Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Hiện Sinh Đến Đản Sinh

23/04/201716:22(Xem: 4582)
Từ Hiện Sinh Đến Đản Sinh


Duc Phat Dan Sanh-1


Từ Hiện Sinh Đến Đản Sinh

Tâm Huy Huỳnh Kim Quang


 

Có những bước chân thật lầm lũi, lầm lũi đến mức độ từ khi đến cho tới khi đi đều không tác tạo một âm ba nào, tưởng chừng như không là một hiện hữu! Nhưng cũng có những bước chân qua đi rồi mà vẫn còn vang dội mãi đến ngàn sau, tưởng chừng như muôn ngàn hiện hữu.

Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động. Dòng hiện sinh của nó là những cung bậc hòa điệu với giao hưởng khúc thiên thu của vũ trụ.

 

“Người nằm xuống cho ngàn năm vang bóng

Ta bước qua từ ngữ rụng hai lần

Tờ sa mạc như bôi phong tẩy địa

Trút linh hồn dường như thể như thân” (Bùi Giáng)

 

Nhưng, hiện hữu là gì? Hiện sinh là gì? Con người là gì? Ta là gì? Ta là ai?

Rõ ràng là một trò đùa lẩn quẩn! Hỏi tức là hỏi về một cái gì. Sự kiện này có nghĩa là có ít nhất hai sự thể hiện hữu, hiện hữu với chủ thể tính và khách thể tính. Hỏi tức là vươn tới một cái gì, tìm tòi một cái gì, chờ đợi một cái gì - một cái gì như là đối tượng. Sự kiện này có nghĩa là chủ thể tính hỏi còn mông muội về đối tượng được hỏi. Từ những sự kiện trên, người ta có thể thấy được rằng đặt tra vấn - Hiện hữu là gì? Hiện sinh là gì? Con người là gì? Ta là gì? Ta là Ai? – là một tra vấn về những tra vấn, hay nói cách khác, là một câu hỏi được hỏi về những câu hỏi. Đây là một bế tắc, một bế tắc không thể vượt qua bằng những tra vấn có tính cách ước lệ.

Trong ý nghĩa đó, ngày nào mà một hiện hữu chưa làm linh hiện được ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó thì ngày đó cuộc đời vẫn còn là một tra vấn, một câu hỏi, một sự lầm lũi phong kín! Đạo Phật gọi tình trạng đó là vô minh, là một cơn đại mộng.

 

“Xử thế nhược đại mộng

Hồ vi lao kỳ sinh” (Lý Bạch)

Trần gian là giấc mộng dài

Làm chi cho mệt một đời phù sinh.

 

Hay như trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa:

 

“Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào ảnh,

Như lộ, diệc như điễn;

Ưng tác như thị quán”.

 

Hãy quán sát tất cả các pháp có tạo tác đều như giấc mộng, không thực, bọt nước, sương, điện chớp.

Là một tra vấn, một cuộc hành trình lầm lũi, một cơn đại mộng, kiếp người như là lữ hành mù lòa, quờ quạng trong đêm tối, như là cánh bèo trôi giạt theo dòng thác lũ vô minh, nghiệp lực! Chúng ta không biết mình là gì, không biết mình là ai! Chúng ta vay mượn kiến thức, vay mượn ngữ ngôn của thế giới ước lệ, vay mượn vai trò diễn viên trên sân khấu cuộc đời để thao tác, để múa may quay cuồng một thời rồi ra đi, rồi trở lại. Đâu là chỗ khởi đầu? Đâu là nơi chung cuộc? Không biết! Chúng ta không biết gì về mình, không biết gì về người.

Tại sao chúng ta phải hiện hữu, thay vì không?

Trong cơn đại mộng này, trong cuộc hành trình lầm lũi này, chúng ta thường trực cưu mang những lo âu sợ hãi, những vui buồn phiền muộn, những bất an xáo trộn. Chúng ta vay mượn danh ngôn của thế giới ước lệ để biến chúng thành sự thỏa mãn tạm thời hay mối đe dọa thường xuyên đối với chúng ta. Chúng ta đặt ra những quy ước, những phạm trù cho phương cách tư duy, lý luận và hành động để buộc trói mình, để áp đặt lên tha nhân. Cuối cùng tất cả đều không có lối thoát. Huyễn sinh vì vậy đã thành phù sinh.

 

“Thảo nào khi mới chôn nhau, 

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra ! 

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế, 

Ai bày trò bãi bể nương dâu, 

Trắng răng đến thuở bạc đầu, 

 Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần. 

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc, 

Lớp cùng thông thiêu đốt buồng gan, 

Bệnh trần đòi đoạn tâm can, 

Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da. 

Gót danh lợi bùn pha sắc xám, 

Mặt phong trần nắng rám mùi dâu, 

Nghĩ thân phù thế mà đau, 

Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”.                                                                                                                                                                

(Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Cung Oán Ngâm Khúc)

 

Giờ đây cuộc hành trình lầm lũi đã lạc sâu vào mê cung tăm tối, cơn đại mộng đã thành cơn ác mộng.

Cũng có thể sự thực không như vậy. Tại sao ta phải tra vấn về mình, tra vấn về hiện hữu, tra vấn về con người? Tại sao ta phải áp đặt những tra vấn lên một thực tại đang sống, đang có mặt sờ sờ ra đó? Ta đang có mặt, có nghĩa là ta đang hiển hiện với ý nghĩa hiện sinh. Tại sao ta phải chối bỏ mình, chối bỏ một hiện hữu đang hiện thực? Không! Ta đang sống có nghĩa là ta đang hiện hữu và ta phải sống trọn vẹn với những gì ta đang có. Ta có quyền buồn, vui, phiền muộn. Ta có quyền say sưa hưởng thụ. Làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn không phải là sống trọn vẹn với giây phút hiện tiền mà ta đang hiện hữu đó sao?

Nhưng có một sự thật mà ta không thể chối cãi. Đó là sau những cơn say, sau những phút giây cuồng nhiệt, ta thấy mình trống rỗng, ta thấy mình mất thăng bằng trên nhịp sống bình thường, như thể ta bị đánh rơi xuống vực thẳm. Trong những trạng thái đó, thế giới chung quanh ta bỗng trở nên xa lạ, cô liêu và quạnh quẽ khác thường. Ta nghe được sự thiếu vắng mênh mông trong thân phận một kiếp người. Thì ra ta chưa hề hiện hữu một cách thường trực và thực tại. Tại sao? Ta là gì? Con người là gì? Ta có thực sự hiện sinh không?

Lại những câu hỏi về những câu hỏi!

Lúc con người chìm sâu trong sự cô đơn, trống vắng là lúc nó đối mặt với chính nó thực sự. Nhưng chúng ta sợ hãi sự cô đơn, sợ hãi sự trống vắng. Chúng ta tìm mọi cách để trốn chạy. Chúng ta khát khao muốn tìm lại mình, nhưng bằng phương thức trốn chạy, nên chúng ta vĩnh viễn không biết mình là gì. Sự khát khao muốn tìm lại mình và muốn biết mình là gì chính là nỗi khát khao muôn thuở của con người, của hiện hữu. Nó còn có thể được coi như là mục tiêu tối thượng của đời sống. Vì mọi tra vấn, mọi khúc mắc, mọi vấn đề của con người, của cuộc đời đều được giải tỏa khi chúng ta làm hiển hiện một cách trọn vẹn ý nghĩa hiện sinh của mình.

Sự Đản Sinh của đức Phật là đánh dấu cho một triêu dương của nhân loại, của vạn hữu trên khai lộ của sự thức giác và làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn. Và cuộc đời của Ngài đã là hình ảnh linh hiện của ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn. Trong đó, tri kiến như thật về thực tại là một trong những thông điệp mà ngài đã trao lại cho nhân loại. Tri kiến như thật về thực tại nghĩa là thực tại như thế nào thì thấy biết như thế đó. Chúng ta đã vay mượn quá nhiều danh ngôn của thế giới ước lệ, những gì chúng ta có về tư duy, lý luận và hành động đều là vay mượn, không có gì đích thực là của chính chúng ta. Rồi hãy lắng nghe thực tại bằng cả tính mệnh của mình:

“Trên tất cả, chàng học từ nó cách lắng nghe, lắng nghe với trái tim bình lặng, với chờ đợi, mở lòng, không cảm xúc, không ham muốn, không phán đoán, không quan điểm.” (Hermann Hesse, Siddhartha)

Lắng nghe thực tại trọn vẹn, con người sẽ giao cảm và hiểu được thực tại. Hiểu được thực tại cũng có nghĩa là hiểu được mình. Hiểu được mình là hiểu được Như-Lai.

 

“Nhược dĩ sắc kiến ngã

Dĩ âm thanh cầu ngã

Thị nhơn hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai”.

(Kinh Kim Cang)

 

Nếu dùng hình sắc tướng để thấy Phật, dùng âm thanh để cầu Phật, thì người đó đã làm sai, không thể thấy được Phật.

Không từ hình danh sắc tướng mà thấy được Như Lai, vì Như Lai là vô tướng. Vô tướng thì sinh mà không sinh, diệt mà không diệt, tức là đệ nhất nghĩa đế, là thực tại.

“Như lai giả vô sở tùng lai diệc vô sở khứ.” (Kinh Kim Cang) Như lai là không từ đâu đến mà cũng không đi về đâu.

Đến mà không từ đâu, đi mà chẳng về đâu, tức là đã làm linh hiện được ý nghĩa hiện sinh tuyệt đối.

Trong ý nghĩa đó, Đản Sinh không chỉ là sự ra đời của một bậc vĩ nhân cách đây trên hai ngàn sáu trăm bốn mươi mốt năm về trước. Đản sinh là triêu dương bừng sáng lên ý nghĩa hiện sinh tuyệt đối của vạn hữu qua mọi thời đại.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/05/2014(Xem: 11997)
Rằm tháng tư ngày Phật giáng trần Ba nghìn thế giới kết hoa vân Đông phương hào khí soi đường sáng Ấn Độ tư duy dẫn đạo chân
01/05/2014(Xem: 13300)
Quảng Đức Tu Viện hôm nay Rộn ràng tấp nập mừng ngày Đản Sanh Thích Ca Từ Phụ Cha Lành Giáng trần cứu khổ, sáng danh Đạo Vàng Thầy trò Tu viện Đạo tràng Thành tâm thiết lễ lập đàn cung nghinh
01/05/2014(Xem: 5998)
Tôi xin bày tỏ lời chào hỏi của tôi đến những người tham dự lễ kỷ niệm thứ 11 và Hội nghị PG quốc tế vào ngày Liên hiệp quốc Vesak 2014, được tổ chức bởi Tăng đoàn PG VN (NVBS). Đối với Phật tử khắp nơi trên thế giới, Vesak là một ngày mà chúng ta không những thể hiện lòng tôn kính, và cử hành lễ Phật Đản, sự giác ngộ, và Đại Bát Niết Bàn mà còn tự nhắc mình một điều quan trọng là sống sao cho phù hợp với những lời dạy cao quý của Ngài.
01/05/2014(Xem: 6978)
Nhờ Hồng Ân Tam Bảo và sự phát tâm cúng dường của đồng hương Phật tử, Chùa Di Lặc đã tạc xong 4 pho tượng Phật bằng đá Hoa Cương với chiều cao 4 mét và sẽ an vị các tôn tượng tại Chùa Di Lặc. Chùa xin kính mời quý đồng hương Phật tử về tham dự Lễ An Vị Tôn Tượng Bổn Sư vào lúc 2.00PM đến 8.00PM Chủ Nhật ngày 04 tháng 05. Nhân dịp này Chùa Triển Lãm và Chiêm Bái Tượng Phật Ngọc Từ Bi từ ngày 04 tháng 05 đến ngày 11 tháng 05. Pháp Hội Ðại Bi, Lương Hoàng Sám sẽ diễn ra từ Thứ Hai ngày 05 đến Thứ Sáu ngày 09 tháng 05 (từ 10.00AM - 8.00PM): Bao gồm trì Tụng Bộ Lương Hoàng Sám, Lạy Sám Hối, Nghe Thuyết Pháp, Dùng Cơm Chay, Trì 108 biến Chú Ðại Bi)
01/05/2014(Xem: 8536)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, Ngài dõng dạc cất cao tiếng sư tử hống rồi nói bài kệ: Thiên thượng thiên hạ Duy ngã độc tôn Vô lượng sanh tử Ư kim tận hỷ. Dịch là: Trên trời dưới trời Ta là người duy nhất Kiếp này là kiếp cuối cùng của ta Vì không còn sinh tử nữa.
01/05/2014(Xem: 6265)
Em ơi! Ngày đại hỉ Tưng bừng khắp quê ta Vang vọng khúc tâm ca Cung đón mùa Vesak.
30/04/2014(Xem: 7433)
KÍNH ĐẠO THIÊNG ứng hiện chùa BÁI ĐÍNH MỪNG ĐẠI LỄ VESAK lần thứ HAI PHẬT TỔ NHƯ LAI quang giáng lễ đài ĐẢN SANH hai tay chỉ … đi bảy bước Vườn LÂM TỲ NI Ánh Vàng đưa rước
30/04/2014(Xem: 8654)
Theo Trường Bộ, Kinh Đại Bổn Nhân Duyên (số 1), Đức Phật Thích Ca đã giảng về một số phương pháp thông thường khi một thánh nhân đản sanh khác với một phàm phu bình thường tức loài người chúng ta. Chẳng những Đức Phật Thích Ca trong thời hiện tại (thế kỷ thứ 5 trước công nguyên) mà chư Phật trong quá khứ như Đức Phật Tỳ-bà-thi, Thi-khí,
29/04/2014(Xem: 5374)
Xứ California bị hạn hán nặng nề. Người ta không sợ thiếu nước uống hay để tắm gội hàng ngày mà sợ không có đủ nước tưới cây cỏ quanh vườn. Thiên nhiên không có màu xanh cũng giống như dòng sông không có nước và một người về già bị bệnh lạc trí quên đi tình mẹ. Giữa đợi chờ, bỗng đâu mưa ập đến. Mưa lớn, mưa nhỏ kéo nhau về cả tuần lễ. Màu xanh trỗi dậy. Người người hả hê mà vạn vật cũng chan hòa tươi mát lại.
27/04/2014(Xem: 10418)
Tháng tư về đó – Em ơi ! Vàng trong ánh ngọc, Sạch ngời tuyết mây. Bốn phương Trời tạnh mưa bay Hoa ưu đàm nở, Phương nầy nguyệt viên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567