Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 26

26/11/201102:45(Xem: 13510)
Tuyển tập 26

Tuyển tập 10 bài – Tình TựQuê Hương 26

Thơ Mặc Giang

[email protected]; [email protected]

01. Đôi bờ nhớ thương

02. Tiếng hát Việt Nam muôn đời

03. Một nhà Việt Nam

04. Quê hương tình tự muôn đời

05. Tình tự nâng niu

06. Vịnh nước non

07. Chuyển trao từng thế hệ

08. Ca vang đồi thế kỷ

09. Sóng vỗ đôi bờ

10. Dậy sóng Thi Thơ

Đôi bờ nhớ thương

Tháng3-2006

Tôi đứng bên này sông

Anh đứng bên kia sông

Cùng nói chuyện dòng sông

Mà cách nhau đôi bờ biền biệt

Nước vẫn chảy miên man thithiết

Khi lăn tăn, khi nổi trận bađào

Có những khi, mùa lũ lụt dângcao

Làm sạt, lở, cho hai bờ tơitả

Tôi dang ra, để tránh mưa tầmtã

Anh thụt lùi, để khỏi đẫm mưatuôn

Khi đã qua cơn thác lũ điêncuồng

Nước rút xuống, cùng trở về,đứng ngó

Cùng nhìn nhau giữa đôi bờloang lở

Chỗ phù sa, chỗ cát đá bùnlầy

Chỗ xoáy vòng, chỗ trộn lẫnđục ngây

Chỗ nghiêng ngửa, chỗ dập vùilau lách

Một dòng sông, mà sao nhiềuoan nghiệt

Biết bao phen phải lặn lộiđưa đò

Hay bắc cầu, nối từng nhịpsao cho

Cầu không gãy, đau thêm cholòng nước

Như Mỹ Thuận, mấy trăm nămchầu chực

Như thuở nào, lại sợ Phá TamGiang

Lúc nào cũng cách ngăn, cảntrở đôi đàng

Muốn thông thương, phải bàomòn trí lực

Vì suối, nguồn lượn lờ uốnkhúc

Vì sặc, nứa chằng chịt baoquanh

Nên ngăn che gió mát tronglành

Cùng gian khổ, và chưa trọntình vui hưởng

Hãy ngược dòng tận nguồn dẫnthượng

Hãy xuôi dòng cuối ngọn rakhơi

Lắng nghe tiếng nói không lời

Vỗ về sông nước đầy vơi đôibờ

Lắng nghe tiếng nói xa mơ

Dòng sông chỉ một, đôi bờ nhớthương.

Tiếng hát Việt Nam muôn đời

Tháng 3-2006

Rằng nonnước Việt năm ngàn

Của giòng Hồng Lạc da vàng Rồng Tiên

Rằng nonnước Việt ba Miền

Giang sơn gấm vóc hồn thiêng muôn đời

Rằng ngườidân Việt ta ơi

Nhớ về nguồn cội nơi nơi tôn thờ

Nhớ từ lậpquốc dựng cờ

Mở mang xây dựng cơ đồ Việt Nam

Nhớ từnguồn cội Văn Lang

Kinh bao thời đại huy hoàng đến nay

Ân thâmtiên liệt cao dày

Cháu con kế nghiệp không thay đổi lòng

Nối liềnlịch sử một dòng

Nối liền một dãi hình cong cơ đồ

Trong, thờigìn giữ điểm tô

Ngoài, thời giao hảo hải hồ bốn phương

Hiên ngang,lẫm liệt, đường đường

Tinh anh, khí tiết, chân phương sáng ngời

Quê hương,đất nước ta ơi

Dâng cao tiếng hát muôn đời Việt Nam.

Một Nhà Việt Nam

Tháng 12 - 2006

Đồngbào hai tiếng nói ra

Đồng chung một bọc, đồng là anh em

Đồnghương hai tiếng quen quen

Đồng lân xứ sở, đồng len nặng tình

Khởitừ huyền sử uy linh

Năm ngàn năm đã quyện mình hồn thiêng

Khởitừ giòng giống Rồng Tiên

Mở mang trùm khắp ba miền Việt Nam

Ngượclên nguồn cội vẹn toàn

Xuôi về hậu tấn sắt son mặn nồng

Ngượcdòng Tiên Tổ Cha Ông

Xuôi dòng kế thế cháu con lưu truyền

Khithời mâu-thuẫn-trống-chiêng

Khi thời hát hội-đoàn viên-thái bình

Vẽthêm nét sử đan thanh

Vẽ thêm dấu ngọc xinh xinh quê mình

Đồnghương hai tiếng nặng tình

Đồng bào hai tiếng như mình với ta

Mởvòng tay lớn hoan ca

Nghe lòng chan chứa một nhà Việt Nam.

Quê hương tình tự muôn đời

Tiếng quê hương, trăm thương ngàn nhớ

Tiếng Lạc Hồng, muôn thuở không phai

Tiếng Việt Nam, gấm vóc hoa cài

Tiếng dân tộc, lung linh tình tự

Năm ngàn năm, trao nhau gìn giữ

Trải bao đời, kế thế dựng xây

Và truyền lưu đến tận ngàn sau

Mảnh dư đồ, non sông nước Việt

Đây, quê hương thắm thiết

Đây, tình quê đậm đà

Thái Bình bắc nhịp đi qua

Cửu Long chín khúc, Hồng Hà dặm soi

Đồng Nai, sóng vỗ ru hời

Trường Sơn ấp ủ ngỏ lời Biển Đông

Bông lúa chín thơm thơm mùa mới

Cánh đồng vàng toa tỏa ngát hương

Tình quê reo khắp nẻo đường

Ta đi từng bước vương vương nỗi niềm

Quê hương một dải Ba Miền

Việt Nam sông núi, hồn thiêng muôn đời.

Tháng 2 – 2007

Tình tự nâng niu

Tháng 3 – 2007

Quê hương tôi cằn khô sỏi đá

Nóng oi bức trên đầu xanh lá mạ

Cháy điêu tàn làm sạm lúa sữa non

Nên lớn lên, trông gai góc, cõi còm

Thành một con người chai sần, rắn rỏi

Đốt đèn mờ dưới mái tranh vũng tối

Mang ngu ngơ để đọc truyện thánh hiền

Mang cần cù để đập dũa truân chuyên

Nên vóc dáng, trông gian lao chịu đựng

Đất sỏi đá, từ bước đi chập chững

Nét tàn khô, dẫn lối nẻo vào ra

Thuở còn xanh đã nếm vị trầm kha

Nên tuổi già, cội cằn phơi gốc trắng

Mái tranh nghèo, sau hè rau đắng

Bên bờ ao, mấy ngọn rau cay

Con đường quê, đan kết cỏ may

Dòng sông nhỏ, lở bồi bến cát

Quê tôi đó vẫn hằn sâu xào xạc

Mảnh tình quê man mác vẫn còn đây

Dù làm gì và đến cuối cuộc đời

Vẫn ôm ấp và nâng niu mãi mãi.

Vịnh nước non

Tháng 3 – 2007

Tôi viết bài thơ vịnh nước non

Nước đi ra biển lại lên non

Non chờ góc núi reo hồn nước

Non nước muôn đời vẫn nước non

Bao năm, non nước chẳng hao mòn

Nay lở mai bồi nhuận sắt son

Mãi dũa đan thanh thêu gấm ngọc

Khi vuông khi méo lại khi tròn

Thời gian mưa nắng dẫu đi qua

Lối cũ đường xưa vẫn đậm đà

Tang hải thương điền treo tuế nguyệt

Rạc rào quốc quốc lại gia gia

Vật đổi sao dời dẫu đổi thay

Non xanh nước biếc chẳng lung lay

Một màu lồng lộng mênh mông ấy

Nước gối đầu non mây trắng bay.

Chuyển trao từng thế hệ !

Tháng3 – 2007

Tôi hỏi em,

Nghĩ gì chuyện của một thời quá khứ

Em nói rằng,

Chuyện người lớn, em không biết lắm đâu

Ai biết được khi nước đã chảy qua cầu

Nước chưa đến, còn không biết đường mà đỡ

Ngay người lớn, có khi quên khi nhớ

Có khi lầm, lẫn lộn trắng với đen

Có khi phết, có khi tẩy, bớt thêm

Nói như thật, khác nào mò kim đáy nước

Nào sông ngân, nào lại cầu ô thước

Nào nam tào, nào bắc đẩu, sao đêm

Chuyện đã qua, khung cửa đã buông rèm

Em biết được, dế mèn phiêu lưu ký

Chỉ như thế, cũng đã nhiều ý vị

Mang thì mang, nhiều ít cũng đeo mang

Chứ làm sao biết được đống tro tàn

Tìm vào đó, lửa đã lạnh tanh

Mà bụi mờ bay mù mịt

Em chỉ biết xót xa, nhìn rừng già chằng chịc

Còn chúng em, đan kéo giữa rừng non

Và em nghe những tiếng dế nỉ non

Reo réo rắt những đêm khuya hoang lạnh

Dòng lịch sử như chiếc xe chuyển bánh

Lội và qua, cán tất cả trên đường

Dù dốc đèo, dù sỏi đá gập ghềnh

Nghe ken két nhiều vết đau, rên rỉ

Em nói sơ sơ, tôi cạn nguồn của ý

Xin chúc em cứ sống, cứ bước đi

Mỗi thời qua, dù lưu lại được gì

Cùng trân trọng, chuyển trao từng thế hệ.

Ca Vang Đồi Thế Kỷ

Tháng 6 – 2007

Những hàng cây nghiêngnghiêng bên bờ suối

Mỗi ngày lên đổ bóng xuốngdòng sông

Nước lăn tăn, đẩy sóng, gợnbềnh bồng

Gió thoang thoảng nhẹ nhàngphơn phớt lá

Hoàng hôn đợi, ánh tà dươngchưa ngả

Đêm ngập ngừng, trăng vắtmảnh trời xa

Muỗi vo ve, hòa lẫn tiếngngân nga

Mọi sinh vật về đêm đồng trổikhúc

Thức canh trường, nặng lòngcon quốc quốc

Vọng hồn quê, trĩu gánh cáigia gia

Giang là sông, sơn là núi, tụ sơn hà

Căn là gốc, cội là nguồn, thêu cẩm tú

Mở mắt chào đời, nơi chôn nhau cắt rốn

Mảnh hình hài, mang vóc dáng mẹ cha

Từ mẹ cha, ngược lên nữa, ngàn xưa

Ta bắt gặp thuở khơi dòng Tiên Tổ

Cảm ơn nghe, hàng cây bên bờ suối

Cảm ơn nghe, bóng đổ xuống dòng sông

Quốc quốc, gia gia, lòng những dặn lòng

Nghe tiếng gọi, nhớ hồn thiêng non nước

Từng thế hệ trao nhau lần dấn bước

Con đường dài reo khúc nhạc quê hương

Hát vang lên trên khắp vạn nẻo đường

Con cháu Việt, giống Rồng Tiên muôn thuở

Cha Long Quân, gối đầu, ngàn thương nhớ

Mẹ Âu Cơ, ôm tay, vạn yêu thương

Trăng sáng soi ngàn vạn lý tỏ tường

Chim Hồng Lạc ca vang đồi thế kỷ.

Sóng vỗ đôi bờ

Tháng 7 –2007

Hai bờ đại dương

Hai mảnh tinh cầu

Một cõi quê nhà, đành đoạn chìm sâu

Đâu rồi, nơi cắt rốn chôn nhau

Đâu rồi, nơi quê cha đất tổ

Mang thân phận, tha phương khách thổ

Kiếp lưu đày, mờ mịt trùng khơi

Quê cha, lời nói nghẹn lời

Đất mẹ, se thắt da mồi tóc sương

Dấu mờ, khép kín quê hương

Bờ rêu thấm lạnh, nhớ thương lên màu

Xa xa nhìn mấy nhịp cầu

Biển khơi sóng vỗ, chìm sâu muôn trùng

10 năm, chưa có điểm cuối cùng

20 năm, chưa băng qua điểm mốc

30 năm, thuyền viễn xứ vẫn phiêu du

Mỗi năm, qua một mùa thu

Ba mươi năm đã mấy thu lá vàng

Lá nào theo gió bay ngang

Lá nào vùi dập bên đàng rêuxanh

Tâm can vướng nhện tơ mành

Đoạn trường mấy khúc treocành tàn khô

Hồn ai thổn thức dưới mồ

Hồn ai khắc khoải trên bờ lytan

Đường kia, kinh tuyến băngngang

Đường này, vĩ tuyến bẽ bàngbiển dâu

Quê người không có mưa ngâu

Mà sao thấm cả thịt thau dagầy

Quê người không có mưa bay

Mà sao thấm cả nỗi này tìnhkia

Dòng sông mấy khúc phân chia

Núi non mấy nẻo xa lìa sơnkhê

Còn đâu là lối đi về

Còn đâu là lối lê thê dặm trường

Tiếng quê hương, gởi lên đồi gió hú

Tiếng tự tình, gởi xuống hố tịch băng

Bóng thời gian mờ sương gió rêu phong

Bóng không gian giữa đôi bờ sóng vỗ.

Dậy sóng thi thơ

Tháng 9 – 2007

Trườnggiang dậy sóng thi thơ

Lăn tăn mây nước đôi bờ tràodâng

Thithơ cuồn cuộn gieo vần

Khi cao cao vút, khi trầmtrầm sâu

Dòngsông qua mấy nhịp cầu

Nước trôi mấy khúc sắc màuthời gian

Chơivơi trên đỉnh ngút ngàn

Hững hờ cuối ngọn bẽ bàng thếnhân

Thithơ bụi gió phong trần

Tan hoang bến cát, nát phầnbờ lau

Ðiqua lối mới, nghe đau

Ði về đường cũ, biển dâu nghebuồn

Trònđâu, mà hỏi chi vuông

Cội đâu, mà hỏi chi nguồnkhởi đi

Chữ VONG ơi, nghĩa là gì

Chữ PHI ơi, nghĩa là chi, tưlường

Vật vờ nhân ảnh vét mương

Hư danh giả tướng be đường đeo gông

Phân chia, đố kỵ gieo trồng

Kết bè, rẽ phái tréo tròng lên nhau

Trường giang bèo bọt lêu bêu

Bèo trôi cuối bến, bọt trêu đầu ghềnh

Trường giang mây nước lênh đênh

Thi thơ dậy sóng ê mình trường giang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2020(Xem: 7480)
Con kính dâng Thầy bài thơ nói lên tâm trạng con khi nghe pháp thoại trong những tháng có đại dịch Kính đa tạ Thầy , HH Nhờ đại dịch, qua livestream nghe Thầy giảng pháp, Hành trạng, giáo hoá chúng sanh ... Tổ Sư Thiền Thấy ra ...Thầy ẩn tàng ...Trí Vô Sư của túc duyên Đạo hiệu Thầy mang quả thật là NGUYÊN TẠNG !! Đâu cần thượng đường pháp chiến...khắp nơi xưng tán, Nội điển làu thông, trí nhớ tuyệt luân, Liễu nghĩa đại thừa, giới luật giữ tuân . Hành Bồ Tát Đạo, ngũ minh làm phương tiện !!!
10/12/2020(Xem: 8030)
Một lòng chuyên niệm Di Đà, Kết duyên Tịnh độ Ta bà bình yên. Nhất tâm từng niệm an nhiên Tây Phương hé nở hoàng liên đợi chờ
07/12/2020(Xem: 6999)
Có cánh rừng xưa mùa rợp bóng Mây ngàn về trắng nẽo trời xa. Thâm sơn hun hút hồn u tịch, Tiếng vọng vang cùng khắp cỏ hoa.
04/12/2020(Xem: 13199)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
04/12/2020(Xem: 8187)
Kính chúc mừng sinh nhật Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng, Bảy tháng phong tỏa, lạ thay Thầy phát ... hào quang? Tướng tự tâm sanh, không do mặc áo vua ban! Chắc hẳn Thầy tìm thấy minh châu trân bảo ? Giảng pháp, công phu khuya, thỉnh chuông ...Phật sự đều hoàn hảo !!! Tự tại ung dung như đang sống giữa rừng xanh, Khiêm cung, đức độ hội tụ các duyên lành Kính chia sẻ niềm vui cùng đạo tràng Quảng Đức !
02/12/2020(Xem: 10184)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11494)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 10028)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
28/11/2020(Xem: 7420)
Bóng chiều nghiêng nhịp gió Giữa mây ngàn muôn phương Ta chiều theo nhịp gió Từng bước chiều dâng hương.
26/11/2020(Xem: 7655)
Còn đau không tiếng chim kêu buồn nơi nhánh sầu đông trước ngõ phù sa cuộn đục trên sông dài bờ bến mông lung rác rưởi lầy nhầy ung thối ngày tàn thu bầy ruồi nhặng no bụng buồn tung cánh gia tài dành dụm một sớm tan bay
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]