Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12 Đại Nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát (thơ)

16/04/201419:37(Xem: 21422)
12 Đại Nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát (thơ)


quanambotat

MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
(bài viết thành thơ)
Vi Tâm

(Nguyện thứ nhất)

Hiệu danh Tự Tại là tôi

Bồ Tát là vị, Như Lai là lòng

Tu hành đã được viên thông

Nguyện đi quảng pháp khắp vùng thế gian

(Nguyện thứ hai)

Những điều đã được ấn tường

Bên bờ Nam Hải chỗ thường tới lui

Tôi đem cứu độ cho đời

Thân tâm tự tại quảng lời vị tha

(Nguyện thứ ba)

Đem thân xuống giới Ta Bà

U Minh cõi tạm, đứng xa lắng nhìn

Ở đâu có tiếng gọi tên

Là tôi thể hiện tới liền cứu ngay

(Nguyện thứ bốn)

Được nhờ công sức đã đầy

Tà ma yêu quái thẳng tay dẹp liền

(Nguyện thứ năm)

Trên tay dương liễu một nhành,

Nhúng vào bình nước diệu lành rưới cho

Chúng sanh hứng giọt cam lồ

Thành tâm niệm Phật Nam Mô thoại đầu

(Nguyện thứ sáu)

Mọi người bình đẳng như nhau

Quán Âm không xét kẻ cao người hèn

Một lòng hỷ xả xót thương

Từ bi cứu độ bốn phương đồng đều

(Nguyện thứ bẩy)

Gặp người tổn hại hư hao,

Thân sa địa ngục, nghiệp vào súc sanh

Người vì ngạ quỷ điêu linh

Là ta hiển thị cứu sinh dẹp tà

(Nguyện thứ tám)

Nếu ai gặp cảnh sút sa

Hướng Nam thành kính lễ ta một lòng

Thì dù xiềng xích gông cùm

Quán Âm sẽ tới giải vòng can qua

(Nguyện thứ chín)

Pháp thuyền một chiếc tạo ra

Quán Âm đi khắp Ta Bà bốn phương

Ngày đêm độ khổ ban thương

Qua giòng sông rộng vượt đường biển sâu

(Nguyện thứ mười)

Những ai kiên quyết nguyện cầu

Giờ lâm chung đến lúc vào Tây Phương

Quán Âm sẽ đón chỉ đường,

Lọng xanh đi trước phướng vàng đi sau.

(Nguyện thứ mười một)

Có lời ấn ký nhiệm mầu

Giới Vô Lượng Thọ lối vào uy nghi

Quán Âm biết nếu kiên trì

Niết Bàn sẽ đạt khi về Phương Tây

(Nguyện thứ mười hai)

Đoan nghiêm nào được có ai

Mười hai lời nguyện chẳng sai một lời ?

Nguyện thành mới được theo Thầy

Đài sen tọa ngự Phật vời gọi lên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.

1. Nam Mô hiệu Viên-Thông, danh Tự Tại, Quan-Âm Như Lai quảng-phát hoằng thệ nguyện.

(Được xưng tặng là hiểu biết đầy đủ thông dong hoàn toàn, Ngài đem pháp tu hành mà khuyên độ khắp cùng)

2. Nam-mô vô quái ngại, Quan-Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện.

(Ở trong một niệm tâm được tự tại vô ngại, Ngài nguyện thường ở biển phương Nam để cứu độ chúng sanh)

3. Nam-mô trú Ta-Bà U-Minh giới Quan Âm Như-Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện.

(Luôn ở cõi Ta Bà và cõi U-Minh, Ngài cứu độ kẻ nào kêu cầu tới Ngài)

4. Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như-Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.

(Trừ khử loài tà ma, yêu quái, Ngài có đủ sức cứu người gặp nguy hiểm)

5. Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện.

(Ngài cầm nhành dương liễu dịu dàng nhúng vào nước ngọt mát trong cái bình thanh tịnh để rưới lòng của chúng sanh)



6. Nam-mô Đại-Từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện.

(Thương xót người đói và sẵng lòng tha thứ, Ngài không phân biệt kẻ oán người thân, tất cả đều coi như nhau)

7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như-Lai thệ diệt tam đồ nguyện.

(Đêm ngày đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh ra khỏi các sự tổn hại, Ngài nguyện cứu vớt chúng sanh ra khỏi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh)



8. Nam-mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như-Lai, già tỏa giải thoát nguyện.

(Nếu ai quay về núi hướng nam mà hết lòng cầu nguyện thì dầu có bị gông cùm xiềng xích cũng được thoát khỏi)

9. Nam-mô tạo pháp-thuyền du khổ hải, Quan Âm Như-Lai độ tận chúng sanh nguyện.

(Dùng phép tu hành để làm chiếc thuyền, Ngài đi cùng trong biển khổ để độ hết chúng sanh)

10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện.

(Nếu ai cầu nguyện và tu hành theo Ngài chỉ dẫn, khi rời bỏ xác thân này thì sẽ có phướng dài đi trước, tàng lọng quý giá theo sau, để rước về Tây Phương)



11. Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như-Lai Di Đà thọ ký nguyện.

(Ở giới của Đức Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà), Ngài đã được cho biết trước là về sau Ngài sẽ thay thế Đức Phật A Di Đà ở ngôi vị đó)

12. Nam-mô đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như-Lai quả tu thập nhị nguyện.

(Được thân hình nghiêm trang không ai so sánh được với Ngài, ấy là kết quả của sự tu theo mười hai lời nguyện lớn ấy)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/10/2015(Xem: 7534)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 14786)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 9553)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 6883)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 7906)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
23/09/2015(Xem: 6343)
Em quỳ rạng rỡ nét vui Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn Chấp tay tâm sáng diệu thường Tàm quý hướng thiện giữa đường tôi qua... Em quỳ thanh khiết ngọc ngà Nguyện xin bất tịnh nhạt nhòa phàm thân Chấp tay tuệ giác bừng tâm Nẻo phù hoa ấy lặng câm tôi nh
23/09/2015(Xem: 7501)
Từ cao sơn dõi mắt nhìn Xuống non ra biển, một miền thùy dương Hồng trần mãi nhịp bi thương Lao xao tất bật rộn đường mưu sinh Lăng xăng đấu đá tranh giành Thất tình lục dục, trần căn dập dìu... Vui nhất thời chẳng bao nhiêu Khổ triền miên khổ vẫn nhiều khóc than Trời xanh, nắng đẹp, cát vàng Phố xinh, nhà lớn, cao sang sắc hình
09/09/2015(Xem: 6594)
Bé nằm ngủ trên cát Êm ả như nôi hồng Xoải tay nghe gió hát Sóng vỗ bờ mênh mông …
08/09/2015(Xem: 7547)
Aylan ơi! Sao em nằm úp mặt? Hãy ngước lên! Trông kìa, rạt rào muôn ngọn sóng của trùng khơi! Aylan ơi! Ta muốn trông thấy dấu chân em bé xíu, Xinh xinh trên bãi cát phẳng lì. Trông kìa, sao trông giống dấu chân ta thuở bé.
05/09/2015(Xem: 6530)
Tôi sinh ra với một tiếng khóc Như biết được kiếp người khổ đau Lớn lên theo bốn mùa thay đổi Sớm thấy được vạn pháp vô thường.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567