Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mở Cửa Mặt Trời (Trường Ca Thánh Tăng Trần-huyền-trang Đường-tam -Tạng Thỉnh Kinh)

06/11/202118:18(Xem: 4307)
Mở Cửa Mặt Trời (Trường Ca Thánh Tăng Trần-huyền-trang Đường-tam -Tạng Thỉnh Kinh)


phap su huyen trang

Mở Cửa Mặt Trời

 

Trường Ca Thánh Tăng Trần-huyền-trang Đường-tam -Tạng Thỉnh Kinh (Dựa Trên Sử Liệu)

 Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm

 Thi ngâm: Đoàn Yên Linh & Hồng Vân

 


Đề tựa

 

...áo mặt trời ẩn hiện một bàn tay,

mười phương thế sự - một tâm nầy.

 

Tán thán công đức

 

Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy,

Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa

Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa

Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.

 

Mở kệ

 

Trên tờ nguyệt mật hoa khai dòng kệ

Bút lan thơm từ thuở núi chưa già

Tiếng hạc chầu đêm rất thánh về qua

Quy niệm giác mười phương con đãnh lễ.

 

Dâng kệ

 

Khấu đầu lạy hoa rừng vui ứa lệ

Chim ngậm cành lá ngọc hát trên sương

Xuân thu nào trí tuệ mở dị thường

Quy ý pháp mười phương con đãnh lễ.

 

Khẩn nguyện

 

Dâng lời nguyện muôn thân quỳ dưới bệ

Với đại từ làm tông chỉ qui y

Ngã, Pháp không hóa hiện ứng duyên tùy

Như phương tiện huyễn thân làm diệu dụng.

 

(Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm)

 

00000

 

Đất Lạc-Dương hóa sinh như huyễn dã (1,2)

Cũng như từng bao lần đã thọ thân

Đức mẫu từ trong giấc ngủ cùng trăng

Thấy đồng tử thiên y màu lụa bạch

Quang sắc lạ tỏa ngời đêm tịch tịnh

Đi về tây, đất trổ dấu hài in.

 

Tuổi mười ba, tay mở Niết-Bàn kinh

Đèn một ngọn, mặc tình muôn thế sự.

Đại-Từ-Ân mượn nơi làm tăng lữ (3)

Theo tôn sư học luận Nhiếp- Đại-Thừa (4)

Đọc dòng kinh lòng thoảng gió mây đưa

Ý siêu thoát, âm vang như đồng vọng

 

Trên pháp tọa lời lời tuôn châu ngọc

Nghe thuyết kinh tàng lọng tạ ân sâu

Suối ngừng reo, cây khép lá nghẹn ngào

Mười ba tuổi, vang danh từ thuở ấy.

 

Thắp đuốc pháp cho mặt trời thức dậy

Mở tâm người thủy nguyệt hiện toàn chân

Riêng một thân một ngựa đến Trường An (5)

Học kinh pháp với lòng vô phân biệt

 

Luận Câu-Xá đã hai lần quán triệt (6)

A-Tỳ-Đàm, tông Thành-Thật gẫm suy (7,8)

Vượt trùng quan vó biếc một thân Kỳ (9)

Trên muôn dặm một lòng mong thấy Phật.

 

Tờ kinh cũ, gió lay đêm huyền hoặc

Tự ngàn xưa dòng mực hiện pháp âm

Mà nơi đây chiếc bóng quyện hương trầm

Trí khao khát mơ thầm trăng Linh-Thứu. (10)

 

Đêm mộng lạ đỉnh Diệu- Cao ngọc báu (11)

Giữa đại dương ngời nước biếc hiện ra

Đóa sen vàng thay thuyền rước đưa qua

Nương lá gió mượn hoa vào đất Phật

 

Ôi đất cũ có nhớ lời hẹn gặp

Bến Lương- Châu mang giáo pháp dạy người

Lệnh vua truyền phong tỏa khắp nơi nơi

Giữa đêm lạnh âm thầm trên lưng ngựa

 

Đến Linh- Châu trải muôn vàn gian khổ

Đường quanh co còn lại chỉ một mình

Ngước nhìn trời, mây nước cũng lặng thinh

Ngọc-Môn ải đã đành xa vạn dặm.

 

Cây ngô đồng bắc cầu qua sông rộng

Hồ-Lư- Giang in bóng nước tăng bào

Mạc-Hạ-Diên cát lạnh với trăng sao

Đêm lạc bước giữa xương người, phân ngựa.

 

Ai bỏ xác trên đường đi quá nửa

Ngày lên cao sa mạc cháy xương da

Hơn bốn ngày Bạch-Mã hãy còn xa

Rơi bầu nước trên tay không một giọt.

 

Thiêm thiếp mộng nửa hồn như thanh thoát

Trên môi khô lời nguyện vẫn chưa quên

‘ Xin làm người thắp đuốc sáng trong đêm,

Xa đất Phật, nguyền không quay trở lại.’

 

Đêm yên lặng, nửa hồn xa trần giới

Thấy trong mơ thánh thể tỏa hào quang

Sương đêm buông sa mạc ngở đạo tràng

Gió mát dịu tưởng cành dương rưới nước.

 

Ngựa đưa người đến bên đồng cỏ ướt

Sau hai ngày dừng lại đất Y-Ngô

Vua quan cùng tăng sĩ đến dựng cờ

Đồng đãnh lễ dưới chân người tìm Phật

 

Đất vui trổ lá hoa mừng chánh pháp

Chim họp bầy tấu thiên nhạc trên không

Vua Cao-Xương gởi thiếp viếng hoàng cung

Đến Bạch-Lực sáu ngày băng sa mạc.

 

Tay thắp đuốc, tay cầm hương tiếp rước

Vua tự thân cung thỉnh đến đạo tràng

Cờ quạt bay rợp đất, trống chiêng vang

Tuôn mưa pháp thức muôn lòng say ngủ.

 

Đỉnh Linh-Sơn có còn như ngày cũ ?

Mây Kỳ-Viên phiêu bạt đã bao lần ? (12)

Dõi mắt nhìn sông nước cũng bâng khuâng

Hồn đất thánh giục thầm chân tăng lữ.

 

Vua xuống lệnh xây thêm đền điện mới

Chuốt đũa vàng, chén ngọc kính dâng lên

Khiến sai người cung kỉnh suốt ngày đêm

Tâm mến pháp sinh lòng lưu giữ lại

 

Hoa đại đạo nở cho ngàn thế giới

Ngọn lữa thiêng- tờ lá bối chép kinh

Từ tạ vua, dứt áo bỏ cung đình

Lìa thế tục cầu chi danh lợi hảo.

 

Xưa Thiện-Tài hơn trăm thành cầu đạo (13)

Mỗi tờ kinh mực đọng dấu hài ai

Ngài Ba-Luân khóc suốt bảy đêm ngày (14)

Cầu trí tuệ mở khai tâm bát nhã. (15)

 

Pháp bất-nhị nay đà chia đôi ngã (16)

Bắc và Nam hai mối đạo không đồng (17)

Người luận kinh sự, lý chẳng viên thông

Nhớ lời Phật, pháp truyền qua Đông độ. (18)

 

Xưa Ca-Diếp-Ma-Đằng vào Trung thổ (19)

Mang cho người trang Tứ-Thập-Nhị-Kinh

Vườn Tiêu Dao-vua dựng gác Tây-Minh

Ngài La-Thập từ Phạn-văn phiên dịch (20)

Cho người Hán hơn bốn trăm kinh quyển,

Trên đất Tần bút pháp kết ngọc hoa.

Pháp-Hộ đời Tây Tấn cũng tìm qua (21)

Mang lời Phật chép ra trang Hán tự.

 

Đỉnh Ngân-Sơn áo bay- vô trụ xứ (22)

Dòng A- Phu suối giữ bóng nguyệt tà.

Dấu tăng hài lá cỏ nép bên hoa

Phiến đá lạnh gối đầu đêm gió núi.

 

Hơn trăm dặm đồng cỏ xanh lầm lũi

Thành Khuất-Chi hùng biện trước đền vua

Người Cúc-Đa khinh mạn Luận-Du-Già (23,24)

Giữa pháp hội tỏ ra tăng-thượng-mạn.

 

Tâm từ ái đâu màng tranh sâu, cạn

Dẫn dắt người ví tát cạn ao sen

Như cánh vàng rực rỡ, nước bùn chen

Mang Tiểu, Đại hai thừa ra minh giải.

 

Kinh pháp Phật học khi còn thơ dại

Từ Thanh-Văn, Duyên-Giác đến Phật thừa.

Lời kinh nào chẳng phải pháp âm xưa,

Trí mê chấp mở bày tâm phân biệt.

Trí huệ Phật - ôi hai vầng nhật nguyệt.

 

Đi về tây, tìm đến thành Tô Diệp

Hai ngàn người Đột- Quyết cướp trên đường

Vào trại binh thuyết pháp giữa vòng gươm

Kinh Thập-Thiện dạy người xa nẽo dữ.

 

Sau bảy ngày lạc trong vùng núi tuyết

Vượt đại hồ, thành Tô Diệp dừng chân

Về phương tây, nghìn suối nước Bình-Tân

Hai trăm dặm đến thành đô Bạch-Thủy

 

Rời Cung-Ngự hơn dặm ngàn thiên lý

Đường tây nam sa mạc trải xương khô

Không dấu chân, không nước, cát xây mồ

Ai đã đến- nắm xương còn bỏ lại.

 

Vào cung điện trước quân thần thuyết giải

Mỗi bước đi tang hải cũng ngậm ngùi

Thiết-môn-quan ngàn dặm nước mây trôi

Sang sông lạnh tìm đến miền Hoạt quốc.

 

Người cầu pháp giữa đêm dài thắp đuốc

Đưa thiếp mời vấn Luận-Tỳ-Bà-Sa (25)

Đạt-Ma là tên gọi vị tăng già

Vang danh khắp vùng núi đồi Thông-Lĩnh.

 

Trước môn đệ phải cúi đầu cung kỉnh

Người dặm trường tìm Phật, trí như mây

Mỗi ngôn từ là mỗi pháp âm bay

Không chỗ trụ trên tờ kinh vô tự.

 

Thành Ba-Lợi tìm lại người huyền sử

Đến tháp thờ nhìn thấy dấu Thế Tôn

Chậu rữa tay, răng Phật, chổi cỏ rơm

Ôi đã phải vì người mà lưu lại.

 

Ka-pi-sa gặp nhiều tông lắm phái

Hoa như lai trổ đất Phật muôn mầu

Vua dựng tràng mở hội luận nông,sâu

Đại thừa giáo- ngài Ý Thanh, Huệ Tánh (26,27)

 

Nhất-Thiết-Hữu cùng Sa-Di-Tắc-Bộ (28)

Đồng uyên thâm kinh điển thuộc tông môn

Trước điện vàng, pháp Phật rộng càn khôn

Cả pháp hội phải một lòng qui phục.

 

Đại-Tuyết-Sơn giá băng tràn thung lũng

Gió rừng đêm rét lạnh mảnh tăng y

Trời mưa hoa tuyết trải trắng đường đi

Tiểu-Sa-Lãnh, núi Hắc-Sơn tiếp nối

 

Đồi gặp đồi, núi qua rồi lại núi

Sương mai về kết ngọc hạt long lanh

Người săn nai chỉ lối rẽ rừng xanh

Ngôi cổ tự Sa-Lạc-Ca dừng ngựa.

 

Na-ga-ra đất bùn ai trải tóc (29)

A-Dục-Vương tháp ngọc nhiễu quanh vòng (30)

Đăng-Quang-Thành mong thấy bóng Từ Tôn (31)

Trước thạch bích khấu đầu hơn trăm lạy

 

Đá nín lặng, đất trời như đọng lại

Cất lời than, cây cỏ cũng lặng im

Lệ tuôn dòng theo mạch máu về tim

Tiếng khẩn nguyện vọng từ hang núi lạnh.

 

Dường như đất vỡ ra thành muôn mảnh

Dường như trời khép lại một bầu không

Dường như trăng về hẹn giữa đêm rằm

Trên vách đá hiện một vòng ánh sáng.

Đầu đảnh lễ ánh từ quang tỏa rạng

Bóng Thế Tôn hiện rõ nếp kim lan

Chư Thanh-Văn, chư Bồ-Tát hai hàng

Động rêu đá hóa đạo tràng như huyễn.

 

Hơn ngàn dặm đi về miền Bắc Ấn

Ngựa dừng cương chùa Hộ-sắc-ca-la

Vòng tay cung, tăng chúng bước chân ra

Cùng đảnh lễ người phương xa cầu pháp.

 

Liền kể lại giữa khuya vừa khép mắt

Nghe trong mơ lời thúc giục tham thiền

Trên hư không hóa hiện dáng chư Thiên

Hoa trải lối, đèn đưa đường tìm Phật.

 

Vua nghe tiếng truyền ngựa xe tiếp rước

Đến kinh thành lưu lại viện Già-la

Trong hai năm cầu học vị tăng già

Ngài Tăng-Xứng, mỗi ngày ba thời pháp.(32)

 

Đồng thanh khí lời kinh tương hội nhập

Ngỏ lời khen : trí huệ sánh tiền nhân,

Đâu thẹn cùng ngài Vô-Trước, Thế-Thân (33,34)

Tiếc không sớm thấm nhuần hương vị đạo .

 

Bảy trăm dặm trèo non rồi lội suối

Về tây nam đến Yết-bổ-đà-la

Vượt dòng sông dùng lại đất Thước- ca

Đến học đạo với tông đồ Bồ Tát

Phái Trung-Luận tám trăm năm giáo pháp (35)

Dựng Không-môn miền Nam Ấn truyền thừa

Vị tăng già- đồ đệ của người xưa

Thông kinh tạng luận Bách-môn, Quảng-bách.(36,37)

 

Về phương đông đến Chi-na-phát-đế

Hơn một năm thọ pháp với tỳ khưu

Điều-Phục-Quang dạy Đối-pháp, Lý-môn (38,39,40)

Cùng chú giải ba mươi bài Duy-Thức.(41)

 

Mạt-thố-la tháp thờ môn đệ Phật

Trên lá hoa thấp thoáng đạo tràng xưa

Áo bày vai bên hữu, gối quỳ thưa

Như huyễn hiện vào ra ngôi tháp cổ.

 

Dừng chân đứng bên dòng sông cổ độ

Nước sông Hằng muôn thuở chảy về đâu

Bên dòng xưa dừng ngựa suốt mùa đông

Mở Kinh-Bộ Tỳ-bà-sa cầu học.( 42)

 

Đến Mạc-đế học Biện-chân, Phát-trí (43)

Khúc-nữ-thành ba tháng lại học kinh (44)

Tỳ-bà-sa ngài Nhật-Trụ thuyết minh (45)

Cuối mùa hạ, A-du-đà dừng lại.

 

Mỗi thánh địa buộc thuyền vào chiêm bái

Đến A-đề giặc cướp chận trên sông

Tế nữ thần, chọn làm vật thiêu thân

Tâm an định khiến cho người kinh ngạc.

Trời lộng gió thổi lật thuyền, bay cát

Cây hai bờ trút lá xuống lòng sông

Chừng thiên nhiên rúng động, nổi cuồng phong.

 

Đất Xá-vệ hơn dặm ngàn dừng ngựa (46)

Kỳ-thọ-viên vàng dát kín đất vua

Ca-tỳ-la đất cũ có bao giờ (47)

Thoáng nếp áo - tưởng người xưa cầm bát.

 

Rừng Sa-la vời bay đôi cánh hạc (48)

Gió hiu hiu làm động mấy tờ kinh

Câu-thi-na ba lần hiện hồi sinh (49)

Vườn Lộc-uyển lần đầu tiên chuyển pháp.

 

Phệ-xá-li, ứng thân Duy-Ma-Cật (50,51)

Ngài A-Nan xin bát sữa đề hồ (52)

Giường bệnh nằm hay thánh thất Tỳ-lô (53)

Pháp bất-nhị, vấn kinh không lời đáp.(54)

Ma-kiệt-đà tam tạng kinh kết tập (55)

Lần đầu tiên khi Phật nhập niết bàn

Cội bồ đề quỳ lạy, cất lời than

Cho dù biết Phật trên ngàn, dưới suối.

 

Nghìn cư sĩ kết hoa dâng pháp hội

Chư tăng ni cờ lọng chắp tay sen

Na-lan-đà bốn vị đại tỳ kheo (56)

Đến cung thỉnh rước về nơi tinh thất.

 

Chánh-Pháp-Tạng, ngài Giới-Hiền Bồ-Tát (57)

Hơn ba năm đã có ý đợi chờ

Người phương đông cầu pháp-thoáng trong mơ

Trên đất Ấn, dạy pháp môn Duy-Thức.

 

Na-lan-đà hơn năm năm dừng bước

Luận Bách-môn, Trung-quán,luận Du-Già

Một tờ kinh, một bóng, một đèn hoa

Ba lần giảng, ba lần nghe pháp vị.

 

Núi Hi-Lô kết hoa dâng lời nguyện

Tượng Quán-Âm hoa rải khắp trên thân

Nguyện mang kinh về đất cũ hoàn an

Như thật tướng nguyện tái sinh Đâu-Suất

Thấy Phật tánh, nguyện đời sau thành Phật

Nhận gia tài túi vải nặng hai vai (58)

Trên chiếc hài vương lá cỏ trần ai.

 

Kinh Vệ-Đà, tục truyền do thiên khải

Từ Phạm-Thiên, Đế-Thích xuống nhân gian

Mở tờ hoa tìm học những lời vàng

Mang so sánh với đạo tràng chư Phật.

 

Tâm bát ngát vượt trên Không và Sắc

Trí bao la đâu chấp Hữu hay Vô

Na-lan-đà cổng tu viện dựng cờ

Xé mảnh giấy của tông đồ ngoại đạo. (59)

 

Pháp chư Phật vượt trên tông và giáo

Lạ lùng thay- người chấp áo, chấp khăn

Dâng lên vua Giới-Nhật một bài văn

Cùng bài bác thuyết ‘Không’ như tà đạo.

 

Khúc-Nữ-Thành dựng hội trường luận thảo

Mười tám vua cùng chư vị tăng ni

Tượng Phật vàng voi trắng mở đường đi

Ngà chuốt cán, lọng tàng hoa kết ngọc.

Áo Đế-Thích, Phạm-Thiên làm sắc phục

Hai vì vua cầm lọng đứng hầu bên

Hoa trải đường, pháp nhạc trỗi trang nghiêm

Đồng cung thỉnh vào pháp đường an vị.

 

Chế-Ác-Luận phá trừ tâm nghi kỵ

Như mặt trời tỏ rạng ánh bình minh

Một bản văn truyền dán trước cổng thành

Ai bác được- nguyện dâng đầu chịu tội.

 

Một bản văn đọc bên trong pháp hội

Trước hàng ngàn tu sĩ cả đôi bên

Lời từ tâm vô ngại, trí vô biên.

 

Khắp hội trường không gian như chìm lắng

Các vì vua đồng hoan hỉ chắp tay

Hơn mười ngàn đại chúng suốt năm ngày

Cùng yên lặng không một lời vấn, đáp.

 

Vua khuyến khích ai người mong luận pháp

Được tự nhiên bày tỏ mối nghi nan

Đến cuối ngày bổng náo loạn hội tràng

Nhóm đối lập bày mưu toan hãm hại.

 

Vua xuống lệnh ai người không chính đại

Thiếu quang minh, hành động chẳng nghĩ suy

Y luật hình trừng trị chẳng kiêng vì

Buổi vấn pháp được duy trì tiếp tục.

 

Mười tám ngày số đông người qui phục

Trải thảm vàng, kiệu ngọc rước vòng quanh

Lời tung hô, chúc tụng khắp trong thành

Nêu danh hiệu ‘giải-thoát-thiên’ dâng tặng.

 

Đức khiêm cung từ tâm vô-sở-đắc (60)

Như- chân không. Thị- diệu hữu giả bày (61,62)

Lữa không sinh thiêu rụi chõng luận, suy

Gió chẳng trụ thổi tung sàn xuất, nhập

 

Tâm phân biệt sinh muôn vàn kiến chấp

Trí dở, hay toan lấy giả làm chân

Thuyền từ qua bể khổ cũng không hơn

Phương tiện hạnh mở bày như diệu dụng.

 

Tay nhân ái viết thiên Hội-Tông-Luận

Mong dung hòa nghịch, thuận- trí thế gian.

Cùng đồng qui Trung- quán với Du-già

Về nhất tướng- vẫn không ngoài Vô-Tướng.(63)

 

 



 

Chú thích

 

(1) Lạc-Dương : kinh đô nước Trung Hoa đời Hán.

(2) Huyễn dã : cánh đồng hư huyễn của sinh tử như mộng.

(3) Đại Từ Ân : Chùa Đại Từ Ân, năm Trinh Quán thứ 22, đời vua Đường thái Tông. Hoàng thái tử Trị dựng chùa cho mẹ là Văn Đức Hoàng Hậu. Ngài Huyền Trang đã xin vua Cao Tông xây tháp thờ bản tiếng Phạn của kinh luận và xá lợi Phật thỉnh từ Ấn Độ.

(4) Nhiếp-đại-thừa luận : Do bồ tát Vô-Trước soạn.

(5) Trường An : kinh đô nước Trung Hoa bắt đầu đời Hán, thuộc huyện Tây An, tỉnh Thiểm Tây.

(6) Câu xá luận : A tỳ đạt ma Câu xá luận do ngài Thế Thân biên soạn. Ngài Huyền Trang dịch ra 30 quyển.

(7) A-tỳ-đàm : còn gọi là A-tỳ-đạt-ma, tức Luận tạng.

(8) Thành-Thực-Tông: Tông phái Tiểu thừa, thành lập ở Ấn Độ. Tông nầy lấy Luận-Thành-Thực do ngài Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) soạn làm tông chỉ. Ngài Cưu-Ma-La-Thập đã dịch tập luận nầy ra Hán văn vào cuối thế kỷ thứ 5.

(9) Kỳ : tên ngựa, có thể chạy ngàn dặm.

(10) Linh-Thứu : còn gọi là núi Kỳ- xà- quật, Linh sơn, nơi Đức Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa.

(11) Diệu-Cao : núi Tu Di.

(12) Kỳ viên : vườn của thái tử Kỳ Đà, còn gọi là Kỳ-thọ viên. Ông Cấp-Cô-Độc dát vàng trên đất đổi cho thái tử, lấy khu vườn nầy cúng dường cho Phật làm đạo tràng.

(13) Thiện-Tài : vị đồng tử trong kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Nhập-Pháp-Giới, người tham vấn 53 vị thiện tri thức để cầu học bồ tát hạnh.

(14) Ba-Luân : Bồ tát Tát-Bà-Ba-Luân, dịch là Thường-Đề.

(15) Bát-nhã : Trí tuệ siêu việt biết rõ thực thể của các pháp.

(16) Bất-nhị : lý như nhất, bình đẳng.

(17) Bắc tông : ngài Thần-Tú. Nam tông : Đức Lục-Tổ Huệ-Năng.

(18) Đông độ : chỉ phương đông Ấn Độ. Độ là cõi.

(19) Ca-Diếp-Ma-Đằng : Ngài Kasyapa- mantanga, thế kỷ thứ nhất, đến Trung Hoa vào thời vua Hán Minh Đế, dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương.

(20) Cưu-Ma-La-Thập : ngài Kumara-Jiva, thế kỷ thứ 4.

(21) Pháp-Hộ : cao tăng Ấn Độ, đến Trung quốc năm 266, dịch 175 quyển kinh sang Hán văn.

(22) Vô trụ xứ : Pháp không tự tính, không sinh, không diệt, theo duyên mà dấy lên.

(23) Cúc-Đa : tên vị tăng Mokshagupta dịch là Mộc-Xoa-Cúc-Đa.

(24) Luận Du-Già : Du-Già-Sư-Địa-Luận, bộ yếu chỉ của học phái Du-già, tục truyền do Bồ tát Di-Lạc giáng thần xuống chùa A-du-đà dạy cho Bồ tát Vô-Trước ghi chép lại vào thế kỷ thứ 5.

(25) Tì-bà-sa luận : Vibhasa, có nghĩa là Quảng thuyết, giảng về Pháp tướng của Nhất-thiết-hữu bộ, gồm có 4 bộ.

(26) Ý-Thanh : ngài Mano-jnaghosa

(27) Huệ-Tánh : ngài Prajnakara

(28) Nhất-Thiết-Hữu : Tát-bà-đa, một tông tiểu thừa.

(29) Nagara : xứ Nagarahara, nơi Đức Phật Thích-Ca khi còn là Bồ tát đã trải áo và tóc trên đường đất bùn lầy, ước nguyện được Đức Phật Nhiên-Đăng bước qua.

(30) A-Dục Vương : tên vua A-Cu-Da, dịch là Vô-Ưu.

(31) Đăng-quang-thành : Dipankara, có hang lưu ảnh.

(32) Tăng-Xứng : ngài Sanghakirti ở thành Bhalluka, lúc nầy đã 70 tuổi.

(33) Vô-Trước : vị tổ của Pháp Tướng tông, người soạn Du-già-sư-địa-luận.

(34) Thế-Thân : sinh 900 năm sau khi Phật nhập diệt, viết 1000 bộ luận.

(35) Trung luận : Trung-quán luận do bồ tát Long-Thọ soạn.

(36) Bách môn : bách luận, gồm khoảng 100 bài kệ do Đề-Bà bồ tát soạn, Thế-Thân bồ tát chú giải, Cưu-Ma-La-Thập bồ tát dịch ra Hán văn.

(37) Quảng Bách : bộ luận doThánh Thiên Bồ tát soạn, ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn.

(38) Điều-Phục-Quang : ngài Vinitaprabha, người đã soạn hai bộ chú giải về Ngũ-Uẩn luận và Duy-thức-tam-thập-tụng.

(39) Đối pháp luận : A tì đạt ma luận.

(40) Lý môn luận : tên gọi tắt của Nhân-minh-chính-lý-môn-luận, là một trong ngũ minh, thuộc khoa học lý luận. Bồ Tát Trần-Na soạn.

(41) Duy-Thức : tất cả các pháp do Thức sinh.

(42) Kinh-Bộ : Kinh-lượng-bộ, là một trong 18 bộ của Tiểu thừa. Bốn trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt được tách rời từ Nhất-thiết-hữu bộ, lấy kinh làm chính. Người sáng lập là Kumara-ladha, dịch là Cưu-ma-la-đà.

(43) Phát-trí-luận : A-tì-đạt-ma-phát-trí-luận, 300 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, ngài Già-đa-diẽn-ni-tử soạn, 20 quyển. Ngài Huyền-Trang dịch ra Hán văn.

(44) Khúc-nữ-thành : đất Kanyakubja.

(45) Nhật-Trụ : ngài Suryavarman

(46) Xá-vệ : Sravasti, vua Ba-Tư-Nặc ở thành nầy.

(47) Ca-tỳ-la : Ca-tỳ-la-vệ, kinh đô của dòng Thích-Ca, vua Tịnh-Phạn trị vì. Đức Phật có lần cầm bát khất thực ở thành nầy khi về thăm hoàng tộc.

(48) Sa-la : rừng cây Ta-la long thọ. Loại cây nầy có hai thân song song. Kinh Niết Bàn nói rằng khi Đức Phật nhập diệt nơi rừng nầy, thân cây hóa ra đôi chim hạc nên còn gọi là cây Hạc.

(49) Câu-thi-na : nơi Phật nhập diệt.

(50) Phệ-xá-li : tên đất Vaisaki.

(51) Duy-Ma-Cật : ngài Vimala-kirti, dịch là Tịnh-Danh.

(52) A-Nan xin sữa : kinh Duy-Ma-Cật, phẩm Thanh-Văn.

(53) kinh Duy-Ma-Cật, phẩm Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh.

(54) Kinh Duy-Ma-Cật : Ngài Văn-Thù- Sư-Lợi hỏi ngài Duy-Ma-Cật : ‘những gì là bất nhị pháp môn?’. Ngài Duy-Ma-Cật im lặng không đáp. Ngài Văn-Thù nói: ‘Hay thay !. Không ngôn tự, văn thuyết, đó thật là bất-nhị pháp môn’.

(55) Ma-kiệt-đà : tên một nước ở Trung Ấn, có thành Vương Xá

(56) Na-lan-đà : ngôi chùa lớn ở nước Ma-kiệt-đà, các vua đời sau tu sửa trở thành một ngôi tinh xá lớn nhất Thiên-Trúc.

(57) Giới-Hiền : ngài Silabhadra, trụ trì chùa Na-lan-đà.

(58) Cung trời Đâu-Suất là trú xứ của Bồ-tát Di-Lạc. Theo truyền thuyết, bồ-tát có thời kỳ thị hiện ứng thân ở huyện Thuận-Hóa (Trung-quốc) mà người đời gọi là Bố-Đại hòa thượng vì ngài thường hay mang chiếc bao bằng vải lớn trên vai.

(59) một người thuộc nhóm Lokayatika, dịch là Thuận-Thế, dán trước cửa tinh xá Na-lan-đà một mảnh giấy viết 40 quan điểm của phái nầy; đồng thời thách thức bất cứ ai có thể bác được lập luận nêu trên. Sau nhiều ngày không ai lên tiếng, Ngài Huyền-Trang cho người ra xé mảnh giấy ném xuống đất.

(60) vô-sở-đắc : trí tuệ thể hội được vô tướng, không còn gì để chấp giữ, phân biệt.

(61) Không trong phi không là Chân-không.

(62) Hữu trong phi hữu là Diệu-hữu.

(63) Vô Tướng : ‘Nhất pháp tức là vô tướng’ ( kinh Vô-Lượng-Nghĩa).

 

 tamtangphapsuhuyentrang

Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang
Ngài Huyền-Trang người Lạc Châu, tỉnh Hà Nam, sinh năm Khai Hoàng thứ 20 đời vua Tùy Văn Đế, tức năm 600.
Sau chuyến tham bái và cầu pháp ở đất Thiên Trúc, ngài để lại cho hậu thế một sự nghiệp vĩ đại qua 20 năm phiên dịch kinh điển, gồm có 76 bộ kinh, 1349 quyển. Ngoài những bộ kinh luận quan trọng về Duy Thức và Trung Quán, ngài đã hoàn tất bộ ‘ Đại Bát Nhã Ba La Mật ’ gồm 600 quyển trong những ngày gần cuối đời. Năm 664 viên tịch tại cung Ngọc Hoa, thọ 65 tuổi. Vua Đường Cao Tông bãi triều 3 ngày làm lễ quốc táng.



***
facebook
youtube
 
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2011(Xem: 7018)
Vạt nắng vui đùa cơn gió thoảng nụ cười hoa nở lúc xuân sang chân tình từng bước ru hoang dại mở cánh mai vàng đón ước mơ ta đi tìm đến cửa thiên thanh từ thưở lòng son ngủ giấc dài bao thiên niên kỷ, nhìn mây nước giật mình, thấy bóng vẫn không phai..
14/01/2011(Xem: 5995)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài, đôi mắt vẫn hoang vu như ngày nào. Tôi mỉm cười vì ngày xưa, anh cũng từng nhìn đôi mắt tôi, thăm dò. Lúc đó, cao hứng làm sao, tôi vội trả lời bằng hai câu thơ nhí nhố của tuổi trẻ “ mắt tôi chứa cả bầu trời. Mắt tôi ôm cả một đời thương yêu”..Thế mà thời gian đã vội trôi qua, phong trần đã cướp đi nhiều thứ trong anh, trong tôi..
11/01/2011(Xem: 9087)
Hôm ấy vào ngày hoa sen nở, Lòng tôi lơ đãng lạc phương nao? Trên tay giỏ hoa dường trống rỗng...
05/01/2011(Xem: 6840)
Chiều đông lạnh đứng trên thềm gạch cũ, Lòng nao nao nhớ lại thuở huy hoàng. Khi Đức Phật và Tăng đoàn tựu đủ, Từ nơi này truyền đạo khắp nhân gian. Bao mùa hạ nơi Trúc Lâm Tịnh Xá, Phật vẫn thường lui tới ngụ dưỡng an. Một tịnh cảnh nằm giữa thành Vương Xá,
05/01/2011(Xem: 7441)
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư Học hành không thiếu cũng không dư Năm nay tính lại chừng quên hết Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ
05/01/2011(Xem: 7684)
sỏi đá vun lên mấy cội tòng, đất trời ai biết có ai không?
04/01/2011(Xem: 5784)
Tôi nghe một cõi tâm tư Rung lên tiếng vọng xa rồi thời gian Tôi nghe một cõi âm vang Rung lên cung điệu bên đàng chưa pha Một thời dĩ vãng đi qua Mờ mờ ẩn hiện nhường xa hóa gần Phong trần mấy độ thương thân Tang thương mấy độ cũng ngần ấy thôi Khi cao cao vút lưng đồi
04/01/2011(Xem: 5425)
Bữa hôm nay mặt trời đi ngủ sớm Nắng nhẹ rơi vàng vọt kéo nương chiều Đẩy lưng trời nhè nhẹ gió hiu hiu Nắng gát đầu non ngập ngừng chưa muốn tắt
04/01/2011(Xem: 6336)
Cho khoai tây, gừng, đậu xanh, măng non, muối, bột ngọt, đường, gừng vào một cái thố, trộn đều rồi ép nhẹ thành miếng hình chữ nhật dày 1.5cm.
03/01/2011(Xem: 5791)
Hễ còn sống, còn làm, không nói trước Nếu chết đi, từ tạ, thế là xong Nên an vui cho trọn vẹn tấm lòng Kẻo uổng phí một lần vào sinh tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567