Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bán Dạ Du Thành

18/03/201911:47(Xem: 4864)
Bán Dạ Du Thành
ngua kien trac
BÁN DẠ DU THÀNH
Thích Nữ Huệ Trân
                                                    

 

 

          Nửa đêm hôm đó, cổng thành Ca Tỳ La Vệ nhẹ nhàng hé mở. Nhịp vó khẽ khàng của hai con ngựa thong thả lách ra. Hình như chúng cũng biết ý chủ, phải rất từ tốn để không gây tiếng động làm phiền bao người đang an giấc, nhất là đám lính canh ngoài cửa thành. Tuy nhiệm vụ là canh cửa thành, nhưng thời buổi thanh bình thịnh trị quá, có gì bất trắc đâu mà phải lo lắng. Thế nên, vào thời khắc đã quá nửa đêm này, họ đều say ngủ, có khi đang chìm trong bao giấc mộng đẹp không chừng!

          Hai con ngựa ra khỏi cổng thành mà không ai hay biết. Trời tối quá, không nhìn rõ hình dáng và sắc phục của hai người trên lưng ngựa. Nhất là, cả hai đều im lặng. Vó ngựa vẫn chậm rãi thêm một đoạn nữa, dường như để giữ an toàn, đủ khoảng cách không làm thức giấc đám lính canh, hay tâm người trên lưng ngựa đang có chút bâng khuâng, lưu luyến?

Một người  bỗng dừng cương, quay nhìn về phía cổng thành, chắp tay, vái ba lạy. Xong, bằng một thái độ cương quyết, người ấy giật giây cương. Con ngựa trắng chồm lên, tuân lệnh chủ, nhắm hướng nam mà phi nước đại.

          Người và ngựa bên cạnh cũng làm theo như thế.

          Trong bóng đêm, tiếng vó ngựa rộn rã reo vui, đánh thức những vườn cây hồng táo, những ruộng lúa xanh rì, những đường dốc lên đồi cỏ, những lối sỏi ven suối trong veo. Tiếng vó ngựa cũng ca hát với rừng cây, khóm trúc, với làng mạc, thôn xóm, với ruộng lúa, nương dâu, với giòng sông, với núi, với sương đêm ….. Hình như vạn hữu, nơi vó ngựa đi qua đang cùng hòa tấu một bài ca bất tận.

          Đôi ngựa cứ thế, nhắm hướng nam mà phi nhanh trong bóng đêm. Bấy giờ, bầu trời long lanh trăng sao cho thấy lờ mờ bóng người trên lưng ngựa. Người cưỡi ngựa trắng vận áo hoàng bào, người cưỡi ngựa hồng vận áo chẽn lục.

          Họ đi, như đã có chủ đích. Im lặng mà đi. Như giòng sông. Im lặng mà không ngừng. Im lặng mà ra biển. Im lặng mà trở thành trùng dương, thành bao la, thành vô tận …        

          Một sự im lặng hùng tráng!

          Bấy giờ, bóng đêm đang loãng dần. Ánh dương chưa lên nhưng vầng mây hồng nhạt đã hiện. Xa xa là cánh rừng trúc xanh mướt, rậm rạp, mạnh mẽ như muốn vươn tay đón bình minh.

          Người vận áo hoàng bào ghìm cương con ngựa trắng chậm lại, rồi dừng hẳn. Người vận áo chẽn lục cũng làm theo.

          -Ta nghĩ, đã tới nơi.

          -Thưa …

          Người vận áo hoàng bào đã xuống ngựa. Và làm như không nghe thấy giọng nói nghẹn ngào của kẻ đồng hành. Người ấy vuốt ve con ngựa trắng, âu yếm ôm lấy đầu nó. Con ngựa ngẩng nhìn chủ rồi cũng dụi đầu vào vòng tay chủ.

          Khi ấy, người vận áo chẽn xanh cũng đã xuống ngựa, rồi quỳ trên nền đất ẩm.

          Vẫn làm như không thấy cử chỉ của kẻ đồng hành, người vận áo hoàng bào nhìn vào đôi mắt long lanh của bạch mã mà chân thiết nói rằng:

          -Kiền-Trắc, ta cám ơn con đã đưa ta tới những nơi ta muốn tới. Bao năm nay ta đã cùng con chứng kiến muôn vàn cảnh khổ của trần gian. Con có nhớ hay không, Kiền-Trắc? Lần đầu, con đưa ta ra bốn cửa thành, để ta thấy được bốn cảnh khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đó là chặng đường không một chúng sinh nào thoát khỏi. Con có biết là từ cảnh đó, lòng ta đã khởi lên nghi hoặc “chẳng lẽ chúng sinh phải chìm đắm mãi trong luân hồi đau khổ này? Phải có con đường thoát khổ chứ! Con đường đó là gì? Con đường đó ở đâu? Ai sẽ tìm ra? Ai sẽ dẫn dắt? Hạnh phúc là gì? Nếu cười hôm nay mà khóc ngày mai, nếu có hôm nay mà mất ngày mai thì đó không phải là hạnh phúc! Đó chỉ là bóng! Vậy hạnh phúc đích thực ở đâu?”

Kiền-Trắc ơi, ta đã không thể ngừng – dù chỉ phút giây – băn khoăn về những dấu hỏi đó. Ta biết rằng, rồi một ngày, chính ta phải đi tìm. Muốn đi tìm, ta phải dứt bỏ đời sống ràng buộc, dù đời sống đó là cung vàng điện ngọc. Tìm được hay không, ta chưa biết, nhưng biết chắc rằng, ta phải bắt đầu cuộc tìm kiếm. Ngày bắt đầu đó chính là hôm nay, là giờ phút này. Ta vừa giã từ hoàng-gia. Bây giờ, ta cám ơn con và sẽ giã từ con. Ta sẽ đi vào cánh rừng kia và sẽ bắt đầu đời sống của người sa-môn không nhà.

          -Điện hạ!...

          Người vận áo chẽn lục khóc nấc lên, vẫn quỳ gối mà hai tay ôm mặt, khóc nức nở. Người ấy biết rằng lời nói với Kiền-Trắc chính là nói cho anh ta nghe.

          -Xa-Nặc, anh đã hiểu lòng ta rồi mà! Anh đã biết có ngày ta sẽ rời hoàng cung, phải không? Anh không phải chỉ là người đánh xe mà còn là bạn tốt của ta bấy lâu nay. Chính vì vậy mà ta sẽ nhờ cậy anh thêm một việc quan trọng.

          Trong khi Xa-Nặc còn bàng hoàng thì nhanh như cắt, người vận áo hoàng-bào đã rút thanh đoản kiếm đeo bên hông, nghiêng đầu, cắt đứt mái tóc xanh và tháo chuỗi ngọc đeo nơi cổ, trao cho Xa-Nặc:

          -Anh đem hai kỷ vật này về, dâng lên phụ vương và mẫu hậu ta, thay lời tạ tội. Anh hãy thưa rõ tâm nguyện của ta, ta tin là hoàng-gia sẽ thông cảm mà thôi.

          -Trăm lạy Điện-hạ, dầu Điện-hạ đi đâu cũng xin cho con theo hầu. Xin đừng bắt con về báo tin dữ này. Trăm lạy Điện-hạ, xin Điện-hạ nhủ lòng thương con.

          -Đừng làm ta thất vọng, Xa-Nặc. Giờ này chắc hoàng-gia đang xôn xao đi tìm ta. Anh là người duy nhất giúp ta đem tin về. Hãy đứng lên và dắt Kiền-Trắc cùng về. Hãy chăm sóc nó thay ta. Đi mau đi!

          Nói rồi người ấy tiến tới, đỡ Xa-Nặc đứng dậy, ôm bạn giây lát, vuốt ve hai con ngựa, rồi, không nói gì thêm nữa, người ấy thong thả đi về phía cửa rừng.

          Xa-Nặc đứng lặng, nhìn theo từng bước chân vị Thái-tử, nay là những bước chân đầu tiên của vị sa-môn quyết tâm đi tìm Đạo Cả, giúp chúng sinh thoát khỏi lưới vô minh luân hồi.

 

          Bấy giờ, ánh dương vừa rạng ở phương đông, lấp lánh những vệt nắng tinh khôi óng ánh, rực rỡ cánh rừng trúc, nơi vị Thái-tử con vua Tịnh Phạn của vương quốc Thích Ca vừa đổi chiếc áo hoàng bào cho người thợ săn để mặc vào mình tấm áo sa-môn bạc mầu phấn tảo.

 

          Đó là ngày tám, tháng hai của một năm xa xưa.

          Ngày Thái-tử Tất Đạt Đa “Bán dạ du thành, xuất gia tầm đạo”.

 

 

Cali,Tào Khê Tịnh Thất mùa Phật Đản 2643 (2019)

TN Huệ Trân
     

                                                           

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/04/2011(Xem: 7144)
Nguồn gốc của lễ tắm Phật bắt nguồn từ sự tích đức Phật đản sinh, Tương truyền khi Phật giáng sinh, có chín vị rồng tới phun nước tắm rửa cho Ngài. Cùng với nước là hương hoa do các vị trời rơi xuống làm thanh tịnh thân Phật.
22/04/2011(Xem: 5033)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
18/04/2011(Xem: 4441)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
17/04/2011(Xem: 4386)
Tháng Tư mùa Hạ, cũng như toàn thể cộng đồng Phật giáo trên thế giới, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hân hoan bước vào mùa Phật đản, chào mừng ngàytrăng tròn của tháng, ngày xuất hiện trên đời của Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, đấng Hy hữu Đại Pháp Vương.
16/04/2011(Xem: 10399)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
14/04/2011(Xem: 5714)
Nhân dịp Đại Lễ Phật Đản Sinh, Ban Biên Tập chúng tôi kính giới thiệu đến chư Tôn Đức Tăng Ni, Phật Tử trong và ngoài nước hình ảnh lịch sử Đức Phật theo truyền thuyết của Phật Giáo BắcTông. (đây là bản quyền của TT.Thích Đồng Văn chùa Viên Giác cung cấp).
14/04/2011(Xem: 5269)
ĐứcThích Tôn xuống phàm trần vì một niềm tin không gì lay chuyển nổi, vì Ngài tin rằng hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh và đầy đủ tất cả các tính năng có thể thành Phật, chỉ cần có người khai đạo thì tính năng thành Phật ấy lập tức thành tựu và một vị Phật trong tương lai bắt đầu cuộc hành trình tìm lại cội nguồn của chính mình, từng bước lấy lại những khả năng thành Phật của mình đã đánh mất, tự mình hoàn thiện, cụ túc các duyên thành Vô Thượng Giác, cho nên trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Phật dạy: "Đức Phật ra đời vì một nhân duyên lớn, đó là khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến".
11/04/2011(Xem: 7498)
Có những nước Á Châu như nước Xilanca, vào ngày Phật Đản không có ai bị đói bụng hết. Tại vì nhà nào cũng để mâm cơm ở trước cửa và bất cứ ai đói bụng cũng đều được mời ăn cơm đó. Trong ngày Phật Đản không có ai bị đói vì nhà nào cũng cúng dường cơm, chùa nào cũng cúng dường cơm. Đây là một truyền thống có từ mấy ngàn năm trước, từ thời Đức Thế Tôn.
11/04/2011(Xem: 19962)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
10/04/2011(Xem: 6556)
Cách đây hơn 2500 năm, tại miền Bắc Ấn Độ xuất hiện một vị thái tử. Thái tử lớn lên trong thương yêu kính mộ nhưbao nhiêu thái tử con vua mọi vương triều. Tuy nhiên vị Tháitử có tên Tất Đạt Đa này lại có một điểm hoàn toànkhác biệt với bao thái tử xưa nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]