vị Bồ tát, người đã từ bỏ quả vị Niết bàn và thị hiện tại thế gian để hành đạo Bồ tát giúp tất cả chúng sinh vơi bớt đi những nỗi khổ niềm đau cho đến khi họ được giải thoát, đạt đến an lạc hanh phúc. Đức Phật mô tả một người hoàn toàn được thông báo bởi karuna: “Cuộc sống của vị ấy một hướng tràn ngập suối nguồn từ bi tâm. Ngoài ra, hướng thứ hai, hướng thứ ba, hướng thứ tư cũng vậy. Như thế trên, dưới, xung quanh, khắp nơi, đồng hóa mình với tất cả, vị ấy sống tràn ngập thế giới của tất cả (chúng sinh) với từ bi tâm, bao la, siêu phàm, không giới hạn, không thù hận, không sân hận” (Abhidhamma Pitakaya Vibhanga b). Những người sống với lòng đồng hành với từ bi tâm đưa ra liều thuốc giải độc cho những cuộc khủng hoảng toàn cầu mà chúng tôi đã đề cập, cống hiến từ bi tâm toàn diện để đối phó với những tệ nạn lan rộng và liên kết với nhau.

Tương tự, đối với những Cơ đốc nhân, không có phương thuốc nào hữu hiệu hơn là thực hành agape (lòng bác ái), di sản vĩ đại mà Đức Chúa Giê-su để lại cho các môn đồ. Đức Chúa Giê-su ban cho các môn đệ món quà tình yêu thiêng liêng – agape – và dạy họ yêu thương nhau (x. Ga 15:13). Ngài đã đưa ra ví dụ về một người đàn ông đã bỏ công chăm sóc một người khách lạ, kẻ thù của dân tộc mình, người đã trở thành nạn nhân của bọn cướp: “Một người Sa-ma-ri đi đường, đến nơi anh ta ở; Người chạnh lòng thương, đến gần, băng bó vết thương, thoa bôi dầu và rượu, rồi đặt anh ta lên lưng con vật của mình, đưa vào quán trọ và chăm sóc cho anh ta” (Lc 10,33-34). Người Samari thể hiện sự gần gũi cụ thể với người đang cần giúp đỡ. Tôi muốn ôn lại lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng Franciscus hãy phục vụ người khác với lòng trắc ẩn, yêu thương một cách cụ thể chứ không phải trừu tượng, với một tình yêu “là ân sủng, quảng đại ước muốn đến gần, một tình yêu không ngại hy sinh cho người yêu. Trong mọi sự bác ái, tình yêu, là chia sẻ với người mình yêu. Tình yêu làm cho chúng ta như nhau, nó tạo ra sự bình đẳng, nó phá vỡ những bức tường và xóa bỏ khoảng cách” (Sứ điệp Mùa Chay 2014). Tương tự như thế, sự nhấn mạnh của Đức Phật về việc rèn luyện trái tim đặc biệt có giá trị khi chúng ta cùng nhau tiến lên trong nỗ lực mang lại sự chữa lành: “Hãy phát triển thiền định về từ bi tâm; vì khi các vị phát triển thiền định về từ bi tâm, mọi hành động độc ác sẽ tiêu tan” (Maharahulovada Sutta - MN 62).

Mong tất cả chúng ta cố gắng sống với tình yêu thương và từ bi tâm lớn hơn, cùng nhau kiến tạo một thế giới công bằng hòa bình và đoàn kết hơn. Hy vọng các Đạo hữu “lan tỏa tình yêu thương vô lượng đến toàn thế giới – trên, dưới và khắp tất cả - không chướng ngại, không sân hận, không hận thù” (Karaniya Metta Sutta, Sn. 1.8). Cầu nguyện quý Đạo hữu Phật tử thân mến được hưởng phúc lành dồi dào và niềm vui được cống hiến vào việc chữa lành những vết thương của xã hội và hành tinh, ngôi nhà chung của chúng ta.

Từ Vatican, ngày 16 tháng 4 năm 2023

Hồng y Miguel Angel Ayuso Guixot,

Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn

Linh mục Indunil Janakaratne Kodithuwakku Kankanamalage

Thư ký

Việt dịch: Thích Vân Phong
Nguồn: Vatican News




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/06/2013(Xem: 7530)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật.
01/06/2013(Xem: 4650)
Nói đến hồ Tịnh Tâm ở cố đô Huế, mọi người liên tưởng ngay đến sen. Một loài hoa tinh khiết, cao quý nhưng lại được mọc lên từ đất bùn nơi các ao hồ. Suốt cả một thời gian dài trong năm, mặt hồ Tịnh Tâm lặng lẽ chỉ có gió nước, nắng mưa, bèo và rau muống, không hề thấy dấu vết của sen hồng, sen bạch. Cuối mùa xuân, những tia nắng vàng giúp cho những cuống lá sen dần dần mở ra, trải rộng những hình tròn màu lục non với vô số đường gân mơ hồ vàng trắng đan lồng nhau như tơ trời, gợi lên những kỳ vọng về một tương lai thanh bình của loài người. Qua mùa hạ, sắp đến mùa Phật đản chúng ta sẽ thấy những phép lạ từ mặt hồ Tịnh Tâm.
28/05/2013(Xem: 4624)
Hoàng hậu Mahamaya sinh Siddhartha một cách rất dễ dàng. Trên con đường về quê ngoại để sinh nở, bà và đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ ngơi ở vườn Lumbini.
27/05/2013(Xem: 6530)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10963)
Thật chẳng có gì mỉa mai hơn khi giới thiệu một vị thầy đã thấy rõ cái giả tướng, hư vọng của đời sống và truyền trao cho đời những giáo pháp từ đơn giản, dễ hiểu, lên đến những thâm sâu, uyên áo bằng những lời chỉ dạy có giải đáp rõ ràng, mà lại được giới thiệu, bắt đầu bằng một câu chuyện thần thoại, hoang đường, có đầu mà không có kết: Một hài nhi vừa mới ra đời đã vươn dạy, đi đứng quen thuộc, tuyên bố lời dị thường, rồi sau đó không lẽ lại rùng mình ngã trở lại vào vòng tay nâng đỡ của thường nhân? hay là gì khác (chẳng thấy kể ra)? hay chỉ tan vào hư ảo như lúc nó xuất hiện?
22/05/2013(Xem: 4234)
Đức Phật xuất hiện giữa cõi đời, không như những vị thần linh và không hề mặc khải cho ai và cũng không hề để cho ai mặc khải, mà Ngài xuất hiện giữa cõi đời với tư cách của một bậc Giác ngộ hoàn toàn, nội hàm đầy đủ hai chất liệu đại trí và đại bi, đến và đi duyên theo đại nguyện.
18/05/2013(Xem: 7379)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
10/04/2013(Xem: 5565)
Chúng ta kỷ niệm đại lễ Phật Đản, tức là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày ra đời của Đấng Thích Ca Mâu Ni, Đức từ phụ của chúng ta. Ngày ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cõi Diêm Phù Đề này có những ý nghĩa trọng đại và sâu xa như sau...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]