Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 116

28/11/201113:14(Xem: 13348)
Tuyển tập 116

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài Số 116 - thơMặc Giang

(Từ bài số 1151 đến số 1160)

[email protected]; [email protected]

01. Xin hỏi người, đó là ai ? 1151

02. Đừngđợi ngày mai 1152

03. Dòngsuối nhỏ 1153

04. Nghetiếng chuông ngân 1154

05. Hămbốn chữ cái 1155

06. Chakể con nghe 1156

07. Chatheo tiếng gọi sơn hà 1157

08. Đổicả trần gian 1158

09. NgườiCha Việt Nam 1159

10. ÔngCha của ta 1160

Xin hỏi người, đó làai ?

Đi trong mưa, không ướt áo

Vào trong nước, không bị chìm

Sống trong đời, không khổ não

Xin hỏi người, đó là ai ?

Vào trong lửa, không bị cháy

Vào trong bếp, không tro tàn

Vào bùn đen, không quện cáu

Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa biển cả, không sóng đẩy

Giữa trùng dương, không hải triều

Lòng chứa đầy, tâm trống rỗng

Xin hỏi người, đó là ai ?

Đi ba đường, không chắn lối

Vào sáu nẻo, mãi thông thương

Cả hư vô, không thế giới

Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa mùa xuân, không hoa nở

Vào lạnh giá, không đông hàn

Mỗi thu về, không lá đổ

Mỗi hạ nắng, không khô khan

Không có đâu, là thời gian

Không có đâu, là không gian

Nhét hư vô trong hột cải

Nhét vũ trụ lọt chân lông

Trong đêm đen, vẫn ánh sáng

Trong tăm tối, vẫn thấy đường

Không hố đèo, không ghềnhráng

Xin hỏi người, đó là ai ?

Trong rừng sâu, không cô độc

Giữa phố thị, như không người

Sống thanh bần, không thôn dã

Xin hỏi người, đó là ai ?

Mang ba y, trùm pháp giới

Đời một áo, mặc không cùng

Không cần nhà, có ba cõi

Xin hỏi người, đó là ai ?

Khắp ba đường, không đóng cửa

Khắp sáu nẻo, rộng lối đi

Mang hầu bao, không chỗ chứa

Xin hỏi người, đó là ai ?

Tháng 10 –2008

Đừng đợi ngày mai

Hỡi đau khổ, sao đong đầy mắt lệ

Bởi giọt khô chất chứa ngập lưng tròng

Thế tại sao không cho chảy tuôn dòng

Bởi nước mắt ngập ngừng chưa muốn khóc

Thế tại sao ngậm sầu, ru trái chín

Bởi nguồn cơn không lối thoát thông hơi

Thế thì thu chưa tím ngắt cuộc đời

Chờ cuối mùa ào ào phơi lá rụng

Thế tại sao lại ôm đầu bóp trán

Bởi động não ray rứt mảnh hồn đau

Thế niềm đau sao không thảy xuống cầu

Bởi chưa thoát bốn bức tường quán trọ

Thế tại sao đèn khi mờ khi tỏ

Bởi cõi lòng khép kín chốn thâm u

Bầu trời trong sao vẩn đục mây mù

Bởi đen đặc nhưng mưa chưa muốn đổ

Thế tại sao trải bốn mùa thanthở

Bởi muộn phiền u uẩn suốt thángnăm

Không mùa đông mà sao rét cămcăm

Bởi hạ trắng chiếm ấm nồng tấtcả

Hỏi tim nào là tim đau chấtchứa

Hỏi lòng nào là nát dạ nắng mưa

Khổ đau không bán, ai bảo tìmmua

Hạnh phúc trên tay, sao đem đánhmất

Tìm gì khi đã mất

Đã mất biết đâu tìm

Giọt khô tràn mi mắt

Chứa đầy ánh sao đêm

Hãy nhìn kia ngõ tối

Đom đóm thắp đêm dài

Bóng thời gian qua khỏi

Đừng đợi đến ngày mai.

Tháng 10 – 2008

Dòng suối nhỏ

Đẹp thay dòng suối nhỏ

Hai bờ mơn cỏ xanh

Nước trong veo róc rách

Gió thoảng mát trong lành

Quý thay dòng suối nhỏ

Ngơ ngác con nai hiền

Giữa núi rừng thanh khiết

Rảo bước thật hồn nhiên

Lành thay dòng suối nhỏ

Mang cam lộ tình thương

Ươm hương thơm dịu ngọt

Trang trải đức thanh lương

Trọng thay dòng suối nhỏ

Ngày lên đón nắng đào

Đêm xuống loang sương bạc

Chất chứa cả trăng sao

Mến thay dòng suối nhỏ

Ôm vũ trụ vào lòng

Ôm ngân hà xao xuyến

Muôn đời vẫn xanh trong

Thương thay dòng suối nhỏ

Mãi tuôn chảy không ngừng

Qua núi rừng đồng nội

Vào biển cả vô cùng

Biển đời còn đau khổ

Cuộc đời còn tang thương

Cưu mang dòng suối nhỏ

Ban cam lộ pháp vương.

Tháng 10 – 2008

Nghe tiếng chuông ngân

Ai không nghe tiếng chuông ngân

Sao không nghe cả phong trầnrụng rơi

Ngã nhân bào ảnh trong đời

Lợi danh phù phiếm chơi vơigió lùa

Ai không nghe tiếng chuông chùa

Sao không nghe cả hơn thua bềnhbồng

Bọt bèo quẳng gánh trôi sông

Ưu phiền thán oán theo dòngnhẹ tuôn

Ai không nghe tiếng chuông đồng

Sao không nghe cả chìm xuồngtử sinh

Bụi bay không vướng tánh linh

Sóng lay không gợn chút tìnhtrần gian

Ai không nghe tiếng chuông vàng

Sao không nghe cả muôn ngàntrầm mê

Đường xưa cùng dắt nhau về

Rong rêu bỏ lại bên lề vôminh

Ai không nghe tiếng cầu kinh

Sao không tỏ ngộ bóng hình xưanay

“Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũngkhông”

Lành thay, nghe tiếng chuôngngân

Nghe như thế đó, dự phần ThánhLưu

Bồ Đề một đóa Vô Ưu

Trổ bông sen quý tặng ngườibiết nghe.

Tháng 10 – 2008

Hăm bốn chữ cái

Hăm bốn chữ cái, ráp vần xuôingược

Hết viết ngược, rồi lại viếtxuôi

Lại thêm Á, Ớ, Ê, Ô, Ư

Huyền, Sắt, Nặng, còn đèotheo Hỏi, Ngã

Dùng chữ nghĩa, ta tha hồ diễntả

Dùng ngữ ngôn, ta dệt ý thànhlời

Băng ra biển, vượt hải lý trùngkhơi

Giữa non cao, thét núi rừnglộng gió

Khi thì đẹp như rồng bay phượngmúa

Khi thì sang như bức lụatranh thêu

Khi nhẹ nhàng chẳng khác nhịpcầu kiều

Khi sắt đá lửa nung hơn gangthép

Vào hí trường, chữ nghĩa caotiếng hát

Ra chiến trường, chữ nghĩa thétđao binh

Xuống địa ngục, chữ nghĩa quỷthần kinh

Lên thiên cung, Thánh Thần trònxoe mắt

“Ba tấc lưỡi, mà gươm mà súng

Nhà cầm quyền nghe gió cũngghê gai

Một ngòi lông, mà trống màchiêng

Nhà quân tử đốt đèn thêm tỏ rạng”

Ngược thời gian, thấy vô thỉlảng vảng

Xuôi thời gian, thấy khép cửavô chung

Chữ nghĩa bay khắp muôn hướngngàn phương

Trang giấy vẫn phẳng lỳ trêntay bút

Ngược dòng sử, thấy dựng cờ mởnước

Theo dòng sử, thấy thời đạikinh qua

Đóng triện son, sáng tỏa ngọcngà

Ghi dấu ấn, châu pha lộng sắc

Tạo ươm mơ, chữ nghĩa reo gióhát

Khúc tự tình, chữ nghĩa viếtthương yêu

Nắm tay nhau, không cần nóichi nhiều

Vì nhận chân, sóng lòng chanbiển mặn

Lấp chông gai, chữ nghĩa thôighềnh thác

Vá thương đau, chữ nghĩa đắpdựng xây

Vì tròn vuông, viết lên tiếngđong đầy

Vì tình người, viết thăng hoasự sống

Hăm bốn chữ cái, còn hơntriều sóng

Hăm bốn chữ cái, còn hơn bạcvàng

Hết xuôi đến ngược, rạng rỡhuy hoàng

Hết ngược đến xuôi, tuyệt vờithiện mỹ

Hăm bốn chữ, xuất nguồn tâmnẻo ý

Thư viện kia còn có chỗ đểdung

Sách vở kia cùng trân trọngđể dùng

Quốc ngữ Việt vo tròn hăm bốnchữ.

Tháng 10 – 2008

Cha kể con nghe

Cha kể con nghe chuyện nướcnhà

Từ thời lập quốc của ông cha

Đến nay dấu ngọc dày trang sử

Rạng rỡ huy hoàng lộng sắcpha

Cha kể con nghe non nước mình

Năm ngàn năm, sáng tỏa trungtrinh

Dựng cờ mở nước cùng gìn giữ

Thế thế truyền trao vẹn nghĩatình

Bao nhiêu tất đất của quêhương

Là bấy nhiêu chồng chất máuxương

Trên khắp mọi miền non nướcViệt

Không sao kể hết, khó tưlường

Đất mẹ quê cha được sống còn

Anh linh tử sĩ cao hơn non

Cho nên mới gọi hồn thiêngvậy

Đừng có ơ hờ nghe cháu con

Mỗi một bước đi mỗi dặm đường

Là da là thịt lấp đau thương

Là xương là máu xây tan vỡ

Thành bức dư đồ của núi sông

Cha kể con nghe chuyện nước non

Con nghe rúng động cả tâm hồn

Quê hương nguồn cội ngàn xưa ấy

Là giống là dòng của Tổ Tông

Cha kể con nghe chuyện núi sông

Con nghe từ thuở dựng khơi dòng

Đến nay, tiếp nối ngàn sau nữa

Tuyệt thế hùng ca của Lạc Hồng.

Tháng 10 – 2008

Cha theo Tiếng Gọi Sơn Hà

Cha tôi đội đá vá trời

Dù cho vật đổi sao dời khônglay

Cha tôi chỉ có đôi tay

Gian truân gánh vác, đắng caykhông màng

Cha tôi lên núi bắt còng

Xuống sông tát biển nước bồnglên non

Cha tôi kéo lại sao hôm

Chờ sao mai mọc, rợn hồn bóngđêm

Cha tôi vỗ sóng đầu ghềnh

Suối reo nước chảy mông mênhsông dài

Cha tôi sỏi đá khô cày

Đồng xanh gội nắng, lúa càitrĩu bông

Cha tôi nhặt lá diêu bông

Kết đài hoa mộng ước mong chođời

Cha tôi chuyển thế lay thời

Quê hương quốc thái lên ngôian bình

Cha tôi cỡi gió ba sinh

Thiều quang chói sáng bìnhminh hiện về

Cha tôi lên ải sơn khê

Chận đầu ngoại thực, đẽo tềmộng xâm

Mẹ tôi ươm mái tơ tằm

Nhà tranh đón bóng trăng ngàndặm soi

Em tôi ít tiếng nói cười

Nhớ tình phụ tử thương ngườitrầm kha

Cha theo tiếng gọi sơn hà

Cho em với Mẹ canh gà đẫmsương

Cha theo tiếng gọi quê hương

Cho em với Mẹ hậu phươngngóng chờ

Lên hòn Phụ Tử ươm mơ

Vọng Phu sương lạnh trăng mờngàn sao

Niềm riêng gởi giấc mộng đào

Niềm chung sông núi rạt ràomênh mông.

Tháng 10 – 2008

Đổi cả trần gian

Đổi cả đất trời lấy chữ quê

Chữ hương bên cạnh đẹp câuthề

Núi sông ấp ủ tình nonnước

Bến cũ đò ngang sóng vỗ về

Đổi cả đường đi lấy lối về

Phong sương tuế nguyệt trảinhiêu khê

Tha phương năm tháng dài lykhách

Xin hỏi thời gian đã đủ chưa

Đổi cả trần gian chọn nghĩatình

Ngã nhân bào ảnh nổi lênhđênh

Nhục vinh bèo bọt trôi tantác

Đừng phủ rong rêu non nước mình

Đổi cả phong ba bắc nhịp cầu

Dòng sông hai ngã ngập nươngdâu

Đôi bờ xơ xác mờ lau lách

Bãi cát tiêu sơ bạc trắng màu

Đổi cả thác ghềnh mở lối đi

Băng qua thế kỷ vượt kinh kỳ

Sau lưng gác lại thềm hoanglạnh

Dĩ vãng trôi về chốn biệt ly

Đổi cả não phiền giữ mếnthương

Trần lao rũ sạch nước cànhdương

An bình thiện mỹ thăng hoasống

Trang trải hương quê vạn nẻođường

Đổi cả thế trần giữ nước non

Lăn quay con tạo dẫu hao mòn

Lở bồi cát đá phù sa nhuận

Đem lửa thử vàng, sắt mớison.

Người Cha Việt Nam

Người Cha nước Việt thậtđường đường

Luyện sử đan thanh vẹn sắtson

Đánh trống khua chiêng khiquốc biến

Kinh bang tế thế lúc bìnhmông

Người Cha nước Việt thật kiêncường

Vị quốc vị gia nhuộm máuxương

Bao thưở can qua tàn khói lửa

Chiến bào rũ áo tóc pha sương

Người Cha nước Việt thật kiêntrinh

Vị nước vị non trọn nghĩatình

Quan ải biên thùy yên giớituyến

Hương thơm đồng nội ổn quêmình

Người Cha nước Việt thật tinhkỳ

Phớt gió lông hồng vó ngựaphi

Ngang dọc tung hoành trongbốn biển

Tư nghì tâm lực chẳng hề chi

Người Cha nước Việt của VuaHùng

Quốc Tổ dựng cờ mở nước chung

Kế thế truyền lưu trang sửngọc

Muôn đời con cháu chẳng laolung

Giang sơn gấm vóc nước nonnhà

Chữ « S » dư đồlộng sắc pha

Sông núi hồn thiêng an ngựtrị

Ba miền đất nước sử hùng ca

Việt Nam một cõivững như thần

Sông núi này là của nước Nam

Thuở trước đời sau truyền mãimãi

Tấm lòng không thẹn với tiềnnhân

Ta hát ca vang Cha Việt Nam

Người Cha kỳ vĩ giống da vàng

Sản sinh dân tộc kiên trinhnhất

Tự thuở đất trời đã định ban

Nói thế, cho hay dân tộc này

Trời không thể chuyển, đấtkhông lay

Sao dời vật đổi, ra sao nữa

Vũ trụ càn khôn nể mặt thay

Huống chi nhân loại trên trầngian

Đừng có dễ ngươi lửa thử vàng

Dạ sói lòng lang un tro bụi

Bao thời rồi đó, nhớ thì kham

Trỗi khúc nhịp nhàng ca hát vang

Đông Tây Nam Bắc khắp trầngian

Cổ kim xuyên suốt ngàn saunữa

Con cháu Vua Hùng nước Việt Nam.

Tháng 10 – 2008

Ông Cha của ta

Ông Cha khai quốc dựng gia

Khai sơn phá thạch đắp nhàViệt Nam

Ông Cha miệng nói tay làm

Lòng son dạ sắt tâm đan khôngsờn

Ông Cha lên núi đỡ non

Xuống sông tát biển xây hòn đảo xa

Ông Cha xuống móng dựng đà

Lên ruôi đỡ nóc lợp nhà quê hương

Ông Cha xẻ núi mở đường

Xây cầu lấp hố thông thương ba miền

Ông Cha gốc cội Rồng Tiên

Kết tinh sông núi hồn thiêng muôn đời

Dù cho vật đổi sao dời

Kinh qua lịch sử giống nòi kiên trinh

Dù cho dâu biển điêu linh

Lạc Hồng muôn thuở tự tình thủy chung

Ông Cha lẫm liệt oai hùng

Chữ hoành hết mức chữ tung tột đường

Ông Cha kiệt xuất phi thường

Giữ yên bờ cõi đuổi phường xâm lăng

Tre già che chở nụ măng

Lúa vàng ươm mộng mạ non xanh đồng

Sông dài biển rộng mênh mông

Muôn người như một chung lòng hòa vang

Kể từ mở nước Văn Lang

Năm ngàn năm đã vững vàng giang sơn

Kể từ một Mẹ trăm con

Gần chín mươi triệu vuông tròn tinh anh

Da vàng máu đỏ thiên thanh

Muôn ngàn năm nữa trong lànhViệt Nam.

Tháng 10 – 2008

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2018(Xem: 11290)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
03/08/2018(Xem: 8902)
Cuộc đời quá đổi chẳng lành Xe đi hỏi cưới trở thành đám tang Ôi ! Bao thảm cảnh tan hoang Tôi ngồi viết lại mà tan nát lòng Nghĩ về cuộc sống trăm năm Như làn tia chớp âm thầm thoáng ngang Nhìn xem cảnh tượng bẽ bàng Ai mà chẳng khỏi hai hành lệ rơi Nguyện cầu người chết thảnh thơi Nguyện cầu người sống đời đời thương nhau . Dallas Texas , 2-8-2018 Tánh Thiện
31/07/2018(Xem: 7889)
Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời Nghe từng giọt đắng chạm bờ môi Người đi chẳng luyến ân tình đoạn Kẻ ở đành cam đạo nghĩa rời Gối chiếc đìu hiu cơn ấm lạnh Canh trường lặng lẽ nỗi đầy vơi Cung thương dạo ấy hoà êm nhịp Điệu ái mùa sang trỗi nghẹn lời Mộng dệt bao phen vàng hoá đá Duyên gầy mấy lượt ngọc thành vôi Gom từng mạch cảm neo đầu sóng Nhặt bấy niềm đau buộc góc trời Để chữ tào khang hồng cánh thiệp Cho vần hạnh phúc thắm trùng khơi Thềm xưa vọng mãi câu nguyền ước Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời!
31/07/2018(Xem: 9784)
Truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Quá Đường nghi thức, cúng trưa trong chùa An Cư Kiết Hạ đến mùa Đại Bàng lễ cúng xa xưa lưu truyền...
29/07/2018(Xem: 14820)
Con có duyên ra tận phi trường Los Angeles đón Ôn Thắng Hoan về chùa VN lúc Ôn đến Mỹ từ trại Tỵ Nạn vào năm 1983. Hình bóng Ôn hôm đó con không bao giờ quên được, vóc dáng gầy guộc, giản dị , chân phương của Ôn đã gieo vào lòng con niềm thương kính . Con kính cảm tạ Thầy đã gởi video về cuộc đời hoằng pháp của Ôn . Hôm nay con viết lên bài thơ này để kính dâng lên Ôn với tất cả tấm lòng mà con đã có duyên lành gần gủi Ôn lúc con còn là một học tăng ở Chùa Việt Nam, Los Angeles. Thắng Hoan Trưởng Lão ngát hương thiền Nhập đạo đồng chơn đủ phước duyên Hoằng pháp độ sanh không mỏi mệt Lợi lạc chúng sanh khắp mọi miền. Phật sự không màng công khó nhọc Đời Ngài trải rộng chẳng chùa riêng Một mình một bóng trong cô tịch Toả sáng vườn hoa Pháp diệu huyền . Dallas Texas , 28-7-2018 Tánh Thiện
29/07/2018(Xem: 6540)
Cuộc sống vẫn có lúc nầy lúc khác Bao thăng trầm vướng bận giữa thế gian Như lòng ta không an định vững vàng Dễ cuốn hút theo dòng đời chảy xiết . Biết bao kẻ tham cầu mê học thuyết Người thượng căn xem như gió cuốn đi Duyên cho ai học Phật quyết hành trì Chẳng chạy đuổi (ngũ dục) mà bỏ quên Chánh Pháp . Lời Phật dạy đừng gây bao nghiệp ác Làm việc lành khiêm tốn với tha nhân Cung dưỡng Thầy hiếu kính nghĩa song thân
28/07/2018(Xem: 7097)
Mùa An Cư năm nay cúng cháo, Thầy phân công chỉ bảo rõ rành (sadi) Viên Từ, Minh Hạnh đồng hành Cúng cháo thí thực, lo nhanh buổi chiều. Lòng thắc mắc của nhiều Phật tử. Cúng cơm đi, sao cứ cháo hoài Dọn lên món khác đổi thay Thức ăn sẵn có, cơm chay đủ đầy.. Lời giải thích sau đây cho biết Các lễ nghi đặc biệt từ xưa Nghi thức Phật Giáo Đại Thừa Cứu giúp quỷ đói, bị đưa đọa đày
28/07/2018(Xem: 8514)
NGẮM cảnh sắc cõi không kỳ diệu TRĂNG lung linh soi chiếu đêm trường LĂNG GIÀ tròn sáng như gương Soi trong bóng tối, dẫn đường chúng sanh.... Núi Lăng Già non xanh biển biếc Đảo xa xôi Phật thuyết giảng kinh Tên núi xưa đặt cho kinh Lăng Già nay gọi - Bộ Kinh Đại Thừa. Chốn nơi đây năm xưa Phật dạy Tỉnh giác ngộ nội tại từng phần Giúp cho Hành Giả đạt tâm Rõ Như Lai tạng vốn hằng chúng sanh. Kinh giáo lý trở thành cốt tủy Của Thiền Tông và Duy Thức Tông Bồ Đề Sơ Tổ khai thông
27/07/2018(Xem: 10337)
NGỒI tĩnh tọa ngắm dòng nước chảy THUYỀN từ bi gác mái xuôi dòng BÁT NHÃ rời bến sang sông, Hướng bờ Chánh Giác, thoát vòng tử sinh.
25/07/2018(Xem: 10505)
Phố vắng đêm về sương lạnh rơi Nhặt khoan âm hưởng tiếng rao mời Tìm cơm chẳng quản chân cày đất Kiếm áo nào e mặt bán trời
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]