Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

141. Kinh Phân Biệt Sự Thật

19/05/202011:36(Xem: 8152)
141. Kinh Phân Biệt Sự Thật

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


141. Kinh  PHÂN BIỆT SỰ THẬT

( Saccavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn trú tại

          Ba-La-Nại – Ba-Rá-Na-Si    (1)

             ‘Chư Thiên đọa xứ’ nơi mà

       Gọi I-Sí-Pá-Ta-Na, cũng là

          Lộc Uyển hay Mi-Ga-Đa-Dá.  (1)

 

          Rồi Phật gọi tất cả Tỷ Kheo :     

        – “ Hãy nghe, này các Tỷ Kheo !

       Chúng Tăng đều đáp vâng theo lời Ngài.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm oai thuyết giảng : 

 

    – “ Như Lai giảng ‘Vô Thượng Pháp Luân’

              Được bậc tôn quý cõi trần

       Chánh Đẳng Chánh Giác chuyển vần hoằng khai

          Tại Vườn Nai (Lộc Uyển) tuần tự

          Chỗ Chư Tiên đọa xứ dã thôn.

              Không một Sa-môn, Bàn-môn,

       Chư Thiên, Ma, Phạm hay còn một ai   

          Ở đời này có thể chận lại

    ___________________________

 

     (1) : Xứ Ba-La-Nại ( Vàranasi hay Bàranasi ) xưa kia là nước

     Ca-Thi ( Kasi ). Thời cận đại có tên là Benares, nay là Bang

     Varanasi của nước Ấn Độ. Nơi đây có một Thánh tích Phật giáo

     trong Tứ Động Tâm, đó là Lộc Uyển (Vườn Nai) Isipatana (chỗ

     Chư Thiên đọa xứ) hay còn gọi là Migadaya, nơi Đức Phật 

     Chuyển Pháp Luân đầu tiên, thuyết về Tứ Diệu Đế, độ năm vị

     trong nhóm Kiều Trần Như ( Aññà Kondañña ).   

 

          Hay chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết – mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng phần

          Để hiển lộ bốn Chân Thánh-đế.

          Sao là bốn ? Được kể thành phần

              Là Khổ Thánh-đế, rồi phần

       Khổ Tập Thánh-đế  (nguyên nhân khổ này) 

          Diệt Thánh-đế sâu dày được kể

          Đạo Thánh-đế, hành chứng đạo mầu.

 

              Vô thượng Pháp Luân cao sâu

       Được bậc Chánh Giác, đứng đầu Nhân Thiên

          Chuyển vận tại Chư Tiên đọa xứ,

          Không một ai – đơn cử như là

              Chư Thiên, Phạm Thiên, Chúa Ma

       Hoặc các Phạm-chí hay Sa-môn nào

          Không thể nào chận đứng chuyển vận,

          Hoặc chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng dần,

          Hiển lộ Chân Thánh-đế thượng đẳng.

 

          Chúng Tăng ! Hãy thân cận thiết tha 

              Phích-Khú Sa-Ri-Pút-Ta        

       Cùng Phích-Khú Mốc-Ga-La-Na này

          Gần gũi các vị đây để thấy  

          Các vị ấy là bậc xuất gia

              Hiền trí (tức Panh-Đi-Ta)         ( Pandita )

       Thường hay sách tấn các Sa-môn là

          Đồng Phạm-hạnh – như là sinh mẫu

          Là vô lậu Sa-Ri-Pút-Ta.

              Còn với Mốc-Ga-La-Na     

       Coi như dưỡng mẫu trải qua mọi thì.

          Các Tỷ Kheo ! Sa-Ri-Pút-Tá  (1)

          Hướng dẫn đến Sơ quả Dư-Lưu.

              Còn Mục Kiền Liên (2) Tỷ Khưu

       Hướng dẫn tối-thượng-nghĩa, ưu thắng nhiều.

 

          Các Tỷ Kheo ! Xá-Lợi-Phất đó 

          Có thể có khai thị, thuyết qua

              Thi thiết, kiến lập, rộng ra,

       Phân biệt hiển lộ thật là rộng sâu

          Bốn Thánh-đế thanh cao vừa kể ”.

 

          Thế Tôn nói như thế rồi thôi,

              Đứng dậy từ chỗ Ngài ngồi

       Đi vào hương thất ở nơi rừng này.

 

          Tại nơi đây, sau khi Giác Giả

          Đi không lâu, Tôn-giả Trí tài

              Là Xá-Lợi-Phất vị này

       Liền gọi Tăng Chúng nơi này, giảng ngay :

 

    – “ Chư Hiền này ! ‘Pháp luân tối thượng’

          Đã được bậc Vô lượng Trí Bi,

              Bậc Chánh Đẳng Giác, Toàn Tri,

       Chuyển bánh xe Pháp huyền vi, nhiệm mầu

          Khi Ngài vào Vườn Nai – Lộc Uyển

          Nơi có tiếng ‘Đọa xứ Chư Thiên’.

              Và ở đây, này Chư Hiền !

       Sao là Khổ Thánh Đế liền xảy ra ?

          Sanh là khổ, già là khổ đó,

   ______________________

 

(1) : Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất, vị Đại đệ tử của Phật, Trí

      tuệ đệ nhất.        (2) : Tôn-giả Mogganlàna – Mục-Kiền-Liên, 

     vị Đại đệ tử Phật, Thần thông đệ nhất.  

 

          Bệnh & chết khổ, ưu, não, sầu, bi,

              Cũng gọi là Khổ cần tri,

       Tóm lại, năm thủ-uẩn thì khổ đau.

      *  Này Chư Hiền ! Thế nào Sanh vậy ?

          Chúng ta thấy mỗi hạng chúng sanh

              Giới loại, xuất sản, xuất sanh,

       Tái sanh của chúng, xuất thành ở đây

          Xuất hiện đây các uẩn, hoạch đắc

          Các căn chất. Chư Hiền-giả này !

              Gọi đó là ‘sanh’ như vầy.

 

 *  ‘Già’ là sao vậy ? Hàng ngày chúng sinh 

          Mỗi mỗi hạng trong từng giới loại

          Sự niên lão, biến hoại, yếu dần

              Rụng răng, tóc bạc, da nhăn

       Tuổi thọ rút ngắn, các căn suy tàn,

          Hiện tượng chỉ rõ ràng già cả.

 

      *  Chư Hiền-giả ! Sự ‘chết’ ra sao ?

              Mỗi mỗi hạng chúng sanh nào

       Trong từng giới loại, trước sau cũng đều

          Bị cuốn theo sự chết, tạ thế,

          Sự từ trần, thân thể hoại vong,

              Tắt thở, bất động, tử vong

       Các uẩn đã tận diệt trong thân này.

          Vất bỏ ngay tử thi hủy hoại,

          Chư Hiền ! Gọi sự ‘chết’ là đây. 

 

          *  Còn thế nào là ‘sầu’ vầy ?

       Những tai nạn với những ai gặp này,

          Với những ai cảm thọ đau khổ

          Đau khổ này, đau khổ khác sau,

              Sự sầu người ấy cảm mau,

       Được gọi sự ấy là sầu ở đây.

 

          Chư Hiền này ! ‘Bi’ là sao vậy ?

          Với những ai gặp phải nạn tai

              Hay cảm thọ đau khổ này

       Hay sự đau khổ khác vầy, ai bi

          Sự than van, sự bi thảm mãi

          Sự thống thiết. Như vậy là ‘bi’.

 

          *  Này Chư Hiền ! ‘Khổ’ là chi ? 

       Là sự đau khổ thân ni, úa xàu

          Sự khổ đau do thân cảm thọ,

          Không sảng khoái cảm thọ của thân,

              Như vầy là ‘khổ’ thuộc phần.

 

   *  Sao là ‘ưu’ ! Chư Hiền cần hiểu mau

          Sự khổ đau về tâm hiện có,

          Đau khổ do cảm thọ của tâm,

              Như vậy là ‘ưu’ âm thầm.

 

   *  Thế nào là ‘não’ ? Gặp nhằm nạn tai

          Tai nạn này hay tai nạn khác,

          Cảm thọ khổ này & khác mọi thì,

              Sự áo não, sự ai bi,

       Thất vọng, tuyệt vọng níu trì người đây

          Những điều này gọi là ‘não’ tất. 

 

      *  Sao là ‘cầu bất đắc khổ’ vầy ?

              Này Chư Hiền ! Chúng sinh đây

       Bị sanh chi phối, khởi ngay mong cầu :

         ‘Mong khỏi bị sanh nào chi phối,

          Mong ta khỏi phải đi thác sanh’,

              Mong cầu ấy không tựu thành

      ‘Cầu bất đắc khổ’ là danh tự vầy.

          Chư Hiền này ! Chúng sinh mỗi mỗi   

          Già, bệnh, chết – chi phối mọi thì

              Bị ưu, khổ, não, sầu, bi,

       Cũng đều chi phối, không chi thoát nàn.       

         ‘Mong cầu rằng ta thoát khỏi hết

          Già, bệnh, chết, ưu, não, ai bi,

              Khổ, sầu chi phối mọi thì,

       Mong cầu không được điều chi tựu thành

          Gọi đích danh ‘cầu bất đắc khổ’.

 

          Tóm lại, năm uẩn khổ đó là :

              Sắc & thọ & tưởng-thủ-uẩn, và

       Hành & thức-thủ-uẩn – trải qua khổ liền.

          Này Chư Hiền ! Khổ Tập Thánh-đế

          Thế nào để hiểu biết rõ rành

              Sự tham ái khiến tái sanh

       Câu hữu với hỷ, tham – sanh tìm cầu,

          Hỷ lạc nào chỗ này, chỗ khác

          Như dục & hữu & vô-hữu-ái này

              Khổ Tập Thánh-đế là đây.

 

       Khổ Diệt Thánh-đế hiểu ngay là gì ?

          Sự diệt tận không vì luyến tiếc

          Tham ái ấy, sự việc xả ly

              Khí xả, giải thoát tức thì

       Sự vô nhiễm tham ái ni. Như vầy  

          Gọi điều này : Khổ Diệt Thánh-đế.

 

          Còn Khổ Diệt Đạo Đế là gì ?  

              Đó là Thánh-đạo tám chi :  

       Chánh-tri-kiến, Chánh-tư-duy – cùng là

          Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng,

          Chánh-tinh-tấn, chánh niệm, định chân.

 

              Chư Hiền ! Thế nào là phần

  *  Chánh tri kiến ấy ? Phải cần hiểu qua

          Tri kiến về Khổ và khổ Tập,

          Tri kiến gấp Diệt & Đạo cả hai

              Gọi là Chánh tri kiến vầy.

   *  Chánh-tư-duy ấy ở đây là gì ?

          Là tư duy ly dục, bất hại,

          Về vô sân, tự tại hòa hài.

 

          *  Thế nào là chánh-ngữ này ?

       Tự chế, không nói láo hay những lời

          Nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu,

          Không nói ẩu phù phiếm, ba hoa 

              Như vậy chánh ngữ gọi là.

 

   *  Sao là chánh-nghiệp ? Trải qua mọi thời

          Không sát sinh, xa rời tà hạnh,

          Không trộm cướp – là chánh nghiệp đây.

 

          *  Thế nào là chánh mạng vầy ? 

       Vị Thánh đệ tử chẳng lay tinh cần

          Từ bỏ hẳn những phần tà mạng,

          Sinh sống bằng chánh mạng thẳng ngay

              Gọi là chánh-mạng điều này.

 

   *  Còn chánh-tinh-tấn ở đây thế nào ?

          Này Chư Hiền ! Đối đầu các ác,

      –  Bất thiện pháp này, khác chưa sanh

              Khởi ý muốn không cho sanh

       Với sự nỗ lực, tinh cần, quyết tâm

          Và trì chí. Còn nhằm điều khác

      –  Bất thiện pháp, các ác đã sanh

              Khởi ý muốn trừ diệt nhanh.

   –  Với các thiện pháp an lành chưa sanh

          Khởi ý muốn khiến sanh khởi tới.

      –  Các thiện pháp đã khởi sanh rồi

              Khởi lên ý muốn tức thời

       Khiến cho an trú, không dời đổi chi,  

          Không băng hoại, mọi thì phát triển,

          Tăng trưởng thiện viên mãn. Vị này

              Nỗ lực, tinh tấn chẳng lay

       Quyết tâm, trì chí đêm ngày cần chuyên.

 

          Này Chư Hiền ! Như vậy ắt hẳn   

          Chánh tinh tấn để gọi điều đây.

 

          *  Thế nào là chánh niệm vầy ?

       Chư Hiền ! Vị Tỷ Kheo đây tinh cần

          Sống quán thân trên thân, tỉnh giác

          Nhiệt tâm, chế ngự các tham ưu

              Ở đời (như chận bộc lưu)

       Quán thọ trên các thọ, lưu tâm nhiều.

          Quán tâm đều trên tâm. Quán pháp

          Trên các pháp, tỉnh giác, nhiệt tâm

              Để chế ngự các ưu tham,

       Chư Hiền ! Chánh niệm là làm như trên.

 

      *  Thế nào là gọi tên ‘chánh định’ ?  

          Vị Tỷ Kheo thanh tịnh an nhiên

              Ly dục, ly ác pháp liền

       Chứng và an trú Sơ Thiền (đầu tiên)

          Một trạng thái đi liền hỷ lạc

          Ly dục sanh với các tứ, tầm.

              Tiếp đó diệt tứ, diệt tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành

          Trạng thái do định sanh hỷ lạc

          Không tầm, tứ  – nội tĩnh nhất tâm

              Ly hỷ trú xả âm thầm

       Chánh niệm, tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, Thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’, tâm yên        

              Chứng, trú vào Đệ tam Thiền.

       Xả lạc, xả khổ, diệt liền hỷ ưu

          Vị Tỳ Khưu Tứ Thiền chứng, trú

          Không khổ & lạc, không giữ niệm nào, 

              Như vậy chánh định đạt vào,

       Khổ Diệt Đạo Đế thanh cao là vầy.

          Vô thượng Pháp luân đây do bậc

          Thế Tôn, Phật, Ứng Cúng, Toàn Tri

              Chánh Đẳng Chánh Giác, sơ thì

       Chuyển tại Lộc Uyển, diệu vi nhiệm huyền

          Nơi được gọi ‘Chư Thiên đọa xứ’,

          Không một ai – đơn cử như là

              Chư Thiên, Phạm Thiên, Chúa Ma

       Hoặc các Phạm-chí hay Sa-môn nào

          Không thể nào chận đứng chuyển vận,

          Hoặc chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng dần,

          Hiển lộ Chân Thánh-đế như thật ”.

 

          Nghe vị Xá-Lợi-Phất thuyết ra

              Giảng rộng giáo nghĩa sâu xa

       Chư Tăng hoan hỷ tin và vâng theo ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

* *  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 141 :  PHÂN BIỆT về SỰ THẬT  –  SACCAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/07/2010(Xem: 12534)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25324)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8027)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6642)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10183)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7712)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12209)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7500)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31207)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567