Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật hãy còn đây

08/04/201316:24(Xem: 5950)
Đức Phật hãy còn đây


Sakya_Muni_19



Đức Phật hãy còn đây !

Thích Phổ Huân
---o0o---

Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!

Nhưng dù vui hay buồn, đấng Đại giác vẫn tự tại đến, và tự tại đi, đúng như danh hiệu Như Lai. Và cũng hiểu như vậy lại có một số đệ tử lớn của Phật đã an nhiên chiêm nghiệm, phấn đấu tinh tấn hơn, xem giờ phút nhập Niết Bàn của đấng Đại Giác là giờ phút thiêng liêng nhất trong đời họ, để hóa thành bài pháp quan trọng nhất kể từ khi đức Phật hiện hữu rồi ra đi.

Rồi lại có những vị đệ tử sáng suốt vĩ đại hơn, đã khẩn trương tìm mọi cách khơi dòng nước giải thoát lan tủa ra, mong sao giáo pháp của đấng toàn giác sẽ hiện hữu như kim thân Ngài, để tiếp tục đốt lên ánh sáng phá tan đêm dài của nhân sinh đau khổ.

Thời nay, chúng ta những người con Phật, xuất gia, tại gia không khỏi không xúc động khi đọc lại cảnh tượng Phật nhập diệt được kể trong kinh Đại Niết Bàn; rồi bùi ngùi cảm động thấy rằng thời gian hơn 2600 năm qua cảnh tượng hóa ra như gần gũi!

Đức Phật thường dạy, sinh làm người là khó, làm người được gặp pháp (Pháp Phật), được nghe pháp còn khó hơn.

Giáo pháp giải thoát là chân lý miên viễn vượt không gian, thời gian, thì 2600 năm chỉ là một khái niệm thời gian duyên khởi, huống chi pháp thân của Phật lại biến khắp pháp giới, thì việc tỉnh thức giác ngộ nhận ra của ta hôm nay lại có khác gì cách đây hơn 2600.

Thử nghĩ rằng ngay thời còn đấng Đại Giác vẫn có không ít người chưa bao giờ nghe biết đến Phật, nên giáo pháp giải thoát chưa từng đến với họ, do đó họ vẫn sống trong vọng tưởng, trong đau khổ ngay thời chánh pháp. Lại nghĩ thêm, đến những vị đã gặp Phật biết Phật, lại là đệ tử Ngài mà vẫn dửng dưng với giáo pháp, thì chúng ta hôm nay với nhân duyên tối thắng đã và đang xúc động tưởng nhớ Ngài, vậy chắc chắn rằng ta vẫn như nhìn thấy được pháp thân Ngài trong giờ phút hiện tại của thời điểm hôm nay.

Phật là tiếng gọi của sự tỉnh thức, tỉnh thức một cách tuyệt đối về cuộc đời, về con người, về chúng sinh, về tất cả vạn pháp vũ trụ này. Danh từ chúng sanh là những hữu tình biết thương biết ghét, biết đau khổ, hạnh phúc và chưa thể tỉnh thức tuyệt đối. Chính vì chưa tỉnh thức tuyệt đối nên vẫn mãi là chúng sinh, và nếu mãi là chúng sinh thì tuyệt đối vẫn mãi đau khổ, không sai chạy được.

Không thể tỉnh thức tuyệt đối, nghĩa là vẫn có tỉnh thức. Thật vậy chúng ta hẳn có tỉnh thức!

Trong cuộc đời ai lại chẳng không hàng trăm lần thốt lời than thở, bất như ý việc này việc kia; nhưng rồi việc bất như ý sinh ra đau khổ khi được quên đi, chúng ta lại chẳng buồn tìm hiểu, chẳng buồn suy tư về cuộc đời!

Chúng ta không phải bi quan khi luôn nghĩ về đau khổ, mà nên hiểu đau khổ là nguyên nhân của một tác nhân trong dòng nhân quả nghiệp lực của chính mình tạo ra.

Có khi dòng nhân quả nghiệp duyên đó tưởng chừng như do người khác tạo ra, gây ra cho mình; nhưng không, vì liên hệ, vì gắn bó, vay mượn với họ trong đời này hay quá khứ nên trở thành quả báo xấu đẹp mà thôi.

Chính việc chẳng chịu suy tư, chẳng chịu chuyển hóa dòng ý thức để hành động hướng lên con đường vị tha vô ngã nên ta chẳng thể tỉnh thức tuyệt đối. Và như thế dù có sống ngay trong thời chánh pháp ta vẫn không thể thấm môi một giọt giải thoát nào.

Dù rằng vẫn biết sanh trước Phật, sau Phật là một trong cái khổ của tám nạn, vì chỉ cần thấy Phật, chỉ cần chiêm ngưỡng kim tướng của Ngài, chúng sanh đó sẽ kết được duyên lành trong tương lai. Nguyên nhân, Pháp tướng của Phật là hiện thân của công đức là quả và hương thơm tích tụ vô số nhân lành từ vô số kiếp, nay đúng mùa đơm nở, nên ví như Hoa Ưu Đàm hàng triệu năm mới nở một lần. Vậy thì mọi vật chung quanh hương thơm đó sẽ hấp thụ được mùi thơm. Cũng thế cho dù chúng sanh hữu tình hay vô tình có không muốn ảnh hưởng đến hương thơm kia cũng không được.

Đối với chúng sinh hữu tình là loài người cao quý nếu có thái độ phản lại, không chấp nhận mùi thơm giải thoát chăng nữa, như một số đệ tử dững dưng với giáo pháp, hay tệ hơn như Đề Bà Đạt Đa thì họ vẫn có duyên đã gắn bó với Đấng toàn giác rồi, và đã liên hệ với ánh sáng mặt trời thanh tịnh giải thoát, thì hấp lực của ánh sáng từ bi một ngày nào đó sẽ bừng dậy chiếu soi trong lòng họ, cuối cùng họ vẫn là những vị Phật tương lai. Điều này được minh chứng khi chính đức Phật đã thọ ký cho chính Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật tương lai. (kinh Pháp Hoa phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12)

Chúng sinh của ngày hôm nay, trên thực tế đã rơi vào nạn khổ sanh sau Phật, nhưng được thắng duyên nghe được chánh pháp rồi cố gắng thực hành, thì niềm ưu tư suy tưởng về đấng toàn giác hơn 2600 năm qua có lẽ cũng đã có nhân duyên gắn bó rồi.

Nhưng rồi chúng ta hãy làm gì đây, để tạo nên gắn bó liên hệ với đức Phật một cách tha thiết y như ta đã có mặt ở rừng Sa la song thọ. Ta không thể gào khóc được như các đệ tử của Ngài lúc đó, Ta cũng không thể an nhiên tự tại quay lại chính mình quán sát các pháp hữu vi là sanh diệt để thiền định xả bỏ ngã pháp tức thì, mà chứng quả, hay nhập diệt...

Ta chỉ còn một cách là hãy giữ cho giáo pháp của Ngài mãi mãi tiếp nối theo thời gian, cho những chúng sanh tương lai sẽ may mắn gặp được mà giác ngộ, giống như hàng đệ tử vĩ đại của Ngài đã làm trong quá khứ ngay khi Phật vào Niết Bàn, và nhờ vậy mà chúng sinh ngày nay còn biết được pháp thân Phật vẫn lưu xuất khắp không gian.

Lưu giữ và nối truyền dòng pháp giải thoát là những kinh điển mà ngày nay chúng ta đã thấy, tất cả đều được thiết bị đầy đủ phương tiện phổ cập khắp nơi trong quần chúng. Nhưng điều quan trọng hơn vẫn là lưu giữ dòng pháp giải thoát tự thân của mỗi người.

Giáo pháp sống động xiển dương được chánh, phân biệt được tà là phải cụ thể hiển hiện lưu xuất ra từ nơi con người học pháp hành pháp, vậy mới có thể tồn tại vượt cả hai mặt thời gian và không gian. Chính sự thật như thế, nên khi Phật nhập diệt rồi mãi hơn ba trăm năm sau, chánh pháp mới được ghi lại trên văn bản, mà không bị sai lạc. Nếu như trong thời gian hơn 300 năm đó, các đệ tử Phật không thật sự sống y như những ngày gần gũi đấng Đại Giác, rõ hơn là sống như các vị A La Hán đắc đạo thì không cách nào giữ được hơn cả triệu lời của Phật nói ra. Điểm đáng lưu ý nhất là chính vị đại diện trùng tuyên lời Phật dạy bấy giờ, không phải là Ngài A Nan của lúc còn Phật, mà là Đại Thánh Tăng A Nan (đã đắc quả A La Hán). Cho nên cả đến khi Thánh Tăng A Nan viên tịch lời Phật dạy dù vẫn chưa được ghi lên trên văn bản, nhưng khi kinh bản chính thức ghi lên bản lá vẫn không sai lời Phật dạy, và mãi đến bây giờ. Thế thì quan trọng nhất là nhờ vào sự đắc pháp, chứng đạo mới giữ được dòng pháp giải thoát một cách xác thực.

Ngày nay chúng ta vô cùng may mắn đọc được văn bản truyền từ kim ngôn đức Đại Giác chuyển thông qua lời các bậc Đại Thánh thanh tịnh Tăng, nên niềm xúc động hẳn phải là dâng trào không thể bày tõ được.

Chúng ta hãy tự quay lại chính mình sống theo lời kinh dạy, lắng nghe các pháp đến từ tâm, chuyển hóa những vọng tưởng điên đảo thành nguồn suối mát thanh tịnh. Có như thế lời kinh Phật sẽ còn mãi với thế gian và hình ảnh Ngài dù qua tranh tượng khác nhau của mỗi quốc độ văn hóa truyền thống ta vẫn thấy Ngài như còn gần với ta mãi mãi.

Và như thế pháp âm giải thoát nơi vườn Lộc Uyển, Núi Linh Thứu, Tịnh Xá Kỳ Viên cho đến các cung điện Thiên cung, Long cung...và cuối cùng dưới bóng mát của rừng Sa La song thọ sau hơn 2600 năm bên thiên trúc vẫn mãi vang vọng đến ngày nay.

Nam Mô A DiĐà Phật

Thích Phổ Huân
Kỷ niệm xuân 2003

--- o0o ---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/05/2023(Xem: 127062)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
18/08/2021(Xem: 10436)
LỜI GIỚI THIỆU Trong Hán Tạng, kinh Đại Bát Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch với thời Bắc Lương (thế kỷ thứ 5) có ghi lại lời dạy cuối cùng của Đức Phật với các đệ tử: „… Sau khi ta nhập Niết Bàn, đại chúng phải tinh tấn tu hành sớm ra khỏi ba cõi, chớ có giải đãi, phóng dật tán tâm…“ (Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm 26)
10/11/2020(Xem: 7320)
Kính Mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Ngày 30-09 Âm Lịch (Dược Sư Như Lai, Đại Y Vương Phật) Kính lạy Đức Phật Dược Sư Bi mẫn, Cả năm rồi, đại dịch xuất hiện thần kỳ Thế giới phong tỏa, thân quyến chia ly Nguyên nhân đến từ đâu hiện còn ẩn khuất?
30/04/2020(Xem: 4780)
Chúng ta đi giữa đất trời thiên niên thế kỷ thứ ba, nghe đâu đây suối nguồn róc rách chảy từ trái tim Phật với nụ cười vô biên không giới hạn thời gian và không gian. Từng tia nắng reo vui lấp lánh niềm tin MỘT THẾ GIỚI - MỘT HY VỌNG của nhân loại đang hướng tới để yêu thương tràn đầy bước lên thềm thế kỷ 21, thật ấm áp tình người trên trái đất nầy.
29/04/2020(Xem: 4408)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
13/03/2020(Xem: 17726)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
29/09/2018(Xem: 8774)
Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.
07/09/2018(Xem: 6749)
Theo truyền thống Đại thừa, một ngàn vị Phật sẽ giáng thế trong thời kiếp may mắn này là điển hình của Hóa thân tối thượng (mchog-gi sprul-sku, thể dạng của các hóa thân tối thượng). Mỗi một vị Phật trong một ngàn vị Phật đã thành tựu giác ngộ từ lâu. Khi một vị Phật thị hiện trong thời kiếp này thì mỗi vị sẽ đồng thời hóa thân ở Nam Thiệm Bộ Châu (Southern Continent) trong mỗi một tỷ hệ thống thế giới trong vũ trụ của chúng ta, đồng thời thực hiện mười hai công hạnh giác ngộ (mdzad-pa bcu-gnyid) của một vị Phật ở nơi đó.
07/01/2015(Xem: 15355)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
01/07/2013(Xem: 2455)
.... Năm mươi năm Ngài thuyết pháp đề huề Độ vô lượng hằng sa người giải thoát Vượt bể khổ để sang bờ an lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567