Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử bàn về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ

13/01/201416:15(Xem: 15355)
Thử bàn về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ
hoa_sen (9)

Thử bàn về Cái Tĩnh
và Cái Không trong thơ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh




(Đọc bài “Tìm hiểu một bài thơ xuân của Vương Duy” của Hoàng Phong, tôi rất tâm đắc; không phải là tâm đắc toàn bộ bài viết, mà tâm đắc ở chỗ: Chúng ta đừng nên dễ dãi hoặc rập khuôn theo những bình luận văn học, thiền học của các thế hệ đi trước. Phải biết thẩm định giá trị mỹ học bằng chính con mắt của mình chứ đừng mượn mắt của người khác. Và tôi cũng chợt có ý nghĩ: Chưa chắc Vương Duy đã ‘hiểu’ Thiền là gì – như qua cái ‘thấy’ của Tô Đông Pha trong bài viết này!)



Đọc một câu thơ, thấy một “nhãn tự”, nghĩa là thấy một chữ đắc địa, thật là thú vị! Đọc một bài thơ, thấy một câu hay thì thật là sảng khoái! Xem một tập thơ, thấy được dăm bảy bài hay, chừng chục bài đường được, số còn lại dẫu chưa đạt nhưng câu kéo, chữ nghĩa ra vẻ đã có một sự lao động nghiêm túc thì thật không uổng phí thời gian “vén mây tìm trăng”!

Tôi làm thơ đã trên dưới 50 năm. Đối với ai không biết, chứ riêng tôi thì nó đã đọa đày, đã rút hết tinh lực của tôi không phải ít!

Trong một quyển sổ tay văn học, cách đây đã mấy mươi năm, tình cờ gặp lại trong đống lưu cảo, tôi có chép: “Báo Văn Nghệ Thứ Bảy, số 3, ra ngày 18/01/1992, có bàn về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ. Đọc được lắm, khá hay, nhưng tiếc là chưa tới! Giá như họ hiểu Tô Đông Pha thêm một chút, hiểu Cái Tĩnh và Cái Không của Phật hơn một chút nữa! Nhưng mà không sao, vậy là quý rồi! Có chút đổi mới rồi đấy!” Tên tác giả bài viết, vì sơ ý thế nào mà tôi lại không chép luôn? Bậy quá. Bây giờ cũng không còn nhớ nội dung! Chẳng rõ lời nhận xét trên có đúng chăng? Có võ đoán và chủ quan chăng? Vậy, xin lỗi về tất cả. Lật sang trang sau, thấy có một bài viết có tựa đề: “Xin mạo muội ‘nối điêu’ về Cái Tĩnh và Cái Không trong thơ, trong con-người-thơ của Tô Đông Pha”.

Tôi xin chép lại đây bài viết thuở ấy. Nó như sau:

Người ta bảo rằng, Tô Đông Pha là một thi sĩ thượng thừa, trầm luân khoát hoạt, quảy cuộc chơi “lao viễn mộng” trên đôi cánh thiên thu để bay qua cõi huyền hư khói sương cát bụi! Thế mà tại sao, thật là ngạc nhiên dĩ hĩ, Tô thi sĩ của chúng ta lại có 5 điều không hiểu nơi Đạo Tiềm ? (1) Thật tình mà nói, đây là người viết không hiểu hay Tô thi sĩ không hiểu! Tô của chúng ta kiếp trước là thiền sư Ngũ Tổ Sư Giới kia mà! Chỉ do một niệm sai sẩy cỏn con nên bị trầm luân, đọa đày đó thôi!

Xem nào, Tô nói Đạo, tại sao: “Một, thân lạnh mà đạo giàu? Hai, văn rành rõi mà nói năng chậm chạp? Ba, ngoài mềm mà trong cứng? Bốn, không ganh đua với đời, nhưng hay châm chọc cái quấy? Năm, hình khô, tâm lạnh nhưng không vong tình, biết thưởng ngoạn ngoại vật”. Đúng rồi, Đạo Tiềm là một vị sư, lại là thi sĩ nên làm sao tránh khỏi chạy theo cái rực rỡ của văn tự, ngữ ngôn? Mà khi đã lỡ bước vào thế giới văn tự, ngữ ngôn rồi thì than ôi, đã trở thành cái nghiệp dĩ không rời, chung thân khổ sai trong cuộc đọa đày “lao viễn mộng”. Tô trách Đạo “tại sao học đạo khổ không, trăm niệm tưởng đều như tro lạnh hết, sao lại còn muốn bộc bạch cái hào, cái mãnh với ai?” (2)

Có du hí với nhau không đó?

Thật ra, đấy mới chỉ là mở đề, nội dung cốt lõi bài thơ Tô tặng Đạo là bàn về tinh yếu của thơ, cái thượng thừa của thơ, cõi chơi ngàn cao sương khói của thơ. Thơ ấy phải vừa Không vừa Tĩnh, vừa Tĩnh vừa Không; trong Không có Tĩnh, trong Tĩnh có Không! Vì Không nên dung chứa tất thảy trăng sao, núi sông, tất cả cỏ cây, hoa rác, cát bụi trần gian. Nhờ Tĩnh nên tất thảy đều được phản chiếu trong tâm hồ xanh trong, lặng lẽ.

Còn nữa. Nhờ Không nên sinh tử, trầm luân, đọa đày mà không sinh tử, không trầm luân, không đọa đày dù một mảy tơ hào! “Lao viễn mộng” mà chẳng lao viễn mộng một tí xíu nào. Nhờ Tĩnh nên dẫu có nắng quái, mưa cuồng, sóng dồn, gió dập - thi nhân vẫn điềm nhiên tọa thị ngắm nhìn tính mệnh của mình khoác áo trăng tà rong chơi trong cuộc lữ huy hoàng mộng triệu!

Cõi chơi của thơ mở ra!

Và đấy là cõi chơi thượng thừa của Tô thi sĩ của chúng ta. Nó có đầy đủ cảm khái thế tình, thân phận, xót xa, cô đơn, đói lạnh, buồn đau, tình yêu, tình bạn, chan hòa với thiên nhiên ngoại vật... ở một góc tâm hồn vô cùng thanh khiết, cao diệu của nhà thơ vốn kiếp trước là một nhà sư!

Thế vậy! Nhưng ai là người đọc được, nghe được mật ngữ ấy trong thế-giới-tâm-linh-thơ của Tô tiên sinh? Có đấy! Một ngàn năm sau, có một nhà-thơ-lãng-đãng-mù-mịt-biên-phương là Tuệ Sỹ, đã từng “thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn” nghe được ngôn ngữ bí tàng, thâm diệu ấy ở trong tập sách “ Tô Đông Pha - những phương trời viễn mộng” của ông.

Và bây giờ, là tu sĩ, lại có làm thơ, tôi đã cảm nhận rất thấm thía điều mà Tô nói với Đạo, điều mà Tuệ Sỹ “nghe” được từ thế giới tâm linh thơ của Tô - nên tôi còn muốn “nối điêu” chỗ này thêm chút nữa!

Tĩnh ở nơi tâm, Không ở nơi trí! Vậy Tô đã thật sự có Tâm Tĩnh (Định) và Trí Không (Tuệ) chưa - hay mới chỉ có Tâm Tĩnh và Trí Không ở trong thơ? Thi nhân (người sống thơ) và thi sĩ (kẻ làm thơ) đã khác nhau một trời một vực rồi - giữa nhân cách và ngôn ngữ, giữa người và thơ - huống hồ thiền sư và thi sĩ!

Người học thiền là học cái chi chi? Nói theo yếu tính thiền, là có chi cũng trật mà không chi cũng chẳng nhằm! Khổ nỗi, có một thời, thiền của chúng ta - tôi muốn nói thiền Đông độ và thiền Zen - do “thõng tay vào chợ” quá nhiều mà bị lấm lem mặt mũi, khó nhìn ra chân tướng! Soạn phẩm thiền luận của Suzuki rất uyên áo, thậm mật, rất bổ ích cho nhận thức luận, có thể “thò tay nắm bắt thực tại mà không mang găng tay” - Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch - nhưng tiếc thay, có một thời, có một số thanh niên bị tẩu hỏa nhập ma! Những trí thức trẻ đáng yêu của chúng ta với tóc tai bù xù, râu ria hỗn loạn, tay ôm bộ sách thiền luận, ngồi đấu láo với nhau nơi các quán cà phê vỉa hè, là hình ảnh làm xúc phạm bậc học giả chân tu Suzuki không phải ít! Cũng từ đấy mà sinh ra thiền-sư-bụi-đời, thiền-sư-lang-thang và cả thiền-sư-thi-sĩ nữa! Do nội hàm cả ba loại thiền sư này nên họ nói rằng, họ lao thân vào khổ đau, vào hư vô, vào bụi bặm trần gian bằng chính hơi thở, thịt xương và cả sinh mệnh của mình! Nói cách khác, họ để cho dục vọng đổ tràn vào cuộc chiêm nghiệm, thử lửa ấy, rồi nói rằng, dẫu “đọa đày lao viễn mộng” nhưng chẳng “đọa đày lao viễn mộng” một tí xíu nào! Họ thấy được tính Không của chúng nên cuộc chơi trần tục, bụi bặm của họ vẫn Tĩnh! Thế rồi, họ luôn Không và Tĩnh, luôn Tĩnh và Không!

Than ôi! Tôi có câu thơ tặng họ:

“- Hư vô thổi rụng hai hàng chữ!

Để cục trần gian hiện mặt mày!”

Thiền sư không thể là thi sĩ! Đã là thi sĩ thì không thể là thiền sư! Yếu tính thiền, cốt tủy thiền thì ở ngoài thế giới khái niệm, ước lệ - không có loại ngôn ngữ nghệ thuật nào, thẩm mỹ nào có thể với tay đến thế giới đó được. Nó ở ngoài mọi bến bờ, biên cõi! Đã là thiền sư thì các vị không cần loại ngôn ngữ kiểu cách, văn hoa, hay đẹp! Họ chỉ cần nói thực, giản dị, hiện tiền, cụ thể, sinh động! Ngôn giáo của họ bao giờ cũng như chân, như thật, nhắm đến sự khai ngộ cho các căn cơ môn sinh hoặc đại chúng! Nó luôn là đệ nhất nghĩa, vượt các khái niệm phạm trù, tục thể! Đây là cuộc chơi nghiêm túc, đáng tôn kính mà không một thiên tài thi sĩ trần gian nào - cả Đông và Tây - bén mảng tới được!

Thi sĩ lại càng không phải là thiền sư vì tâm hồn họ còn tràn trề và lai láng quá, đôi khi họ không làm chủ được cảm xúc của mình, kể cả cảm xúc thẩm mỹ, kể cả cái rực rỡ của văn tự! Đây có thể là chỗ mà Tô Đông Pha trách nhẹ ông sư Đạo Tiềm chăng?

Cũng có thể thiền sư và thi sĩ “là một” - nếu thi sĩ nhìn ngắm thực tại trong chớp mắt vi vút trôi qua với tâm thái hoàn toàn trạm nhiên tịch lặng (Tĩnh). Và thi sĩ có thể buông xả tình, thức ngay khi vừa diễn đạt tình, thức mà không một tơ hào dính mắc nào; buông xả một cách tự nhiên, như nhiên như lằn chớp lóe hiện giữa hai sát-na sinh diệt (Không). Và cuối cùng, nếu có làm thơ thì câu thơ ấy phải nóng hổi và tinh khôi sự sống, đang vận động và hoạt dụng hiện tiền, không có lông lá và râu ria của tình, thức chủ quan găm cắm lên thực tại! Một số ít bài thơ của thiền sư Trung Quốc, Việt Nam và Haiku Nhật Bản có được kích thước và phong độ ấy. Có thể họ đã nói ra thơ một cách tự nhiên chứ không gượng ép ngôn ngữ, cả không kỹ xảo ngôn ngữ!

Ôi, than ôi! Cuộc chơi vô biên, vĩnh cửu, thượng thừa này, hồ dễ không trải qua công phu ngàn năm sương khói hay sao?

Chưa hết, còn nữa. Tĩnh là tâm định, vắng lặng tham sân, phiền não. Không là tuệ không, thấy rõ tánh không của ngã và pháp. Tĩnh và Không này là thực địa, là chỗ rong chơi của thiền sư nhưng lại là nấm mồ vùi chôn ngôn ngữ nghệ thuật của thi sĩ!

Tuy nhiên, nói về người và thơ thì nó có khác. Thức tri dù không thể sống trong cõi Tĩnh và Không nhưng nó có thể thức tri cõi Tĩnh và cõi Không ấy! Thức tri có thể tự trang bị cho mình một đôi mắt từ ngàn cao sương khói, chỗ giải thoát thênh thang của Tĩnh và Không để nhìn ngắm thế giới hỗn mang, đa phức và rối rắm của trần tục!

Ngôn ngữ thơ, theo đó, nói như cách Tô đã nói với Đạo:
Vô áp Không thả Tĩnh
Tĩnh cố liễu quần động
Không cố nạp vạn cảnh
Duyệt thế tẩu nhân gian
Quán thân ngọa vân lãnh
Hàm toan tạp chúng hảo
Trung hữu chí vị vĩnh”.

Vậy là đã rõ! Nếu là chân diệu thơ, thượng thừa thơ thì thơ ấy: “Đừng có gò ép, phải vừa Không, vừa Tĩnh! Nhờ Tĩnh nên nó tóm thâu tất thảy mọi vọng động. Nhờ Không nên nó dung nạp được vạn cảnh. Nhìn ngắm sự đời, bôn ba giữa cuộc đời mà thấy mình nằm trên chóp đỉnh mây cao. Và cũng từ đây, thơ đi vào cuộc đời, nhấm nháp đủ mọi đắng cay, mặn nồng, chua ngọt của nó để cảm nghiệm hương vị thù thắng của cõi đại toàn!” (3)

Đấy có thể là hành trạng của Tô Đông Pha và thế giới thơ của ông - một nhà thơ có tâm thiền, có con mắt thiền?

Và khi ấy, vị thiền sư sẽ lặng lẽ tặng chàng thi sĩ - chỉ trong một con người, trong một tâm linh thơ:
“Không cả Tĩnh và Không
Cả hai đều thanh thản
Đừng để chúng trói buộc
Là Niết-bàn thi nhân”.

Tô Đông Pha có kết luận: “Thi, Pháp không chống trái nhau!” Đúng! Và tôi cũng thấy rõ nó là “bất tương phương”, nhưng thơ bao giờ cũng tâm trạng, nỗi niềm nhưng thiền thì không phải thế!

Thơ đã như một nghiệp dĩ, một định phận không rời. Đúng là một cuộc đọa đày “lao viễn mộng”. Tất cả đó đều đang trên đường. Và trên lộ trình ấy, biết bao nhiêu là thao thức, là trăn trở. Với tất cả. Với cả trần gian.

Thơ bao giờ cũng có bụi, có trăng và có lửa. Giữa sự trơ cảm của con người, giữa máy móc của lý tính, giữa sự khô hạn của tâm hồn, thơ cần thiết cho nhân sinh hơn lúc nào hết. Đôi khi nó chỉ đơn thuần là kỷ niệm, là tự sự của một kẻ lên đường, tìm kiếm một cái gì vô danh, lạ mặt chẳng bao giờ lộ diện giữa đời thường với những tham vọng, toan tính, sáo mòn và chật hẹp của nó. Do vậy, thơ như đang bay trong chân trời tuyệt lộ. Tuyệt lộ ngay chính chỗ đang bay, tuyệt lộ trên đôi cánh và tuyệt lộ cả cõi về! Đây chính là hố thẳm ngăn cách giữa ngón tay và mặt trăng, giữa ngôn ngữ biểu đạt và thực tại tuyệt đối, giữa hình tượng nghệ thuật và mỹ học ngàn đời, nhất là mỹ học tâm linh.

Thơ và người, thơ và thiền là cuộc tao phùng kỳ ngộ vô song, xa hút và bập bềnh trong khói sương mộng huyễn, thật khó mà nhìn ra chân tướng.

Cái Tĩnh và cái Không nó “như thị ngã văn” như vậy.



Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Am Mai Trúc, Xuân Giáp Ngọ



Chú thích:

(1) Đạo Tiềm, tức là Sâm Liêu Tử, người sống cùng thời và bạn giao tình thi ca với Tô Đông Pha (1035 - 1101) đời Tống, chứ không phải Đào Tiềm (Đào Uyên Minh) đời Tấn.

(2) Xem thêm “Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, năm 1973.

(3) Diễn ý có khác với Tuệ Sỹ một chút.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2021(Xem: 7969)
Thư giản trong âm nhạc ... tăng nguồn năng lực Để xua tan não phiền hệ lụy chốn nhân gian Để trân quý kiếp người được có đủ giác quan Để đồng cảm chia sẻ .... tiếng hát cao vút Gợi nhớ đến Pháp học ...tâm thái hạnh phúc! Chỉ có trường đời ...tìm được giác ngộ mà thôi Đừng vội vã chạy theo ảo tưởng xa vời Luôn nhớ nghĩ Bồ đề tâm ....trong giấc mộng
08/11/2021(Xem: 5560)
Sách đọc ngàn quyển ...giúp ứng xử nhạy bén ! Huynh đệ đạo hữu ... ngày trước có duyên Gặp nhiều Phật tử tâm, tánh thiện hiền Mỗi mỗi người kiệt tác... tạo hoá vẽ ! Thơ văn xướng họa, đổi trao chia sẻ Nhận ra chí hướng lòng hoan hỷ vô biên Đồng hành thành tín nương tựa nhà thiền Kinh kệ sáng chiều công phu hạ thủ !!
07/11/2021(Xem: 5466)
Niềm an bình thoát ra khi lòng thanh tịnh, Phẩm chất tâm hồn vạn hữu bản lai đồng Êm đềm mát trong ...đáy sâu tĩnh lặng dòng sông Như biết rõ hướng đi, điểm phải đến ! Chữ Đức ...quan trọng khi vận hành sinh mệnh ! Hoà nhập không hoà tan, sinh hoạt hằng ngày Uyển chuyển linh động chấp nhận đổi thay Vai trò mẹ có 2 con kẻ bán ô, người bán nón .
06/11/2021(Xem: 13884)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 7253)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
05/11/2021(Xem: 17713)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
03/11/2021(Xem: 6559)
Trưởng thành khi Tâm có Đạo ! Này em ... Trưởng thành không liên quan gì đến tuổi ! Là khả năng buông bỏ ước vọng đảo điên Tự tin cương quyết điều chỉnh nỗi oan khiên Sẽ toả sáng được khí chất người có giáo dưỡng ! Tâm luôn có Đạo ... để lại ấn tượng ! Rất chân thành, khiêm nhượng biết cúi đầu Đồng cảm trong vấn đề tế nhị chuyên sâu Tích cực, năng động, thông minh luôn hoà nhã ! Vẻ đẹp tâm hồn ... biểu trưng được tất cả ! Không oán trách cuộc đời ... khí khái bao dung Này em ... Trưởng thành....ứng xử sâu sắc biết nhu, cương Ứng dụng tâm đạo vào cuộc sống ...Chánh niệm tỉnh giác ! Cuộc đời một chiều khó quay lại ... đừng để mất mát ! Chấp nhận cuộc đời ...như chiếc gương soi Hãy cười nhìn nó ... đáp trả lại nụ cười thôi ! Chỉ cần bấy nhiêu ... là trưởng thành em nhé !! Huệ Hương
02/11/2021(Xem: 5927)
Thiền trong mỗi lúc Tác giả: Tường Vân Nhân quả nghiệp duyên có ở đời Đừng làm xấu ác nhé người ơi Thiện lành gieo tạo vun bồi đức Quán triệt nội tâm sẽ thảnh thơi Tự tại thong dong từng bước chân Hành vi cử chỉ sáng trong ngần Thân đâu tâm đó đời thanh thản Chánh niệm thường xuyên giữa cõi trần Đi đứng nằm ngồi luôn nhẹ nhàng Tâm tư dừng lại chớ lang thang Bình an thẩm thấu từng hơi thở Thực tại thế nào biết rõ ràng Tỉnh thức nhận ra ngay hiện tiền Từ trong hơi thở rất bình yên Dù đời sóng gió luôn xao động Các pháp diệt sanh mỗi lúc thiền.
30/10/2021(Xem: 6411)
Hạnh phúc đến từ các giác quan ! Kính dâng Thầy bài thơ lấy ý từ chìa khoá vàng Thầy đã ban tặng " thu thúc lục căn ...luôn chánh niệm tỉnh giác " . Kính chúc sức khỏe Thầy, HH Ai cũng có quyền hạnh phúc ... nhưng đôi khi cần giới hạn ! Vì chúng thường đến từ các giác quan Chỉ cần Chánh niệm ...sẽ thư thái nhẹ nhàng Với nhiều loại hạnh phúc giản đơn , vô hại! Hạnh phúc chỉ đi liền khổ đau khi quá tải Bất cứ niềm vui nào ...phải biết chỗ nên dừng Chế ngự bản thân ... chớ kích đông điên khùng Niềm hạnh phúc an toàn ... .......thực sự xuất phát từ Trí Tuệ !
28/10/2021(Xem: 5637)
Lá đã chuyển màu nhưng chưa trọn vẹn Như đang còn hứa hẹn với thời gian Thì mưa rơi làm lá sớm phai tàn Đành im lặng không than không hờn trách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]