Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

147. Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La

19/05/202011:38(Xem: 8404)
147. Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


147. Tiểu Kinh GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA

( CùlaRahulovàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Vá-Na 

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.

          Đấng Pháp Vương trong khi nhàn tịnh

          Thời tư niệm ý định khởi ra :

            “Thuần thục là những pháp mà

       Đưa đến giải thoát cho Ra-Hu-Là.

          Vậy thời phải cần qua huấn luyện

          La-Hầu-La được kiện toàn hơn,

              Đoạn tận lậu-hoặc nguồn cơn”. 

 

       Buổi sáng ngày kế, bậc Chơn Phật Đà

          Đắp y và mang theo bình bát

          Đi vào Thành Sa-Vát-Thí này

              Tuần tự khất thực tại đây,

       Sau khi ngọ thực, Ngài quay trở về.

          Phật bảo vị cận kề Thị-giả

          Gọi Tôn-giả La-Hầu-La ngay,

              Rồi Ngài bảo Tôn-giả này :

 

 – “ Này Ra-Hu-Lá ! Cầm ngay đồ ngồi

         (Tức tọa cụ) để rồi đến cả

          Rừng An-Đa-Va-Ná nghỉ trưa ”.

         – “ Xin vâng !” Tôn giả liền thưa,

       Rồi đi theo Phật dẫu chưa biết là

          Đức Phật Đà vì sao bảo vậy.

          Trong lúc ấy, hàng ngàn Chư Thiên

              Cũng đi theo Đức Phật liền

       Nghĩ : “Đấng Thầy cả Nhân Thiên bữa này

          Sẽ huấn luyện, chỉ bày chuyên chú

          Cho Tôn-giả Ra-Hú-Lá này

              Tiến xa trong sự diệt ngay

       Tất cả lậu-hoặc chứa đầy khổ đau”.

 

          Phật đi sâu vào rừng được tả

          Là khu rừng An-Đá-Vá-Na   (1) 

              Ngài ngồi trên chỗ soạn ra

       Còn Tôn-giả Ra-Hu-La (2) ngồi gần

          Sau khi đã nghiêm thân đảnh lễ.

          Đấng Thiện Thệ liền hỏi tỏ tưởng :

 

        – “ Mắt là thường hay vô thường ? ”.

 

 – “ Bạch Thế Tôn ! Là vô thường mắt ni ”.

 

    – “ Phàm cái gì vô thường là lạc  

          Hay nói khác là khổ ở đây ? ”. 

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Là khổ đầy ”. 

 

 – “ Cái vô thường, khổ và hay đổi dời

          Bị biến hoại, vậy thời khi nghĩ

          Có hợp lý tư tưởng như vầy :

             ‘Của tôi’, ‘là tôi cái này’,

      ‘Cái này là tự ngã rày của tôi’ ? ”.

    _______________________

 

(1) : Rừng Andhavana.    (2) : Tôn-giả Rahula ( La-Hầu-La ) là con 

      Thái-tử Siddhattha tức Đức Phật sau này. Ngài được xưng tụng

      là vị Mật Hạnh đệ nhất trong Thập Đại Đệ Tử Phật.

 

    – “ Điều này thời không phải như vậy ”.

 

    – “ La-Hầu-La ! Sắc ấy là thường

              Hay là vô thường sắc này ?

       Còn nhãn-thức là thường hay vô thường ?

          Là thường hay vô thường nhãn-xúc ?

          Và do duyên nhãn xúc ở đây

              Thọ, tưởng, hành, thức khởi ngay

       Thường & vô thường các pháp này khởi lên ? ”. 

 

    – “ Bạch Phật ! Các điều trên cả thảy

          Đều vô thường. Con thấy như vầy ”.

 

         – “ Cái gì vô thường ở đây

       Là khổ hay lạc, điều này xảy ra ? ”.

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Chúng đều là khổ ”.

 

    – “ Cái gì vô thường, khổ, đổi thay

              Biến hoại chẳng ngừng như vầy,

       Có hợp lý khi nghĩ ngay : ‘Cái này

          Là của tôi’, ‘Cái này tôi đó’,

         ‘Cái này có tự ngã của tôi’ ? ”.

 

        – “ Bạch Phật ! Đều là không rồi ! ”.

 

 – “ Này Ra-Hu-Lá ! Vậy thời sao đây ?

          Tai, mũi, lưỡi, thân này và ý

          Là thường hay cũng chỉ vô thường ?

              Ý-thức, ý-xúc là thường

       Hay tất cả đều vô thường ở đây ?

          Do duyên ý-xúc này, được khởi

          Thọ, tưởng, hành, thức. Với pháp này

              Là thường hay vô thường vầy ? ”.

 

 – “ Bạch Phật ! Đều vô thường, đầy tai ương ”. 

 

   – “ Cái vô thường là lạc hay khổ ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Là khổ dẫy đầy ”. 

 

        – “ Cái vô thường, khổ, đổi thay 

       Hợp lý chăng khi một ai nghĩ là :

         ‘Cái này là của tôi’, ‘tôi đó’,

          Cái này có tự ngã của tôi’ ? ”.

 

        – “ Bạch Phật ! Đều là không rồi ! ”. 

 

 – “ Này Ra-Hu-Lá ! Do nơi thấy vầy

          Vị Thánh đệ tử này cẩn mật

          Yểm ly mắt, các sắc thấy qua

              Yểm ly nhãn thức, cùng là

       Yểm ly nhãn xúc, cũng là nhân duyên

          Để khởi lên thọ, tưởng, hành, thức,

          Và lập tức yểm ly pháp đây

              Đã được khởi lên như vầy.

 

       Yểm ly tai, các tiếng này yểm ly,

          Yểm ly mũi, yểm ly hương, với

          Yểm ly lưỡi, các vị yểm ly,

              Thân và các xúc yểm ly,

       Yểm ly các pháp, yểm ly ý này…

          Yểm ly ngay ý thức, ý xúc

          Rồi do duyên ý xúc ở đây

              Khởi thọ, tưởng, hành, thức ngay

       Yểm ly các pháp khởi đây tức thì.

 

          Do yểm ly, ly tham đã đạt  

          Do ly tham, giải thoát gần ngay.

              Trong sự giải thoát, vị này 

       Hiểu rằng : ‘Ta đã từ rày thoát ra,

          Được giải thoát’. Cũng là rõ biết :

         ‘Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành,

              Việc cần làm đã thực hành,      

       Không còn dính mắc tử sanh luân hồi’.

 

          Nghe những lời của bậc Giác Giả  

          Tôn-giả Ra-Hu-Lá hân hoan

              Tín thọ Thế Tôn lời vàng,

       Tôn-giả tức khắc vẹt màn vô minh

          Và tự mình thoát khỏi lậu hoặc,

          Không dính mắc chấp thủ mọi phần.

 

              Lúc ấy, hàng ngàn Thiên thần

       Pháp nhãn vô cấu, ly trần khởi lên :

         ‘Phàm cái gì khởi lên như vậy

          Mọi cái ấy đều bị diệt trừ’. 

 

              La-Hầu-La tâm an như

       Được giáo giới bởi Đạo Sư Phật Đà ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Tiểu Kinh số 147 :  GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA  –  CÙLARÀHUOVÀDA  Sutta  )  



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/07/2010(Xem: 12537)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25329)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8027)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6643)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10184)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7716)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12214)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7501)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31211)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567