(Nguyện thứ nhất)
Hiệu danh Tự Tại là tôi
Bồ Tát là vị, Như Lai là lòng
Tu hành đã được viên thông
Nguyện đi quảng pháp khắp vùng thế gian
(Nguyện thứ hai)
Những điều đã được ấn tường
Bên bờ Nam Hải chỗ thường tới lui
Tôi đem cứu độ cho đời
Thân tâm tự tại quảng lời vị tha
(Nguyện thứ ba)
Đem thân xuống giới Ta Bà
U Minh cõi tạm, đứng xa lắng nhìn
Ở đâu có tiếng gọi tên
Là tôi thể hiện tới liền cứu ngay
(Nguyện thứ bốn)
Được nhờ công sức đã đầy
Tà ma yêu quái thẳng tay dẹp liền
(Nguyện thứ năm)
Trên tay dương liễu một nhành,
Nhúng vào bình nước diệu lành rưới cho
Chúng sanh hứng giọt cam lồ
Thành tâm niệm Phật Nam Mô thoại đầu
(Nguyện thứ sáu)
Mọi người bình đẳng như nhau
Quán Âm không xét kẻ cao người hèn
Một lòng hỷ xả xót thương
Từ bi cứu độ bốn phương đồng đều
(Nguyện thứ bẩy)
Gặp người tổn hại hư hao,
Thân sa địa ngục, nghiệp vào súc sanh
Người vì ngạ quỷ điêu linh
Là ta hiển thị cứu sinh dẹp tà
(Nguyện thứ tám)
Nếu ai gặp cảnh sút sa
Hướng Nam thành kính lễ ta một lòng
Thì dù xiềng xích gông cùm
Quán Âm sẽ tới giải vòng can qua
(Nguyện thứ chín)
Pháp thuyền một chiếc tạo ra
Quán Âm đi khắp Ta Bà bốn phương
Ngày đêm độ khổ ban thương
Qua giòng sông rộng vượt đường biển sâu
(Nguyện thứ mười)
Những ai kiên quyết nguyện cầu
Giờ lâm chung đến lúc vào Tây Phương
Quán Âm sẽ đón chỉ đường,
Lọng xanh đi trước phướng vàng đi sau.
(Nguyện thứ mười một)
Có lời ấn ký nhiệm mầu
Giới Vô Lượng Thọ lối vào uy nghi
Quán Âm biết nếu kiên trì
Niết Bàn sẽ đạt khi về Phương Tây
(Nguyện thứ mười hai)
Đoan nghiêm nào được có ai
Mười hai lời nguyện chẳng sai một lời ?
Nguyện thành mới được theo Thầy
Đài sen tọa ngự Phật vời gọi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
1. Nam Mô hiệu Viên-Thông, danh Tự Tại, Quan-Âm Như Lai quảng-phát hoằng thệ nguyện.
(Được xưng tặng là hiểu biết đầy đủ thông dong hoàn toàn, Ngài đem pháp tu hành mà khuyên độ khắp cùng)
2. Nam-mô vô quái ngại, Quan-Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện.
(Ở trong một niệm tâm được tự tại vô ngại, Ngài nguyện thường ở biển phương Nam để cứu độ chúng sanh)
3. Nam-mô trú Ta-Bà U-Minh giới Quan Âm Như-Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện.
(Luôn ở cõi Ta Bà và cõi U-Minh, Ngài cứu độ kẻ nào kêu cầu tới Ngài)
4. Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như-Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.
(Trừ khử loài tà ma, yêu quái, Ngài có đủ sức cứu người gặp nguy hiểm)
5. Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện.
(Ngài cầm nhành dương liễu dịu dàng nhúng vào nước ngọt mát trong cái bình thanh tịnh để rưới lòng của chúng sanh)
6. Nam-mô Đại-Từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện.
(Thương xót người đói và sẵng lòng tha thứ, Ngài không phân biệt kẻ oán người thân, tất cả đều coi như nhau)
7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như-Lai thệ diệt tam đồ nguyện.
(Đêm ngày đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh ra khỏi các sự tổn hại, Ngài nguyện cứu vớt chúng sanh ra khỏi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh)
8. Nam-mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như-Lai, già tỏa giải thoát nguyện.
(Nếu ai quay về núi hướng nam mà hết lòng cầu nguyện thì dầu có bị gông cùm xiềng xích cũng được thoát khỏi)
9. Nam-mô tạo pháp-thuyền du khổ hải, Quan Âm Như-Lai độ tận chúng sanh nguyện.
(Dùng phép tu hành để làm chiếc thuyền, Ngài đi cùng trong biển khổ để độ hết chúng sanh)
10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện.
(Nếu ai cầu nguyện và tu hành theo Ngài chỉ dẫn, khi rời bỏ xác thân này thì sẽ có phướng dài đi trước, tàng lọng quý giá theo sau, để rước về Tây Phương)
11. Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như-Lai Di Đà thọ ký nguyện.
(Ở giới của Đức Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà), Ngài đã được cho biết trước là về sau Ngài sẽ thay thế Đức Phật A Di Đà ở ngôi vị đó)
12. Nam-mô đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như-Lai quả tu thập nhị nguyện.
(Được thân hình nghiêm trang không ai so sánh được với Ngài, ấy là kết quả của sự tu theo mười hai lời nguyện lớn ấy)