Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

thich nguyen tang (3)thich nguyen tang (4)thich nguyen tang (8)


315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước-Quảng Tịnh
 



Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Năm, 25/11/2021 (21/10/Tân Sửu)chúng con được học về  Sáu Thời Sám Hối, trích từ Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông (1218 - 1277), một vị Vua khai sáng triều đại nhà Trần, cũng là một Thiền Sư Việt Nam, người có công thiết lập nền tảng vững chắc cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền nguyên chất của người Việt Nam. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 315 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Phương đông tờ mờ sáng,
Mặt đất tối tan dần.
Tâm chạm trần cảnh dấy,
Mắt lòa sắc tưng bừng.
Xác thối đừng ôm mãi,
Đầu vùi, sớm ngưỡng lên.
Ân cần chuyên sáu niệm,
Hầu mong hợp cơ chân.

(Lễ Tam Bảo ba lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

 

- Sư Phụ kể lại chuyện đau buồn của vua Trần Thái Tông bị Trần Thủ Độ ép lấy nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng mới có 8 tuổi và Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông lập ra triều đại nhà Trần kéo dài được 175 năm.

Lúc Vua Trần Thái Tông 21 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 20 tuổi không có con. Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông lấy chị dâu là Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, đang có thai, Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống là công chúa.

Vua Trần Thái Tông buồn khổ vì bị chia ly với Lý Chiêu Hoàng, Vua bỏ trốn lên núi và bị Trần Thủ Độ ép trở lại hoàng cung. Quốc Sư Đạo Viên khuyên Vua nên trở về thành Thăng Long thuận theo ý của dân.

 

- Từ năm 21 tuổi đến năm 31 tuổi, Vua tinh tấn hành trì tu tập trong đêm khuya, Vua thọ trì kinh Kim Cang và lãnh hội yếu chỉ.

 

Dù bị ép lên làm vua, lấy vợ, bỏ vợ rồi lấy chị vợ của anh ruột, gây đau khổ và tang thương cho nhiều người khác vị sự xuất hiện của mình, nên Vua cảm thấy bản thân mình quá nhiều tội lỗi, nên Vua Trần Thái Tông đã biên soạn Khoa Nghi Sáu Thời Sám Hối này để tự mình thực hành mỗi ngày để tiêu trừ nghiệp chướng.

 

* Sáu thời sám hối, về không gian là sáu thời, về bản thể là sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ) để mau ra khỏi sáu nẻo luân hồi (Thiên, Nhân, ATuLa, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh).

 

Mỗi thời sám hối từ 15-20 phút gồm có đủ 10 phần:

1/kệ cảnh sách cảnh tỉnh

2/ kệ dâng hương

3/ kệ dâng hoa 

4/phát nguyện

5/sám hối tội căn

6/khuyến thỉnh Phật chứng minh 

7/chí tâm tùy hỷ

8/chí tâm hồi hướng 

9/chí tâm phát nguyện

10/kệ vô thường

 

 

* Sư Phụ kể Hoà Thượng Thanh Từ đã cho áp dụng Khoa Nghi sám hối này ở trong tất cả thiền viện của Hoà Thượng.

 

* Ân cần chuyên sáu niệm.

Về sự, sáu niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới , niệm Thí, niệm Thiên.

Về lý, niệm Phật là niệm tánh giác, niệm Pháp là niệm thanh tịnh, niệm Tăng là niệm hòa hợp tánh, niệm thí là buông xả, niệm thiên là niệm tu 10 điều thiện, niệm giới là niệm thanh tịnh viên mãn. 

 

*Ân cần chuyên sáu niệm, có thể áp dụng:

“Lục tự Di Đà vô biệt niệm. 

Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”

 

Có nghĩa là: “Sáu chữ Di Đà không có một niệm nào khác, không mất công lao nhọc, sát na đến Tây Phương”, tức là hành giả niệm  6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” mà không có 1 vọng niệm nào can thiệp vào, đó là chỗ nhất tâm bất loạn của hành giả, đó là điều kiện tiên quyết để đi vãng sanh, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, và tất nhiên, đó cũng là điểm đến cuối cùng, vô sanh bất tử của hành giả tu theo pháp môn Thiền tông hay Mật tông. 

 

 

DÂNG HƯƠNG BUỔI SÁNG

Cúi mong, phương Tây mặt trăng vừa lặn, hướng Đông vầng nhật hiện dần. Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh, cõi không lễ bậc Thánh Hiền. Mong thấu lòng thành, kính dâng hương báu.

Hương này, trồng từ rừng giới, tưới bằng nước định, chặt từ vườn tuệ, vót bằng đao giải thoát. Chẳng do sức người, rìu, búa, hình thế xuất tự thiên nhiên. Đốt lên từ lò báu tri kiến, kết đài mây sáng rỡ. Khi bay khắp chốn ngạt ngào, tan ra đầy trời thơm phức. Vừa lúc rạng đông, thắp hương cúng dường.

 

Sư Phụ giải thích:

 

- Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh là thân tâm được nhẹ nhàng.

- cõi không là cõi không còn vô minh phiền não.

 

 

 

KỆ DÂNG HƯƠNG

Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

 

Sư Phụ giải thích:

- hương lấy từ rừng giới pháp đã thọ, từ sự tu hành của hành giả, hương các loài hoa chỉ bay theo chiều gió nhưng hương trì giới có thể bay ngược chiều gió để tỏa ngát muôn phương.

 

KỆ DÂNG HOA

Đất tâm mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.

 

Sư Phụ giải thích:

Hoa trời không bằng hoa nở ra từ đất tâm. Cành hoa tâm không bị gió nghiệp thổi bay.

 

PHÁT NGUYỆN

Nguyện mây hương hoa này
Khắp cả mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ-tát,
Vô lượng chúng Thanh văn
Và tất cả Thánh Hiền.
Vừa rời đài quang minh
Qua cõi nước vô biên
Trong vô biên cõi Phật
Nhận dùng làm Phật sự.
Xông khắp các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ-đề.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

-Bài nguyện hương này do Vua Trần Thái Tông biên soạn từ hơn 800 năm được Chư Hoà Thượng đưa vào nghi thức tụng niệm cho hành giả Việt Nam hành trì

- Nhận dùng làm Phật sự, lời nhắn nhủ là khi làm Phật sự phải nương vào Phật tánh thì không thì rơi vào ma sự.

- Chúng sanh nghe lời phát nguyện sẽ phát Bồ Đề tâm để tu tập.

 

 

TÂU BẠCH

Kính bạch, mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Soi đuốc tuệ nơi đường tối, thả thuyền từ trong biển khổ.

Trộm nghe, canh gà vừa qua, bóng thỏ mới lặn. Khói mù nơi sông núi chớm tan, xe ngựa xa gần đều chuyển động. Tiếng mai hoa trên lầu vừa tàn, chén trúc diệp trước song mới tỉnh. Mày liễu thập thò bày nắng sớm, mặt hoa e thẹn đọng sương mai. Gặp khi bừng sáng, thương kẻ ngu mê. Trong đêm giấc mộng đã lờ mờ, sáng đến tâm hồn còn rộn rịp. Mắt tai đuổi theo thanh sắc, mũi lưỡi dính mắc vị hương. Nhà lửa hằng cam thiêu đốt, sông ái mãi chịu đắm chìm. Mặc dù sáng nay ông thức giấc, cũng như người đang ngủ đêm qua. Chẳng lo sanh già bệnh chết đuổi gấp, chỉ chăm vợ con tiền của buộc ràng.

Các Phật tử! Gốc thân chẳng bền, cành mạng khó yên. Mọi người trên đầu đội trời, khó khỏi mắt sáng rơi đất. Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp thân khó được. Cần phải mau mau gieo giống lành, chớ có khư khư cầu quả ác. Người người sớm tỉnh, mỗi mỗi siêng tu. Chuyên tâm lễ Vô thượng Từ Dung, chạm mắt thấy Đại quang minh tạng.

Đệ tử chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ buổi sáng.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

- lời Tâu bạch là bày tỏ tâm trạng của hành giả với mười phương Đại Giác, là mười phương Phật..

- Hùng Sư là danh hiệu tôn vinh Đức Thế Tôn, là bậc Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi, đó là người đã thắng được giặc phiền não để ra khỏi tam giới như Kinh Pháp Cú số 103 nói:

 

“Thắng ngàn, ngàn địch chiến trường

Chẳng bằng tự thắng bản thân của mình

Thắng mình oanh liệt thật tình

Mới là chiến thắng xứng danh hàng đầu”


 (Chuyển Kinh qua thơ Lục Bát của Cư Sĩ Tâm Minh Ngô Tằng Giao)

 

- Từ Dung là dung nhan từ bi, chỉ cho Đức Thế Tôn

- Đại quang minh tạng là kho ánh sáng trí tuệ là chân tâm Phật tánh của chính mình.

 

 

 

 

SÁM HỐI TỘI CĂN MẮT

Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay;
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm.
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

 

NGHIỆP CĂN MẮT LÀ:

 

Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành;
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai;
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang;
Lòa mắt chưa sanh Bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mải nhìn;
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô;
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền;
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai;
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần;
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người;
Dù được làm người, lại bị mù chột.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ.
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

 

- Từ vô thủy kiếp, là không biết khởi đầu từ bao giờ,  bản tâm là tâm gốc, tâm gốc chính là tâm giác ngộ. Sáu căn lầm nên rơi vào ba đường khổ.

 

CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH

Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật
Và chư Bồ-tát, Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

 

 

 

CHÍ TÂM TÙY HỈ

Nay con theo Phật sanh hoan hỉ
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang Thập địa nguyện sớm lên.
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

 

Sư Phụ giải thích: sám hối sạch sẽ hết mọi lỗi lầm nghiệp chướng hành giả sẽ lần bước lên thềm thang của 10 địa Bồ tát: Hoan hỉ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa và Pháp Vân địa.

 

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG

Chúng con hồi tâm nương Thánh chúng
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh
Nhờ thắng nhân này thành Chánh giác.

(Lễ một lạy)

 

 

 

 

CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN

Một nguyện rộng mở sáng chánh kiến,
Hai nguyện lau sạch bụi trần mù,
Ba nguyện nhìn hình không đắm mến,
Bốn nguyện thấy sắc chẳng bận lòng.
Năm nguyện quên đầu cần kíp nhận,
Sáu nguyện mắt tuệ tự tròn đầy,
Bảy nguyện hiện nay sớm tỉnh mộng,
Tám nguyện hằng được sáng xưa nay.
Chín nguyện khi nhìn trừ mắt bệnh,
Mười nguyện chỗ thấy dứt không hoa,
Mười một nguyện trông xa mây chướng cuốn,
Mười hai nguyện chớp mắt nghiệp băng trong.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

- Lau sạch bụi trần trong mắt, bụi do chính mình tạo ra. Trong cái thấy chỉ là cái thấy, nếu có nhiều cái thấy là bụi tự mình tạo ra.

- Nguyện thứ mười hai, trong chớp mắt, nghiệp luân hồi sanh tử tan biến như băng bị tan chảy.

 

KỆ VÔ THƯỜNG BUỔI SỚM

Đêm tối vừa rạng sáng
Ánh dương dần hiện không.
Tóc bạc thầm tới điểm
Má hồng dần đổi thay.
Chẳng biết tuổi xuân ngắn
Vẫn tranh nghiệp quả hùng.
Thân như băng gặp nắng
Mạng tợ đuốc gió đùa.
Chớ mải mê làm khách
Quay về sớm chiếu soi.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

 

Sư Phụ giải thích:

- Thân như băng gặp nắng, thân sẽ bị tiêu hủy.

- Mạng tợ đuốc gió đùa, mạng sẽ tiêu vong như ngọn đuốc gặp gió.

 

Cuối buổi giảng Sư phụ diễn ngâm bài thơ Sáu Thời Sám Hối của TT Chúc Hiền gởi tặng:

 

Sáu căn sám hối chuyển mê lầm

Sớm tối trưa chiều hướng diệu nhân

Mũi lưỡi mắt tai rời thói tục

Thân tâm ý tứ lắng tình trần

Tai ương rũ sạch tịnh ba nghiệp

Tội chướng tiêu mòn sáng cõi tâm

Tuệ giác bừng soi trừ cấu nhiễm

Đèn thiền tỏ rạng tháng ngày an…!

 

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Khoa Nghi Sám Hối Sáu Căn của Vua Trần Thái Tông. Vì không đủ thời gian nên Sư Phụ chỉ giảng trọn vẹn thời sám hối đầu tiên về Căn Mắt, những 5 thời sám hối về tai, mũi, lưỡi, thân và ý, sư phụ sẽ giảng trong dịp khóa tu cuối năm tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 17, 18 và 19 tháng 12 năm 2021 và đặc biệt tại khóa tu 3 ngày này, quý Phật tử sẽ được thực hành lễ sám hối với khóa nghi “Sáu Thời Sám Hối”này.

 

Có thể nói, cuộc đời của Vua Trần Thái Tông sớm được hưởng vinh hoa phú quý, đạt đến danh vọng tột đỉnh của kiếp người, nhưng đến năm 21 tuổi, một biến cố về tình cảm, và cũng là một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời của Vua, đúng là cùng tắt biến, biến tắt thông, cơ duyên mầu nhiệm đã đưa Vua đến đạo lộ giải thoát, từ đó Vua để lại cho đời nhiều tác phẩm Phật học giá trị, trong đó có Khoa Nghi Sám Hối Sáu Thời, giúp ích hàng Phật tử chúng con thọ trì để tiêu trừ nghiệp chướng và sớm lên bờ giác.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ 

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm 

(Montréal, Canada).


 

315_TT Thich Nguyen Tang_Sau Thoi Sam Hoi



Sáu Thời Sám Hối
do Vua Trần Thái Tông biên soạn




Kính dâng Thầy bài trình pháp cho bài pháp thoại hôm nay về Sáu thời sám hối khoa nghi do Trần Thái Tông biên soạn . Kính bạch Thầy, tuy bài giảng về khoa nghi sáu thời sám hối đòi hỏi ít nhất trong khoảng từ 4- 5 giờ thế nhưng hôm nay chỉ trong 1 giờ 20 phút giới hạn cho bài pháp thoại 315 nhưng Thày đã nêu rõ 10 phần nghi thức cho một thời sám hối bắt đầu  từ canh khuya giờ Dần đến cuối đêm và mỗi thời sám hối cho một căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Kính  đa tạ Thầy phần quan trọng nhất đã được Thầy giảng rất kỹ và chi tiết để làm nền tảng cho những buổi học sau trong khoá tu ba ngày cuối năm tại Tu Viện Quảng Đức . Kính  đảnh lễ và tri ân Thầy, kính  chúc sức khỏe Thầy, HH 

Trong bài pháp thoại314 chúng ta đã được biết cuộc đời của một vị Vua đau khổ nhất thế gian : Trần Thái Tông và ta chỉ biết chuyện thâm cung bí sử đã được Ngài tóm tắt trong tác phẩm Thiền Tông chỉ Nam sau khi đã đạt giác ngộ từ Kinh Kim Cang Bát Nhã cũng như Ngài Lục Tổ Huệ  Năng và chính tác phẩm này đã được Quốc  Sư  Phù Vân ấn chứng, khen ngợi và khuyên nên khắc bản để in ..... tiếc thay ...ngày nay đã thất lạc và chỉ còn lại lời tựa mà trong đó có đoạn như sau : 

" Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi Yên Tử đón Vua về kinh. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết:

" Thấy Trẫm, Trần Công thống thiết nói:

- Tôi chịu lời ủy thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua trong việc làm chủ thần dân. Nhân dân đang mong đợi Bệ hạ như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay các vị cố lão trong triều đều là họ hàng thân thích, sĩ thứ trong nước ai nấy đều vui vẻ phục tùng, đến đứa trẻ lên bảy cũng biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng, thế mà Bệ hạ đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí riêng của mình.

Tôi dám nói rằng Bệ hạ vì sự tự tu cho riêng mình mà làm vậy thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao?

Nếu để lời khen suông cho đời sau thì sao bằng lấy ngay thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong ngày hôm nay, quyết không trở về.

Trẫm nghe Thái sư và các quần thần bô lão đều không chịu bỏ Trẫm, cho nên mới đem lời Thái sư mà bạch lại với Quốc sư, Quốc sư cầm tay Trẫm mà nói:

- Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về, Bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển xin Bệ hạ đừng phút nào quên." 

Nay cũng trong lời tựa ấy chúng ta biết được thêm rằng 

" Vì thế, Trẫm cùng mọi người trở về kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh rỗi, Trẫm tập họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và các kinh Đại thừa... đều nghiên cứu qua. Trẫm thường đọc kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, trong khoảng để quyển kinh xuống ngâm nga, bỗng nhiên tự ngộ. Liền đem sở ngộ này viết thành bài ca, để tên là “Thiền Tông Chỉ Nam”. Năm này, Quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, Trẫm mời ở chùa Thắng Nghiêm, trông coi việc ấn bản các kinh. Trẫm đem tập sách này trình Sư, Sư xem qua liền tán thán rằng:

- Tâm chư Phật ở trọn nơi đây, sao không nhân khắc in các kinh, khắc in luôn để dạy kẻ hậu học.

Và với tâm nguyện dùng thời gian còn lại trong đời suốt thời gian từ 20 tuổi đến 31 T Ngài đã thấm nhuần kinh điển Phật từ Lăng Nghiêm , Kim Cang Bát Nhã  Cũng như Tứ Diệu Đế và sau đó Ngài đã biên soạn Sáu Thời Sám Hối Khoa Nghi mà lời mở đầu có đọan " Trẫm nhờ quyến thuộc nhà trời, ở ngôi chí tôn, nên việc dân gian, quốc chánh phiền rộn. Phồn hoa dụ dỗ bên ngoài, thị dục mê hoặc ở trong. Miệng thì chán ngán vị ngon, thân phải đeo mang vàng ngọc. Thấy nghe đuổi theo thanh sắc, ở ăn toàn chốn gác đài. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy vi, học giả mù độn, căn lành kém mỏng. Ngày thì căn trần va chạm, lưới nghiệp kéo lôi; đêm thì mê ngủ che đậy, dây lười trói buộc. Ngày đêm dính mắc, đâu không phải là lỗi chuốc họa gây thù. Trẫm vì lẽ đó, ôm ấp trong lòng, thương cảm xen lẫn, quên ăn mất ngủ. Nhân khi việc triều rảnh rỗi, xem khắp Kinh, Luận và các văn nghi lễ, tuyển chọn pháp có được tự lợi lợi tha, dùng để chỉ dạy cho người. Trăn trở suy đi nghĩ lại, xưa tạo nghiệp trọn do sáu căn. Vì thế đức Phật Thích-ca khi chưa thành đạo, trước vào núi Tuyết sáu năm tu khổ hạnh, là do sáu căn đó vậy. Phỏng theo ý ấy, lấy sáu căn phân làm sáu thời, mỗi thời lễ sám một căn. Chính Trẫm chế nghi văn sám hối này, gọi là “Khoa nghi sáu thời lễ Phật sám hối”.

Văn thì rườm rà, nói thì lời xa xôi. Nếu văn rườm rà thì người lười sám hối, lời xa xôi thì dễ sanh nghi. Cho nên không dùng lời phù phiếmdồn cho đầy quyển, cốt khiến người đọc tụng vui vẻ, người nghe thấy dễ ngộ. Mới mong những kẻ có lòng tin, ngày đêm phát tâm chí thành, theo khoa nghi này làm lễ sám hối. Đây là chẳng phụ chí nguyện tự lợi lợi tha của Trẫm." 

Trộm nghĩ chúng ta hậu bối ngày nay nên tư duy thế nào khi được nghe những lời vàng chứa đầy trải nghiệm của một người triệt ngộ thấy được  Chơn Tâm ....

"Trẫm thầm nghĩ: Phật không có nam bắc, mọi người đều có thể tu cầu. Tánh có trí ngu, đồng sẵn giác ngộ. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê, để sáng tỏ đường tắt sanh tử, là kinh điển của đức Phật chúng ta. Đặt mực thước cho đời, làm mô phạm người sau, là trọng trách các bậc Thánh trước (Tổ). Cho nên Lục Tổ nói: “Những bậc Thánh trước (Tổ) cùng Đại sư (Phật) không khác.” Nên biết giáo pháp của Phật nhờ các bậc Thánh trước truyền bá ở đời. Nay Trẫm đâu thể không lấy trách nhiệm các bậc Thánh trước làm trách nhiệm của mình, giáo pháp của Phật làm giáo pháp của mình." 

Thầy Tổ thường dạy rằng  " Người biết xoay trí tuệ sáng suốt soi chiếu lại bản tánh chân tâm, không để bụi nhơ phủ kín, số người này quá ít. Như vậy mỗi ngày chúng ta chạy theo sắc, thanh, hương, vị... độ bao nhiêu giờ, còn được bao nhiêu phút ngồi để xoay lại tìm cái chân thật nơi mình." 

Có bao giờ chúng ta quyết tâm hạ thủ được công phu  được  như Ngài chăng ? 

Câu trả lời ...tự mỗi chúng ta quyết định lấy !!!!!!

Lời kết 

Kính tri ân Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng đã chỉ rõ giờ giấc của sáu thời sám hối và trong mỗi thời Đức Ngài Trần Thái Tông đã thực hiện đúng 10 phần vào ra thật  rõ ràng . 

Kính xin trình bày 10 phần nghi thức cho một thời : 

1- kệ cảnh sách chúng vào mỗi thời 

2- kệ dâng hương

3- kệ dâng hoa 

4- Phát nguyện và Tấu bạch 

5- sám hối tội căn ( mỗi căn  theo thứ tự .đúng với mỗi thời .. mắt, tai, mũi , lưỡi, thân, ý. ) và chỉ rõ nghiệp căn ấy .

6- chí tâm khuyến thỉnh 

7- chí tâm tuỳ hỷ 

8- chí tâm hồi hướng 

9- chí tâm phát nguyện

10- Kệ Vô Thường của  mỗi thời 

Cũng xin liệt kê sáu thời ấy là 

Thời Thứ Nhất - Giờ Dần (3-5 giờ sáng ) -  sám hối nghiệp căn Mắt 

Thời Thứ Hai - (từ 7-9 giờ sáng )- sám hối nghiệp căn Tai 

Thời Thứ Ba - (từ 11-1 giờ trưa ) sám hối nghiệp căn Mũi 

Thời Thứ Tư i - (từ 3-5 giờ chiều mặt trời lặn ) -sám hối nghiệp căn Lưỡi 

Thời Thứ Năm - (từ 7-9 giờ tối buổi hoàng hôn )-  sám hối nghiệp căn Thân 

Thời Thứ Sáu (từ 11-1 giờ đêm  cuối đêm  )- sám hối nghiệp căn Ý

Trong giới hạn thời gian buổi pháp thoại, rất tiếc chỉ được nghe Giảng Sư truyền trao toàn bộ ý nghĩa của 10 phần trong thời đầu hôm giờ Dần mà thôi , hy vọng người viết có thể trình pháp những thời sám hối khác ....nếu có duyên may được nghe pháp thoại sẽ được Giảng Sư truyền trao trong khoá tu học cuối năm tại Tu viện Quảng Đức, 

Kính trân trọng , 

Kính ngưỡng Đức Thiền Sư, Vua Trần Thái Tông...

.....chỗ nương dựa cho hành giả tu Phật 

Chí nguyện  tự lợi tự tha soạn chế nghi văn (1) 

Sáu thời phát nguyện sám hối tội lỗi sáu căn (2) 

Tâm thiện phát sinh ...đuốc sáng xua tan bóng tối (3) 



Kệ  cảnh sách , phát nguyện khi dâng hương, hoa 

     ....Hậu học quyết tâm chuyển đổi (4) 

Kính đa tạ Giảng Sư ...thâm thuý giải thích  từng lời

Hạnh giải tương ưng, Sự Lý viên dung ....quá  tuyệt vời 

Nào xác thối, sáu niệm  hương cúng dường .... (5-6)

........đúng theo kinh điển . ! 

Và lời kính lễ Từ Dung, Đức Hùng Sư ...

..........tấu bạch nguyện nguyện (7) 

Sớm rời ba đường khổ ...sám hối lỗi lầm

Nghiệp căn mắt ....một trong nhiều nhân ... 

.........đánh mất bản tâm (8) 

Làm sao tu tập được 

 " Trong cái thấy sát na đầu chỉ là cái Thấy " 

Thỉnh Chư Thiên, Tuỳ hỷ , hồi hướng ....và từ đấy 

Mười hai  nguyện về căn mắt ..nghiệp băng trong (9)

Còn đâu vọng tưởng đảo điên phiền não trong lòng 

Khi gió yên sóng lặng  ...nước liền có trăng hiện . ! 



Nam Mô cầu  sám hối Bồ tát Ma ha tát 

Nam Mô Thiền Sư Vua Trần Thái Tông tác đại chứng minh 

Huệ Hương 

Sydney 25/11/2021 



thich nguyen tang (5)thich nguyen tang (7)thich nguyen tang (6)
thich nguyen tang (9)thich nguyen tang (10)thich nguyen tang (11)


Chú thích : 

(1) Trẫm vì lẽ đó, ôm ấp trong lòng, thương cảm xen lẫn, quên ăn mất ngủ. Nhân khi việc triều rảnh rỗi, xem khắp Kinh, Luận và các văn nghi lễ, tuyển chọn pháp có được tự lợi lợi tha, dùng để chỉ dạy cho người. Trăn trở suy đi nghĩ lại, xưa tạo nghiệp trọn do sáu căn. Vì thế đức Phật Thích-ca khi chưa thành đạo, trước vào núi Tuyết sáu năm tu khổ hạnh, là do sáu căn đó vậy. Phỏng theo ý ấy, lấy sáu căn phân làm sáu thời, mỗi thời lễ sám một căn. Chính Trẫm chế nghi văn sám hối này, gọi là “Khoa nghi sáu thời lễ Phật sám hối”.

Văn thì rườm rà, nói thì lời xa xôi. Nếu văn rườm rà thì người lười sám hối, lời xa xôi thì dễ sanh nghi. Cho nên không dùng lời phù phiếmdồn cho đầy quyển, cốt khiến người đọc tụng vui vẻ, người nghe thấy dễ ngộ. Mới mong những kẻ có lòng tin, ngày đêm phát tâm chí thành, theo khoa nghi này làm lễ sám hối. Đây là chẳng phụ chí nguyện tự lợi lợi tha của Trẫm.

(2) Bản tánh chân tâm lthanh tịnh tròn sáng, trong trẻo như hư khôngchẳng có mảy bụi. Do bọt vọng chợt dấy, cõi uế hiện thành, năng và sở nương nhau, Phật với chúng sanh thấy hai. Căn tánh sai biệt, ngu trí phân chia, chỉ cho một cửa, khó được ngộ nhập. Vì thế, đức Phật chúng ta trí nguyện rộng lớn, mở cửa phương tiện, tùy lối chỉ đường về, đúng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu của chúng sanh từ vọng mà sanh, khuyên họ một niệm kính thành qui y sám hối, khiến thân tâm thanh tịnh, trong sạch như xưa. 

Ôi! công dụngsám hối lớn lao há chẳng vậy sao?

Trẫm nhờ quyến thuộc nhà trời, ở ngôi chí tôn, nên việc dân gian, quốc chánh phiền rộn. Phồn hoa dụ dỗ bên ngoài, thị dục mê hoặc ở trong. Miệng thì chán ngán vị ngon, thân phải đeo mang vàng ngọc. Thấy nghe đuổi theo thanh sắc, ở ăn toàn chốn gác đài. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy vi, học giả mù độn, căn lành kém mỏng. Ngày thì căn trần va chạm, lưới nghiệp kéo lôi; đêm thì mê ngủ che đậy, dây lười trói buộc. Ngày đêm dính mắc, đâu không phải là lỗi chuốc họa gây thù

(3) 

Tiện lợi việc đi lại dưới sông trên bộ, là nhờ xe, thuyền; tẩy sạch bụi nhơ nơi thân tâm, là do sám hối. Muốn tẩy sạch thân tâm mà không dùng sám hối, khác nào muốn tiện lợiqua lại mà chẳng dùng xe, thuyền. Thế mới biết công dụngsám hối rất là to. Cho nên kinh Đại Tập nói: “Như áo nhơ hằng trăm năm, có thể trong một ngày giặt được sạch sẽ. Như thế, trong trăm ngàn kiếp đã tích tập các nghiệp chẳng lành, do nhờ lực Phật, khéo thuận tư duy, có thể trong một ngày hay một giờ, trọn hay tiêu diệt.”

Gió yên thì sóng lặng, bụi sạch thì gương sáng. Sao thế? Vì trước khởi tâm ác, như mây che mặt trăng, sau sanh tâm thiện, như đuốc sáng tan bóng tối. 

(4) 

CẢNH SÁCH CHÚNG GIỜ DẦN

(3g - 5g) lấy làm khoa lễ buổi sáng 

Phương đông tờ mờ sáng,
Mặt đất tối tan dần.
Tâm chạm trần cảnh dấy,
Mắt lòa sắc tưng bừng.
Xác thối đừng ôm mãi,
Đầu vùi, sớm ngưỡng lên.
Ân cần chuyên sáu niệm,
Hầu mong hợp cơ chân.

(Lễ Tam Bảo ba lạy)

Nguyện mây hương hoa này

Khắp cả mười phương cõi

Cúng dường tất cả Phật,

Tôn Pháp, chư Bồ-tát,

Vô lượng chúng Thanh văn

Và tất cả Thánh Hiền.

Vừa rời đài quang minh

Qua cõi nước vô biên

Trong vô biên cõi Phật

Nhận dùng làm Phật sự.

Xông khắp các chúng sanh

Đều phát tâm Bồ-đề.

(5) theo Tịnh  độ "

 Sáu chữ Di  Đà vô biệt niệm 

Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương 

Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện. Tâm khởi ác là niệm ác, sanh nghiệp ác thì ứng nghiệp ác. Như gương hiện ảnh, tợ bóng theo hình. Cho nên Thiền sư Vĩnh Gia nói: “ai vô niệm, ai vô sanh” là nghĩa này vậy.

Nay học giả muốn khởi chánh niệm để dứt ba nghiệp, cũng nhờ công niệm Phật. Thế nào là niệm Phật được dứt ba nghiệp? Vì khi niệm Phật thân ngồi ngay thẳng, không làm hạnh tà là dứt thân nghiệp. Miệng tụng chân ngôn, chẳng nói lời tà là dứt khẩu nghiệp. Ý gắng tinh tấn, chẳng khởi niệm tà là dứt ý nghiệp. Song người trí có ba bậc:

Bậc thượng trí thì tâm tức là Phật, chẳng nhờ tu thêm. Niệm tức là trần, chẳng cho một điểm. Niệm trần vốn tịnh, nên gọi như như bất động, tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng tướng không hai, lặng lẽthường còn, còn mà chẳng biết, đó là Phật sống.

Bậc trung trí ắt nương niệm Phật. Chú ý chuyên cần, niệm niệm chẳng quên, tự tâm thuần thiện. Niệm thiện đã hiện, niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu, chỉ còn niệm thiện. Do niệm là ý niệm, nên niệm niệm diệt đó. Khi niệm diệt ắt về chánh đạo. Lúc mạng chung được vui Niết-bàn - thường lạc ngã tịnh - là Phật đạo vậy.

Bậc hạ trí thì miệng siêng niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật. Ngày đêm siêng năng tu hành, không có thối chuyển. Sau khi mạng chung, tùy niệm thiện đó được sanh về nước Phật. Sau được chư Phật dạy bảo chánh pháp, chứng được bồ-đề, cũng vào quả Phật.

Ba bậc trên sâu cạn chẳng đồng, chỗ được là một vậy. Song bậc thượng trí nói thì dễ mà hành thì khó. Người thời nay muốn theo gương học, toàn không có chỗ gá nương, trọn trông bờ rồi lui, rất khó đặt chân. Bậc trung trí nếu hay siêng tu như lời nói ở trên thì tức khắc thành Phật. Nếu như lậu chưa hết mà lâm chung, tùy quả báo kia trở lại thọ sanh ở đời, nhận quả báo thiện. Quả báo thiện đã hết, không có người đánh thức, trở lại rơi vào đường ác. Như thế đó cũng là khó vậy. Bậc hạ trí lấy niệm Phật làm nấc thang, lấy tinh tấn làm cây thang, chú ý duyên lành, nguyện sanh về nước Phật. Siêng năng không lười biếng, tâm tánh thuần thục, sau khi mạng chung, tùy theo sở nguyện, được sanh về nước Phật. Đã sanh về nước Phật thân đó không bao giờ mất.

Kinh điển thì 

Lục Niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Ba loại đầu là niệm Tam Bảo. 

Loại thứ tư là niệm Giới,uốn tu lên cao hơn thì phải tu Định, tu Tứ Vô Lượng Tâm “từ, bi, hỷ, xả”. Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới do đức Phật đã định và những điều răn dạy trong các kinh đều thuộc phạm vi của Giới.

Thứ năm là Niệm Thí. Thí (施) là Bố Thí, Thí có công đức khiến cho chúng ta đoạn phiền não. Vô lượng phiền não được quy nạp thành một trăm lẻ tám loại, rồi lại quy nạp thành hai mươi sáu thứ, bao gồm sáu căn bản phiền não và hai mươi tùy phiền não. Lại quy nạp thành sáu căn bản phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, rồi lại quy nạp thành ba độc tham, sân, si. Ba độc lại quy nạp thành một thứ là Tham. Bố thí chuyên trị keo tham, tham là cội gốc lớn lao của phiền não. Bố thí nhằm tạo thuận tiện cho chính mình, dẹp trừ triệt để căn bản phiền não. Học bố thí thì lúc mới học, thường là chính mình dư dả mới bằng lòng đem cho người khác. C. Trong một đời người, giàu, nghèo, sang, hèn đều có số phận định sẵn. Đời trước đã tài bố thí thì đời này phát tài. Giàu có là quả báo, bố thí là nhân. Thông minh, trí huệ là quả báo, pháp bố thí là nhân. Khỏe mạnh, sống lâu là quả báo, vô úy bố thí là nhân. Dùng tâm chân thành, tâm cung kính, tâm thanh tịnh tu ba thứ bố thí sẽ tự nhiên được quả báo tốt đẹp. 

Niệm Thiên  thứ sáu là niệm Thiên, hai loại này có quan hệ mật thiết với nhau. Để sanh lên trời thì phải thỏa điều kiện sanh lên trời. Đức Phật nói đến trạng huống trong cõi trời, so với bất cứ tôn giáo nào cũng đều tường tận hơn. Chẳng phải là tin vào Thượng Đế sẽ sanh lên trời, ngàn vạn phần chớ hiểu lầm. Phật nói Ngũ Giới thanh tịnh, đời sau sẽ được thân người. Thành tựu Thập Thiện nghiệp đạo thì mới được sanh lên trời. Chỉ tu Thập Thiện thì chỉ có thể sanh trong các tầng trời thuộc Dục Giới trở xuống, tức là sanh trong Tứ Vương Thiên và Đao Lợi Thiên. 

(6)

Hương này, trồng từ rừng giới, tưới bằng nước định, chặt từ vườn tuệ, vót bằng đao giải thoát. Chẳng do sức người, rìu, búa, hình thế xuất tự thiên nhiên. Đốt lên từ lò báu tri kiến, kết đài mây sáng rỡ. Khi bay khắp chốn ngạt ngào, tan ra đầy trời thơm phức. Vừa lúc rạng đông, thắp hương cúng dường.

(7) 

Kính bạch, mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Soi đuốc tuệ nơi đường tối, thả thuyền từ trong biển khổ.

Các Phật tử! Gốc thân chẳng bền, cành mạng khó yên. Mọi người trên đầu đội trời, khó khỏi mắt sáng rơi đất. Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp thân khó được. Cần phải mau mau gieo giống lành, chớ có khư khư cầu quả ác. Người người sớm tỉnh, mỗi mỗi siêng tu. Chuyên tâm lễ Vô thượng Từ Dung, chạm mắt thấy Đại quang minh tạng.

(8) 

Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay;
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm.
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

NGHIỆP CĂN MẮT LÀ:

Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành;
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai;
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang;
Lòa mắt chưa sanh Bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mải nhìn;
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô;
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền;
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai;
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần;
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người;
Dù được làm người, lại bị mù chột.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ.
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

(9)

Một nguyện rộng mở sáng chánh kiến,

Hai nguyện lau sạch bụi trần mù,

Ba nguyện nhìn hình không đắm mến,

Bốn nguyện thấy sắc chẳng bận lòng.

Năm nguyện quên đầu cần kíp nhận,

Sáu nguyện mắt tuệ tự tròn đầy,

Bảy nguyện hiện nay sớm tỉnh mộng,

Tám nguyện hằng được sáng xưa nay.

Chín nguyện khi nhìn trừ mắt bệnh,

Mười nguyện chỗ thấy dứt không hoa,

Mười một nguyện trông xa mây chướng cuốn,

Mười hai nguyện chớp mắt nghiệp băng trong.

 

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

thieu lam tu

Trở về Mục Lục Bài giảng của

TT Nguyên Tạng về Chư Vị Thiền Sư Trung Hoa

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
facebook

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567