Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sáng Một Niềm Tin

28/03/201319:14(Xem: 9700)
Sáng Một Niềm Tin

290sangmotniemtin

SÁNG MỘT NIỀM TIN

Thơ

( 50 bài sáng tác và dịch 23 bài của các vị danh tăng đời Lý Trần)

ĐỨC NHUẬN

PHÁT NGUYỆN

“Ngã kim phát tâm,bất vị tự cầu nhân thiên phúc báo,Thanh văn,Duyên giác,nãi chí quyền thừa,chư vị Bồ tát,duy y tối thượng thừa,phát bồ đề tâm,nguyện dữ pháp giới chúng sinh,nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam diểu tam bồ đề”.

Tôi phát tâm tu chẳng phải vì (riêng mình)mong hưởng phúc báo ở cõi trời,cõi người cho đến ngôi vị Thanh văn,Duyên giác hay quyền thừa Bồ tát,mà chỉ phát bồ tâm:cầu đạt đạo quả “tối thượng thừa” như Phật,và nguyện cho hết thảy pháp giới chúng sinh cùng lúc chứng nhập chân lý Vô thượng chính đẳng chính giác.

PHẦN I :SÁNG TÁC

Dâng Hương

Đệ tử kính dâng hương

Hiện mây lành năm sắc

Khắp pháp giới mười phương

Kết đài sen sáng rực.

Cầu Phật từ gia hộ :

Lòng nở đóa hoa tươi

Hạnh bồ tát xin giữ

Nguyện cứu giúp loài người.

Hương thơm bay sực nức

Đem hạnh phúc cho đời

Bao ưu phiền…rũ sạch

Đạo Vàng tỏa nơi nơi.

Khai Kinh

Phật pháp linh thiêng mầu nhiệm

Nghìn năm mới gặp một lần

Con nay dốc lòng tu niệm

Nguyện xin chứng nhập ý thần[1]

Tán Phật

Đấng Pháp vương vô thượng

Thày dạy khắp trời,người

Lòng từ ơn cứu độ

Đạo Vàng chiếu muôn nơi…

Lớn thay! Công đức Phật

Trí tuệ và Từ bi

Xưng dương cùng tán thán

Xin trọn đời qui y.

Đóa Hoa Chân Lý

Kỷ niệm ngày Đức Phật Đản Sinh PL.2532

Thắp ngọn đèn trí tuệ

Bừng sáng cả trời thơ

Lòng nở hoa chân lý

Như trăng rằm tháng tư.

Nhìn dòng đời trôi chảy

Từng khoảng khắc bây giờ

Con người còn đói rét

Sách vở cũng là dư.

Chỉ khi nào chứng đắc

Như đứa trẻ ban sơ

Tâm hồn đầy trong trắng

Không bợn chút bụi nhơ.

Sự Thật hiện trước mắt

Chẳng cần tìm đâu xa

Sinh tử, không sinh tử

Niết bàn ở trong ta.

Thắp ngọn đèn trí tuệ

Bừng sáng cả trời thơ

Lòng nở hoa chân lý

Vạn pháp mà Nhất Như.

1988

Không Đề

Trên đường lý tưởng đạo cao xa

Tâm sự mang mang ánh nguyệt tà

Bến giác bờ mê chung một lối

Kẻ đi,người đến đêm…bao la

Giấc Mộng Ngàn Hoa

Mộng thấy ngàn hoa ngan ngát hương

Ý tình thắm đượm gửi muôn phương

Câu thơ bày tỏ…soi vầng nguyệt,

Lẽ đạo tin yêu tỏa ánh dương

Kia đóa sen vàng tươi chính khí

Đây trang chữ viết đẹp văn chương

Bao la vũ trụ tình vô hạn…

Mộng thấy ngàn hoa ngan ngát hương.

1985

Mỗi Bước Đi Hòa Nắng Và Mưa

Đêm nay, ánh trăng vàng in đáy nước

Gió từ xa vang vọng tiếng tơ sấu

Cả hoàn vũ chím ngập nỗi thương đau

Động trắc ẩn tâm hồn người xuất thế

Lấy sự nghiệp “độ sinh” làm bản thệ

Dẫu phong sương nhưng dạ vẫn đinh ninh

Vén màn mây cho loại chí bình sinh

Giải thoát vô minh-Mở chân trời mới

Dong đuốc tuệ phá ngục tù đêm tối

Tỏa Tình Thương cho khắp cả mọi loài

Niềm an vui bừng sáng ở tương lai…

Đem hạnh phúc đắp xây đời nhân ái

Đạo mầu nhiệm,tinh anh và vĩ đại

Sáng vô biên và tỏa ngát thiên hương

Bả vinh hoa…ngăn ngại chí quật cướng

Đời đau khổ- ta nguyền xin cứu khổ

Và…vững bước trên con đường giác ngộ

Nguyện thân này dù nát với cỏ cây

Chí hiên ngang ta đạp gió tung mây

Dù tay ngắn cũng dời non phá thạch

Dù có gặp bao gian nan thử thách

Mộng thường đời ấp ủ tự nghìn xưa

Mỗi bước đihòa mỗi nắng và mưa…

Sưởi hồn lạnh…ta “mở đường khai lối”

Nén Hương Tưởng Niệm

“Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”

Mỗi độ thu sang- Rằm tháng Bảy

Dân làng mở hội đón Vu Lan

Ngày vui Báo Hiếu trong thiên hạ

Đạo Sáng muôn đời chiếu thế gian.

Nguồng suối Hương Yêu chảy ngập tràn

Đẹp như lòng Mẹ mãi thương con

Như hoa nở giữa trời quang đãng

Ân nghĩa sinh Thành với nước non !

Ánh lửa Từ Bi bát ngát thiền

Đóa hoa chân lý sáng vô biên

Truyện xưa Hiếu Nghĩa soi kim cổ

Văn hiến nghìn năm…của tổ tiên.

Cây nhớ rừng xanh,nước nhớ nguồn

“Núi sông gìn giữ lấy vuông tròn”[2]

Nén hươn tưởng niệm chân dung Mẹ!

Phảng phát anh linh gió gọi hồn.

Sự nghiệp gia phong nối tiếp truyền

Noi gương “hiếu hạnh”Mục Kiền Liên

Chứng minh : nguyện có mười phương Phật

Giải cứu sinh linh thoát não phiền.

Mỗi độ thu sang - Rằm tháng Bảy

Dân làng mở hội đón Vu Lan

Ngày vui Báo Hiếu trong thiên hạ

Đạo Sáng muôn đời chiếu thế gian.

Nhớ ngày giỗ Mẹ.PL 2532

Bài Ca Lục Độ[3]

“Chỉ biết vì đời van mộng đẹp

Cho vừa lý tưởng chóng khai hoa”

1.BỐ THÍ cứu độ chúng sinh

Gieo nhân tốt để …cây lành trổ hoa.

2.Thương người như thể thương ta

Ai ai TRÌ GIỚI…nhà nhà an vui.

3.NHẪN NHỤC, đức hạnh cao vời!

Nhẫn như “đại hải” độ người trầm luân.

4.TINH TIẾN, giới đức nghiêm thân

Đường về chính đạo muôn dân thái hòa

5.Pháp tu THIỀN ĐỊNH bao la

Tinh thần tự chủ nhìn xa…cuộc đời.

6.TRÍ TUỆ bát nhã sáng ngời

Hừng lên như ánh mặt trời rạng đông

Ngày 19 tháng 2,nhâm thân -1992

Không Đề

Phật pháp cao siêu những vọng cầu

Đường đời mưa nắng…biển và dâu !

Bao dòng suối lệ rơi tầm tã

Mấy độ tang thương luống dãi dầu.

Kiếp người sao lắm nỗi thương đau

Đức Phật từ bi ý nhiệm mầu

Mở lối quần sinh về bến giác

Cho đời tươi đẹp gội ơn sâu.

1988

Lễ Phật Chùa Hương

Bồ tát Quan Âm giáng cõi trần !

Hiển linh Hương Tích cứu sinh dân

Lòng Từ mở rộng can khôn hẹp;

Mắt Phật nhìn xa nhật nguyệt gần.

Giọt nước cam lồ …tiêu nghiệp chướng;

Nhành dương giải thoát xóa oan khiên.

Nghìn năm công đức soi kim cổ…

Phong cảnh trời Nam hiện cõi Thiền

Ngày 4 tháng 9 năm 1995

Nhân dịp về thăm quê hương ,ngày 9 tháng 8 năm ất hợi (3-9-1995), từ Nam Định, chúng tôi khởi hành lúc 7 giờ 30 đi xe tới đền Hùng ( Vĩnh Phú) đúng 12 giờ 30 dừng chân tại công quán mua hương, cả bốn người cùng đi vào cổng đền, qua nhiều bậc tới đền Hạ và chùa Thiên Quang, ngôi chùa được xây dựng lại vào thế kỷ XVII,trong chùa có nhiều pho tượng đẹp, đặc biệt là pho QUAN ÂM NAM HẢI.

Tam Quan xây thời Hậu Lê, có treo một quả chuông lớn đúc vào thế kỷ XVIII.

-ĐỀN HẠ: là đền có nhiều dấu tích kiến trúc cổ dân gian.Tương truyền đây là nơi Mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, tổ tiên của người Lạc Việt

-ĐỀN TRUNG: được xây dựng trước thời đại Lý-Trần,bị giặc ngoại xâm tàn phá,sau xây dựng lại

-ĐỀN THƯỢNG: Trùng tu vào những năm 1917- 1922. Trên đỉnh núi này ( cao 175m so với mặt biển ), vua Hùng lập miếu “Kính Thiên Lĩnh Điện” để tế trời đất.Bên cạnh sân đền có Cột Đá Thể do Thục Phán (An Dương Vương) đã dựng cột đá này sau khi lên ngôi: “Nguyện sẽ đời đời giữ gìn lăng miếu và cơ nghiệp vua Hùng truyền lại”. Cũng tại đây có dựng tháp mộ vua Hùng thứ VI.Dưới đây là câu đối chữ Nôm thờ ở lăng vua Hùng thứ VI:

“Lăng tẩm tự năm nào,núi Tản sông

Đà,non nước vẫn quay về đất Tổ:

Văn minh đang buổi mới, con Hồng cháu

Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông.”

Viếng Mộ Vua Hùng

Mười tám đời vua nước Việt hùng

Bốn nghìn năm lẻ cháu con chung

Hương mây một đóa dâng lên Tổ

Nguyện đá vàng gìn giữ núi sông

Ngày 9 tháng 8 Phật lịch 2539 (3-9-1995)

Luận Anh Hùng

Kính dâng các Anh Hùng Dân Tộc

Xưa nay những đấng (gọi) anh hùng

Trang trải cho đời…nợ núi sông

Tâm tựa trăng soi lòng biển thắm

Trí như hoa nở mặt trời hồng

Mở ra đường sáng tình thương lớn

Khơi dậy niềm tin nghĩa sống chung

Dân tộc văn minh- đời thịnh trị

Vinh quang nước Việt giống Tiên Rồng.

3-9-1995

Tưởng Vọng

Giác linh HT Thích Thanh Long

Chợt nghe tin báo dạ bồi hồi

Thôi thế từ nay vĩnh biệt Người!

Tôi ở phương trời …xa cách quá

Nhớ thương đành chỉ nhớ thương thôi.

Câu thơ định viết mà chưa viết

Người đã ra đi tận cuối trời!

Thế sự thăng trầm…sầu viễn xứ

Sá gì vinh nhục, cố nhân ơi!

Hơn bảy mươi năm trong cuộc sống

Một lòng vị đạo với vì dân

Người: không danh lợi, không gì cả…

Đức sáng nào đâu lấm bụi trần.

Đóa hoa “nhân phẩm” tựa trăng sao

Nhân hạnh tu từ những kiếp nào?

Cây đức vun trồng hoa kết trái

Danh thơm bay tỏa ngát trời cao!

Sông núi còn kia ! vắng bóng ai?

Để thương để nhớ mãi cho đời

Hồn thiêng theo gió về Đâu Suất

Bỏ giữa trần gian tiếng khóc cười.

Nén hươn tâm niệm vọng liên đài

Man mác tình xưa mối cảm hoài

Muôn dặm xa xôi- người mỗi ngả…

Nhớ thương đành chỉ nhớ thương thôi[4]

Ngày 2-XII-1991

Giây Lòng

Riêng tặng các pháp lữ xa gần

Bạn và tôi nặng tình trong lý tưởng

Chung trái tim nhịp đập…ý thâm sâu

Nguyện tử sinh: phụng sự đạo cao siêu

Hồn mộng,thực trải dài trong mưa nắng…

Lòng tôi đây mãi là trang giấy trắng

Thôi hết rồi,còn chi nữa …mà mong!

Truyện các thiền sư làm đẹp…núi sông

Nêu chính nghĩa mở trang thơ Việt sử

Bạn còn nhớ với những lần “tâm sự”?

Có lẽ nào quên đạo nghĩa thanh cao !

Chí xuất trần siêu việt biết nhường bao

Trời hạnh phúc xa trông là sẽ thấy

Lời chân thành tôi ghi trên trang giấy

Những hằng mong gọi dậy chút tình xưa

Sự nhục vinh…đâu phải chuyện…hơn thua

Sứ mệnh “độ sinh”mới là trọng đại

Xuân cảm

Đông tàn,tuyết rụng, ánh trời quang

Cảnh vật dường như mới điểm trang

Cây cỏ thắm tươi…hoa nở đẹp;

Nước non rạng rỡ nắng hanh vàng.

Hồi chuông trừ tịch vừa buông tiếng;

Tràng pháo giao thừa đã nổ vang,

Thiên hạ rủ nhau đi lễ Phật

Người người náo nức đón xuân sang.

1991

Minh Niên Khai Bút

Xuân về trong tiếng pháo ban mai,

Thức giấc vầng hồng tỏa mãn khai.

Trời đất tinh khôi-đời đổi mới!

Núi sông hùng vĩ-cảnh khoe tươi,

Tình người hoan hỷ vui xuân thắm,

Đức Phật từ bi nở nụ cười.

Điềm ứng năm nay nhiều hứa hẹn,

Mây lành che rợp…[5]khắp muôn nơi.

Xuân quý dậu- 1993

Thăm Quê Hương

Đêm nay[6]trời đất tối như bưng

Cảnh vật hoang sơ cảnh não nùng

Dằng dặc trăng…mờ sao…vắng vẻ !

Lòng buốn rười rượi nhớ mung lung…

Tôi về thăm lại chốn quê nhà

Nhìn cảnh tang thương…dạ xót xa

“Thế sự thăng trầm” -đời ảo ảnh

Vô thường sống…chết…mấy ai qua!

Nguyện cầu Đức Phật hiện Sa-bà

Giải cứu hàm linh thoát Nại hà

Địa ngục-Thiên đường tâm tạo tác

Niết bàn-Sinh tử thị không hoa.

Ngày 10 tháng 3

Sử Việt nghìn năm trải…tuyết sương!

Hôm nay: ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Mà sao con cháu như quên lãng…

Uống nước, nào ai nhớ tới nguồn?

Đề Bia Chùa Linh Sơn Nha Trang

Hơn hai thế kỷ sen thơm ngát

Trải mấy mươi đời Tổ đạo…thiêng

Pháp tử nối dòng hương khói tỏa

Nghìn năm thanh sử đất Nha Trang.

Vu Lan, PL 2541-1997

Sáng Một Niềm Tin

Ánh sáng

diệt trừ tăm tối

người người vui sống trong lòng

thế kỷ hai mươi mốt

trái đất quay

bánh xe Chính Pháp vần xoay

mở đường khai lối.

Muôn hoa đón chào vận hội mới

…có những đoàn người góp gió vờn mây

lớn lên như nước trào đầy

mặt nhìn mặt

tay nắm tay

lòng nhủ lòng

tin tưởng ngời lên ánh mắt

họ trao nhau trọn tình núi sông dằng dặc…

“anh một trái tim tôi một trái tim”[7]

chúng ta, triệu người như một

ghép ván làm thuyền

“dìu nhau qua những ngày dài lao khổ”

cho ánh đạo thêm sâu

hỡi ngàn sao sáng tỏ

nhiệm mầu,

Ánh nắng bừng lên “giữa đại dương một sớm mai hồng”

Như mặt trời xuất hiện ở phương đông

Cùng nhau ngợi ca cuộc đời

Tin yêu chân thật.

Tự Nhủ

Xa trông thế sự…dạ bồi hồi,

Đạo lý cương thường đảo ngược rồi!

Mẫn thế, mà …âu đành lụy thế,

Thương đời, nên mới phải chiều đời.

Cái vòng danh lợi…ôi ngao ngán,

Nhìn cuộc hưng suy luống…ngậm ngùi

Lòng tự nhủ lòng quên tất cả.

Giang sơn Phật pháp nguyện tô bồi.

Đêm mất ngủ,1985

Sáng tạo

Nhìn vòm trời xanh thẳm

Dâng lòng lên chơi vơi

Ôi,hồn thơ man mác

Sao khó dệt…nên lời

Nhưng lòng ta vẳng lặng

Như vầng trăng đêm khuya

Tỏa ánh sáng dịu mát

Gieo rắc hạt Từ Bi.

Những văn minh tiến bộ

Tự nghìn xưa đến giờ

Do con người Sáng Tạo

Đâu phải chuyện đơn sơ…

Con người là tự chủ

Một ý chí sáng ngời!

Và,khơi nguồn sống mới

Mong làm đẹp cõi người

Mong bình minh hé mở

Cho đời bớt…đơn côi

“Hoa nhân quyền” bừng nở

Cho tình người vui tươi

Mây lành che chín cõi

Đạo Sáng chiếu nơi nơi

Đắp xây đài hạnh phúc

Giữa thế giới loài người

Điềm Báo Một Mùa Xuân

Gió xuân lướt nhẹ lúc xuân sang

Ngọn lửa Từ Bi tỏa ánh vàng

Sưởi ấm lòng người cơn buốt lạnh

Cho tình vũ trụ đẹp mênh mang.

Tôi “ước mong sao có những ngày

Tâm hồn êm ái tắm hương say

Gửi hương cho quãng đời thanh tịnh

Đỡ khổ, quên rồi…những buổi nay”.

Bao năm khói lửa mờ nhân ảnh

Nhân phẩm vùi sâu dưới số không!

Đất nước cựa mình khi thức giấc

Điềm lành báo trước buổi hừng đông.

PHẦN II: Trích một số bài thơ trong GIÓ THIÊNG Đuốc Tuệ, Hà Nội xb-1953

Ý Thơ

Tình thương khơi mở nguồn tư tưởng

Ý nguyện hồn thơ sáng nhiệm mầu

Ngôn ngữ hóa thân thành tứ lạ

Giao hòa một thoáng với muôn sau

Gió Thiêng

Gió thiêng về giữa trần ai

Vi vu tiếng gió trong ngoài mọi nơi

Gió bay ra tận chân trời

Khắp miền phương đất…tuyệt vời mù xưa

Hôm nay, gió cuốn trong ta

Gió đem sinh khí muôn hoa trở về

Dẫu là cách trở sơn khê

Gió ngàn rung động “lời thề núi sông”

Tạnh đi! Mưa gió bão bùng…

Cho non nước lại tưng bừng nở hoa

Mong cho mưa thuận gió hòa

Cho non gặp nước cho hoa mỉm cười

Gió Thiêng nguyện áng xuân tươi

Mùa Giác Ngộ

Cảm niệm ngày Đức Bồ Tát SIDDHATTHA thành đạo

Một nguồn sáng ngời lên từ tám hướng

vạn sinh linh hằng khao khát mong chờ

trời đất đẹp-Đạo Vàng thêm bát ngát !

khắp nhân gian như bừng tỉnh giấc mơ.

Hỡi ! vạn vật triền miên trong đêm tối !

hướng về đây, xây mộng đẹp tinh cầu

cho hồn lắng mê say vờn khói nhẹ

xa âm u, xa tội lỗi buồn đau

Hoa-như-ý nở đầy trời thanh sắc

Đấng Từ Bi lòng rộng mở cao sâu !

Là chứa đọng của muôn vì linh tú

Mây vô biên rủ xuống đạo dài lâu.

Bao ước vọng của tình thương ấp ủ

đây niềm tin tràn ngập tự xưa sau

MÙA GIÁC NGỘ- một mùa hoa sáng láng

gió vương hương giải thoát ý nhiệm mầu.

Gió Mới

Gió Mới mang về muôn vẻ đẹp

Lời hoa ý thắm dệt hồn thơ

Vang êm nhạc đạo tràn lan xuống…

Từ ấy trần ai bặt tiếng tơ.

Bánh xe lịch sử dần xoay chuyển

Nhân loại,từ âu vẫn đợi chờ;

Mở lối chúng sinh về giác ngộ,

Xua tan vũ trụ…mối nghi ngờ.

Mây lành che rợp cả không gian

Rải phấn hương thơm khói ngút ngàn

Vạn pháp huyền vi khơi mạch sống…

Từ bi,nguồn suối mát…nhân gian.

Lý tưởng ngùn lên ánh lửa hồng

Đạo Vàng chiếu tỏa khắp tây đông

Từ Tốn in vết thần chân lý

Sáng rọi thanh xuân vạn tấm lòng.

Gió Mới mang về muôn vẻ đẹp

Lời hoa ý thắm dệt hồn thơ

Vang êm nhạc đạo tràn lan xuống…

Từ ấy trần ai bặt tiếng tơ.

Ngày Thành Đạo,PL 2497-1953

Đàn Muôn Điệu

Trong tôi muôn điệu nhạc đời

Gảy lên những tiếng tuyệt vời cao siêu,

Lòng tràn ngập tình yêu không bến,

Thú an nhiên lưu luyến ngày xưa,

Quê hương trải mấy nắng mưa,

Mái chùa che chở sớm trưa…dân lành,

Khắp làng xóm tre xanh rủ bóng,

Mỗi đêm rằm đón ánh trăng lên,

Nhà nhà vui thú điền viên,

Mà nay chinh chiến…phủ miền giang san !

Thời gian bỗng làm tan trong gió,

Nhìn ánh trăng mờ tỏ gần xa.

Thả hồn trong cõi bao la

Mênh mông trời biển bướm hoa vẽ vành.

Ham vẻ đẹp “muôn hình muôn điệu”

Để mượn làm tài liệu tôi ca:

Vời trông phong cảnh nước nhà,

Ngập hồn thi sĩ mưa sa…lạnh lùng!

Nỗi buồn thế kỷ trong rét mướt,

Viết thơ,tôi có bút “muôn màu.”

Hòa cùng tư tưởng xưa sau,

Buồn,vui man mác đượm màu thi ca,

Ca Điệu nhạc an hòa vạn thuở,

Ca khúc đàn trong tựa suối reo.

Kìa,vũ trụ đẹp nhường bao

Nghìn năm vẫn ánh muôn sao…cõi người,

Gặp phải lúc dân nguy quốc biến

Tôi véo con vì tiếng ai bi:

Buồn thương trước cảnh phân kỳ!

Tấm thân riêng những nặng vì nước non,

“Trăm năm tính cuộc vuông tròn”.

Nguồn Thương

Làn suối thương yêu

Tự đáy tầng

Kể từ mở nước

Dựng Văn Lang

Sử Việt: nghìn năm hiển hách

Nghìn năm công đức huy hoàng

Tâm như Đại Nhật

Tỏa sáng mười phương

Khí thiêng bàng bạc-ánh trăng trong

Hoa nở Từ Bi-Phật ở lòng

Nòi giống văn minh chân thiện mỹ

Rằng đây,gói cả cõi tình thương

Một Chiều Thu

Gió mới mang “tin” về khắp nẻo

Trăng thu tỏa sáng trải gần xa

Tôi say lý tưởng trong tôn giáo

Và tôi từng hát khúc trường ca.

Đây khúc trường ca của cuộc đời

Buồn thương mù tỏa trước vui tươi;

Nỗi đau chợt hiện trong tiềm thức

Như ánh sao mai lạc cuối trời.

Chiều xuống không gian buồn lặng lẽ

Thời gian như chiếm cả hồn tôi

Mịt mù sương tỏa…lòng tôi lạnh

Cây cỏ hoang mang cũng ngậm ngùi!

Bởi chưng mùa loạn khắp nơi nơi

Nghĩ kiếp nhân sinh…khổ lắm rồi!

Tôi từng gặp gỡ và thao thức

Cuộc sống khác gì lúc…vượt khơi

Sao nay buồn lẻ quá đi thôi!

Lòng những băn khoăn chuyện đạo…đời…

Giữa lúc giang sơn tầm cát bụi

Tình quê hương vương vấn hồn tôi.

Một chiều thu,lâi một chiều thu

Phảng phất in hình cõi tịch u

Ta vẫn là ta và tự nhủ

Buồn,vui cảm tác…một chiều thu.

Lời Sông Núi (Cảm tưởng trong khi đi biển)

“Nước non vẫn nước non nhà

Đến đâu ta cũng chỉ là ta thôi”

Tình quê luống những bồi hồi

Con tàu xa bến khuất vời cố hương

Lữ hành mấy nẻo dặm trường

Đìu hiu trước gió mơ màng đó đây

Vút ngàn khe suối bóng cây

Gió lùa ngọn cỏ đắm say cảnh tình

Ngưới nhìn lên khoảng trời xanh

Bên non, bên biển,bên tình…bao la

Mắt tôi lệ những chan hòa

Vì đời bao phủ sương sa lạnh lùng !

Chí tôi, dạ thép anh hùng

Lần xem bờ cõi Lạc Hồng những đâu

Từ Nam Quan đến Cà Mau

Nước non cách trở mặc dầu…ta đi

Trong cơn binh lửa loạn ly !

Nền dư đồ cũ còn ghi dấu hùng

Lửa thiêng bàng bạc núi sông

Hồn linh dân tộc sáng bừng…nơi nơi

VẠN XUÂN thuở ấy phục hồi

Muôn năm nướcViệt nối đời vinh quang.

Nhớ Cố Hương

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

THÔI HIỆU

Hôm nay, trời lất phất mưa

Gió rì rào gợi hồn thơ khơi nguồn

Tiếng chuông xé lớp sóng cồn

Hoàng hôn rủ xuống cô thôn xa mờ

Chập trùng khuất nẻo đường xưa

Xa xôi biết có bao giờ về thăm

(Đến nay cách đã bao năm?

Nhớ nhưng để dạ…khôn làm sao đây!)

Trong khi loạn lạc thế này

“Biệt ly êm ái” xưa nay lẽ thường

Ai mà cưỡng được lòng thương

Nước non một giải hồn vương cành tình

Quê tôi ở tận xa xanh

Giữa làm có một ngôi đình quạnh hiu

Bóng tre xanh lúc xế chiều

Cùng ngơ ngác với…bao nhiêu nỗi niềm…

Lạc loài trong cõi vô biên

Bâng khuâng gió rít lời nguyền núi sông

Nhưng rồi…lòng tự nhủ lòng

Khí thiêng hiểu hiện chim Hồng bay cao

Quê hương là những vầng sao

Nghìn năm mây trắng biết bao nhiêu tình

Non non nước nước xinh xinh

Nguyện cho non nước giữ xanh đời đời

Lạc Loài

“Liên lạc bất kham hoài cố quốc

Cơ mi hà sự luyến tha hương”

Hôm nay, trời rộng,mây cao,

Một mình lạc long đi vào rừng xanh,

Chim ca ríu rít trên cành,

Hoàng hôn rủ xuống mái tranh khói mờ,

Sườn non cành trúc phất phơ

Càng nhìn cảnh vật càng…ngơ ngác hoài

Lạc loài trong cõi trần ai,

Vi vu tiếng gió thổi ngoài rặng cây.

Non cao,cao vút cung mây,

Nhớp nhơ hiện tại…phủ đầy tang thương!

Lê chân dạo khắp phố phường,

Trần gian xao xuyến vấn vương phận mình,

Bâng khuâng nhìn cảnh xa xanh,

Trút trên trang giấy hồn trinh mấy lời,

Cảnh kia ai đã vẽ vời,

Đàn kia ai gảy mà khơi…nỗi phiền.

Nước non nặng một lời nguyền.

Trong Mưa Gió

Lòng ta nở đóa hoa tình

Gió càng gào thét vươn mình càng cao

Biển khơi sóng dậy xôn xao

Ôi,bâng khuâng quá sóng reo gió cồn

Mưa tuôn mờ khuất sau ngàn

Ầm ầm chớp giật sấm ran khắp trời

Mây chiều rườn rượn buồn trôi

Sương lam lạnh lẽo lưng trời nhạn bay

Rám vàng hiu hắt heo may

Đường không tịch mịch gió lay phím đàn

Bâng khuâng nhìn cảnh hoang tàn

Sầu mang theo lệ gửi hàng tre xanh

Mặc cho mưa gió tung hoành

Ta đi với cả tâm tình…ta đi

Nhớ khi nguyện ước những gì

Mộng vàng xây đắp còn ghi đáy lòng

Bụi mù khuất nẻo đồi thông

Họa may hồn có đoái trông quê nhà

Lạnh lùng gió rít trong ta

Gió ơi! Mưa gió nữa mà làm chi?

Tạnh đi! Xin hãy tạnh đi!

Cho hoa đỡ phải sớm lìa cỗi cây

Nắng hồng hãy trở về đây

Và cùng muôn vật sum vầy tốt tươi

Cánh Đồng Quê

Ờ đây không khí nhẹ nhàng

Cánh đồng lúa chín ửng vàng khắp nơi

Tôi say vẻ đẹp đất trời

Say hoa tươi thắm say người ươm bông

Khơi nguồn hạnh phúc-ai trồng?

Hương thơm tỏa ngát từ vồng cỏ hoa

Lưng trời cánh nhạn bay qua

Bâng khuâng mến nhớ tình ta u hoài !

Trăng non vừa xé rách lưới trời quạnh hiu

Mây về những ngẩn ngơ chiều

Nỗi buồn quê mẹ…niềm đau ngậm người…

Gió đưa tiếng sáo lên khơi

Nhìn bờ lau thắm…lệ vơi cõi lòng

Khí thiêng bàng bạc núi sông

Cỏ sường non tắm ánh hồng Bạch Vân

Trót “mang lấy nghiệp vào thân”

Nhớ quê,tôi có đôi vần…tôi ca

Lạc loài trong cõi bao la

Nơi đây đồng ruộng thướt tha huy hoàng

Tình quê quên nỗi bẽ bàng

Hồn quê chan chứa mấy hàng tre xanh

Cỏ hoa đồng ruộng tốt lành

Nghìn năm kim cổ tung hoàng là đây

Cánh đồng quê[8]ấy tôi say…

Mùa Hoa Nở

Đây mùa hoa chớm nở

Sắc xanh đỏ trắng vàng

Lòng tôi vừa hé mở

Đón gió lạ rừng hương,

Hoa đẹp cho lòng những cảm thương

Hoa kia ai nở hái ven đường

Anh hoa phát tiết ngời xuân ý

Hoa tới mùa hoa dậy sắc hương

Hoa rải phấn vàng mây quyện gió

Bảo rằng: hoa vừa độ hoa khai

Cũng như trăng tới kỳ trăng tỏ[9]

Như ánh mặt trời mọc sớm mai

Đây mùa xuân thắm- mùa hoa nở

Bởi lẽ hoa là cả ý thơ

Nếp sống văn minh hoa góp mặt

Giúp người trút bỏ nỗi ưu tư

Nhìn chùm hoa nở tốt xinh tươi

Cảnh lạ rừng hoa ý nhị cười

Hoa tạo cho đời thêm vẻ đẹp

Hương thơm phảng phất tỏa nơi nơi

Giao Cảm

Thân gởi pháp hữu THÍCH GIÁC VIÊN

Hôm nay, gió lộng về hoang vắng

Những hạt mưa phùn lặng lẽ rơi

Gặp bạn cõi lòng tôi ấm lại

Cảm tình man mác…nhớ xa xôi…

Giữa lúc nhân gian sóng ngập trời

Theo giòng nước chảy ngã ba xuôi

Muôn vàn khoa học nhưng sao vẫn (?)

Toàn những u hoài…giọt lệ rơi (!)

Trước hố sâu xa của cuộc đời

Nỗi đau nhân thế khó khơi vơi

Bao năm ấp ủ…tình thương lớn

Mộng dệt hồn hoa ý tuyệt vời.

Ngọn đuốc Từ Bi chiếu sáng ngời

Quét quanh mây tạnh…lệ sầu vơi…

Trên đường lý tưởng cao sang ấy

Tay nắm tay ta dựng cuộc đời.

…Những vết thời gian chẳng xoá nhào

Con đường duy nhất: Đạo cao xa !

Còn ghi mãi mãi lời đây nhé

Gió quyện mang về muôn ý hoa.

1949

Măng Non

Mến tặng các em

Danh Và Gia Đình Phật tử V.N.

Các em là đóa hoa

Nở giữa mùa xuân thắm

Coi dịu dàng óng ả

Ai nhìn mà chả thương

Các em là đàn chim

Chuyền trên cành ca hót

Tung cánh tận trời xa

Trông xinh xinh đẹp mắt.

Các em còn non trẻ

Là lúc đang vui chơi

Mơn trớn vẻ tròn đầy

Nô đùa không tư lự.

Các em tuy còn nhỏ

Nhưng mà ngoan-ngoan lắm

Quần áo các em sạch

Học hành các em chăm

Ở nhà cha mẹ răn

Các em biết lễ độ

Giữ trọn đạo làm con

Đến trường thày giáo dạy

Các em chăm chỉ nghe

Bao nhiêu điều nhân nghĩa

Nào trí dục, đức dục

Cách trí và địa dư

Cả sinh ngữ,toán pháp

Các em cũng hơn người

Ngoài ra còn những gì

Các em đều thông thạo

Tối đến em tụng kinh

Cầu nguyện cho nhân sinh

Mau trở về chính đạo:

Đạo Phật- đạo Từ Bi

Trí Tuệ và Giải Thoát

Trừ sạch mọi khổ đau

Là đạo của nhiệm mầu

Các em hãy nhìn nhau

Làm gương cho tất cả…

Các em đàn hậu tiến

Tay măng sữa nõn nà

Mắt nhìn xa sáng quắc

Miệng nở nụ cười hoa

Lòng tôi thấy vui vẻ!

Tôi muốn cùng các em

Sống cuộc đời tươi trẻ

Và ca mãi ngày xuân…

Các em là những búp

Măng non đang nảy trồi

Vươn mình khắp mọi nơi

Che rợp cả đất trời

Các em ngày mai lại

Khi tuổi đã trưởng thành

Độ tuổi của xuân xanh

Đầy tràn trề hy vọng

Nhìn vòm trời cao rộng

Vũ trụ đẹp nhường kia

Nước Việt Nam oai hùng

Ôi, sung sướng biết mấy

Các em hãy nhận lấy

Trách nhiệm ở ngày mai

Cả việc đạo việc đời

Trông chờ các em đấy

Các em hãy nghe tôi

Chăm chỉ học, chớ lười

Đoàn tụ thương yêu nhau

Hạnh phúc chỉ ngần ấy…

Hoa Sen

Hoa sen xinh đẹp biết là bao

Hoa ơi! Hoa có tự thuở nào?[10]

Giơ tay nâng đóa hoa như ý

Cho lòng vũ trụ ngợp trăng sao.

Có hoa sen nở ngát xinh tươi

Có vạn tim mơ ý tuyệt vời

Lưu luyến tình ta muôn thế hệ

Hương đưa phảng phát tỏa nơi nơi.

Trăng lồng đáy nước,hoa lồng bóng

Gió thoảng hương đưa: hoa mãn khai;

Trời đất tinh khôi hoa kết nụ

Như vầng dương hiện lúc ban mai.

Hoa Sen sải cánh đẹp ven hồ

Mọc tự bùn nhơ chẳng nhiễm ô

Hoa của mười phương hoa nở đẹp

Thả hồn chỉ thắm quyện đường tơ.

Khi mùa sen đến-mùa hoa nở

Nguồn suối thương yêu…dậy ý thơ

Chúng sinh khao khát tình cao cả

Đạo Sáng nhiệm mầu tỏa ước mơ…

Hoa Sen xinh đẹp biết la bao

Hoa ơi! Hoa có tự thuở nào

Giơ tay nâng đóa hoa như ý

Cho lòng vũ trụ ngợp trăng sao.

1953

Phật Giáo Việt Nam

Kỷ niệm đại hội Phật giáo thống nhất họp lần thứ II tại Sài Gòn,PL 2500

Tôi chép bài ca thống nhất

Gửi về trăm chốn ngàn phương…

Sông núi dâng niềm tin tưởng

Tình người nở vạn hoa hương.

Tôi viết bài ca hợp tấu

In trên lụa đẹp muôn màu

Ngày mai tưng bừng mở hội

Cùng về đoàn tụ bên nhau,

Có những tấm lòng son sắt

Bàn tay xiết chặt bàn tay

Yêu thương hiện trong sóng mắt

Loài người chung sức đắp xây…

Kìa ! hoa Từ bi nở đẹp

Khắp trời ngợp những trăng sao

Cơ hội nghìn năm một thuở

Khơi nguồn mạch sống dâng cao.

Tôi viết bai ca hy vọng

Cuộc đời xóa hết thương đau

Đạo Vàng ngày thêm bát ngát

Sáng lên! Ánh sáng nhiệm mầu.

Tôi chép bài ca thống nhất.

Gửi về trăm chốn ngàn phương

Sông núi dâng niềm tin tưởng

Tình người nở vạn hoa hương

1956

Suy Tưởng

Mây chiều tan hợp nhện giăng tơ

Trời đất im lìm trong giấc mơ

Vạn vật như say cơn mộng ảo

Ôi,bâng khuâng dệt mấy vần thơ

Tôi nhớ xa xưa một độ nào

Màn trời lấp lánh hiện muôn sao

Chạnh niềm nhớ tưởng trong suy tưởng

Cuộc sống thanh bình…đẹp biết bao

Bỗng,khói lửa từ đâu…hiện đến?

Khiến cho nòi giống phải lao đao[11]

Tình người lạc long bơ vơ quá!

Nhân thế sao mà lắm khổ đau…

Nghe trời nổ gió thoảng dư ba

Tâm sự trăm năm…ta nhủ ta:

“Hoằng pháp lợi sinh” là nghĩa cả

Lòng Từ rộng mở giữa bao la

Lá cuốn,mây bay,sóng dạt dào

Tâm hồn kẻ sĩ vút dâng cao

Ý tình lưu luyến từ muôn kiếp

Một cõi trần gian-một nhiệm mầu.

Tôi Với Cảnh Núi Rừng

Man mác tình thương rải phấn vàng

của đời tươi thắm tuổi hiên ngang

dẫm trên hảy thể mười phương trắng

gọi nhỏ xuân về với cố hương

GIÁC VIÊN

Lá thu rụng nổi trên đầm sinh diệt

Nắng vàng hoe ẩn trong túp màn tranh

Nhựa tràn đầy của nguồn sống mong manh

Hòa với lẽ muôn đời trong vũ trụ

Đường sống đạo ta vẫn luôn ấp ủ

Dẫu chông gai ta vẫn bước an nhiên

Dù đêm dài ta đợi ánh trăng lên

Tương lai đẹp ướp…hương lòng hiện tại

Nhưng ,trần gian,trần gian là cửa ải

Vắng tanh người như chiều xuống hôm nay

Cánh rừng hoang trong hiu quạnh chốn này

Làm ngừng đọng cả cõi trời xao xuyến

Gió gào núi,tiếng gầm nơi sóng biển

Doạ nạt người trần thế đứng kề bên

Muôn sắc hương lẫn sầu khổ triền miên

Hoa và lá cũng phai màu tươi thắm

Đời mù quáng xin hãy lìa…mê đắm

Tìm an vui giữa sông núi “tịch liêu”

Xuân

Gió xuân lướt nhẹ cành đào,

Hồ trong lơ lửng cánh bèo nghiêng nghiêng.

Mây trôi về cõi vô biên,

Hạt mưa rải rác khắp miền nhân gian,

Chuông chùa xa vọng ngân vang,

Sưởi hồn lạnh đốt lò nhang “chân thường”.

Ngàn mai nở đóa hoa vàng,

Non sông in nét hào quang sáng ngời.

Không gian vẫn đất,nước,trời,

Và,xuân trước với xuân này khác chi?

Sáng lên ! ánh sáng Từ Bi,

Nhân sinh tỉnh giấc mê si…canh trường!

Mùa xuân,mùa của sắc hương,

Ý xuân lưu luyến; tình xuân dạt dào…

Khắp trời ngợp những trăng sao

Vạn-Xuân-Hoa nở thấm vào hồn say…

Hoa xuân quyện gió xuân bay,

Gió xuân phảng phất vờn mây mang về…

Trăng

Nơi đây,dưới ánh trăng vàng,

Hồn thi nhân những…rộn ràng niềm tin,

Hòa vui lẽ sống thiên nhiên,

Khơi nguồn sáng mói trăng hiền muôn thu.

Đêm nay trăng tròn đầy và vẳng lặng,

Trăng lung linh,trăng huyền ảo làm sao!

Từng ánh vàng lóng lánh tự trời cao,

Rọi bóng xuống xé màn mây tăm tối,

Hỡi nhân thế đắm chìm trong tội lỗi!

Dắt dìu nhau…xa khổ ải triền miên

Trở về đây chung hưởng ánh trăng hiền

Cho hoa đạo ngời lên ngàn sao sáng rỡ.

TRĂNG MUÔN THUỞ! Người cao vời tỏ rõ,

Hiện hình ra giữa trần giới mê mờ…

Tôi hiểu người qua ý thắm duyên thơ

Người đẹp lắm! và lòng người cũng đẹp !

Cảm Tác

(trong chuyến đi máy bay từ Sài Gòn ra Huế)

Mờ mờ sáng lúc mặt trời vừa mọc

Cosara[12]cất cánh liệng trên không

Ngước nhìn ra bầu vũ trụ mênh mông

Ồ, đẹp quá cảnh giang sơn hùng tráng!

Lòng tràn ngập tình yếu không giới hạn

Đây lớp nhà xen với lũy tre xanh

Đây rừng hoang, đây biển cả bao quanh

Và đây nữa, núi đồi cùng thung lũng

Có lắm lúc như làn mây lững thững

Kéo lê thê dệt từng cánh tơ vàng…

Tôi tưởng tượng trong giờ phút ngang tàng

Vượt tất cả đi tìm chân lý sáng

Tuy bỡ ngỡ nhưng…lòng tôi vắng lặng

Cứ đi đi…đi…tận tới muôn trùng

Thả hồn ra đón gió lạ rừng hương

Cho ánh đạo ngời lên trong cuộc sống…

29-3-1952

Ta Đi

Tặng những người bạn tôi quen và lạ cùng chung lý tưởng phụng sự chính pháp-dân tộc và nhân loại…

Lên đường ! Tìm chân trời mới

Ca vang lên cho thế giới thanh bình

Cho hồn đau vợi bớt

Cho vạn loại hồi sinh

Cho ánh đạo ngời lên trong cuộc sống…

Cho đời trái ngọt thơm hoa

Ta đi khắp chốn quan hà

Truyền tin cho cả gần xa cõi người

Gieo mầm trí tuệ

Hạnh phúc an vui,

Từ xưa nhớ mãi muôn đời

Vẫn đoàn người ấy ven trời…ta đi…

Lấp nghìn muôn hố thẳm

Nồi kết tình…chia ly

“Vượt” và “tạo”hoàn cảnh

Cùng nhau đi…ta đi…

(Nương theo tiếng gọi Từ Bi

Từng hiên ngang bước ra đi…vì đời)

Một công trình đích đáng

Một nhiệm vụ sáng ngời

Đất nước rẽ qua cơn bĩ cực

Tương lai: Vận Sáng Của Con Người

Ôi, hồn thiêng muôn thuở của ta ơi!

Nguyện về đây cùng nhau xây đắp:

Một gia đình Phật hóa

Trong nếp sống hòa vui

Một quốc gia cường thịnh

Trí sáng chiếu muôn đời,

Và,từ xưa,vẫn đoàn người ấy

Đi …Ta đi…,ơ kìa

Một chân trời mới

Ca vang lên cho thế giới thanh bình

1954

Nắng Vàng

Nắng vàng sưởi ấm

Mộng đẹp chiều mơ

Dệt nên bởi sợi dây tơ

Ý vương vương những hồn thơ rộn ràng

Mùa hoa nở

Nét huy hoàng!

Đây đàn chim tung cánh

Đây đàn bướm tung hoành

Cùng chung niềm tin tưởng

Non nước một màu xanh

Ngát mùi sen thắm tình vương vấn

Bao trái tim xây đắp mộng lành…

Nghìn năm một hội

Rộn nghĩa nhân sinh

Say nguồn lý tưởng

Mạch sống thanh bình

Tình trong, ý sáng,duyên lành

Nhịp đàn trỗi khúc xanh xanh ngàn đời

Vì chúng ta biết rằng:

Ngày Mai Trời Lại Sáng.”

Từ lâu,nhân loại đợi chờ trông

Ánh đạo ngời lên ngọn lửa hồng

Làm sống dậy những gì đã chết

Niềm tin soi sáng vạn hoa lòng

1954

PHẦN III. DỊCH THUẬT:

Thơ các Vị Danh Tăng đời Lý- Trần

Dâng Hương 2

Cố hương xạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất dao văn,

Tùy xứ kết tường vân.

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân

Giới hương, định hương,dữ tuệ hương

Giải thoát,giải thoát tri kiến hương

Quang minh vân đài biến pháp giới,

Cúng dường thập phương vô lượng Phật

Lò trầm vừa chợt đốt

Khắp cõi pháp thơm lừng

Cúng dường lên chư Phật

Và Bồ tát Thánh tăng

Chứng chi lòng trong trắng

Dù một nén tâm hương

Mây lành che chín cõi

Chư Phật hiện mười phương

Hương GIỚI,hương ĐỊNH với hương TUỆ

Hương GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN

Kết thành mây sáng trưng cõi pháp

Cúng dường chư Phật khắp mười phương.

Thiền Sư Pháp Thuận (915- 990)

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Vận nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

Niết bàn trong điện các

Đây đó hết đao binh

Đại Sư Khuông Việt ( 933-1011)

Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương

Dao vọng thần tiên phục đế hương

Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lắng

Cửu thiên quy lộ trường

Tình thảm thiết đối ly trường

Phan luyến sứ tinh lang

Nguyện tương thâm ý vị biên cương

Phân minh tấu ngã hoàng

Trời quang,gió thuận,cánh buồm giương

Dõi theo sứ thần về cố hương

Nghìn trùng non nước vượt đại dương

Xa xôi hút dặm trường

Tình thắm thiết, xin nâng chén rượu lên đường

Cầm tay nhau,lòng vấn vương…

Nhờ dem ý nguyện người biên cương

Bày tỏ với thượng hoàng.

Quốc Sư Vạn Hạnh ( ? – 1018)

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Thân như ánh chớp có rồi không

Cây cối thu tàn xuân trổ bông

Nhìn cuộc thịnh suy…nào có sợ

Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương hồng

Thiền Sư Viên Chiếu ( 999 – 1091)

Ly hạ trùng dương cức

Chi đầu thục khí oanh

Trú tắc kim ô chiếu

Dạ lai ngọc thố minh.

Dưới giậu, cúc thu nở

Đầu cành oanh xuân ca,

Ngày ngày mặt trời chiếu,

Đêm đến trăng hiện ra.

Tăng Thống Huệ Sinh ( ? – 1063)

Pháp bản như vô pháp

Phi hữu diệc phi không

Nhược nhân tri thử pháp

Chúng sinh dữ Phật đồng

Tịnh lịch Lăng Già nguyệt

Không không độ hải chu

Tri không không giác hữu

Tam muội nhậm thông chu

Pháp cũng như không pháp

Không có cũng không không.

Nếu biết được lẽ đó,

Chúng sinh, Phật vốn đồng.

Trăng Lăng Già[13]in bóng

Thuyền đậu bến Chân Không,

Biết không, không là có,

Định tuệ chiếu vô cùng.

Thiền Sư Ngộ Ấn ( 1020- 1088)

Diệu tính hư vô bất khả phan,

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,

Liên phát lô trung thấp vị can.

“Chân như diệu tính” vô ngôn thuyết,

Chỉ ngộ Chân Như mới hiểu thôi.

Trên núi ngọc thiêu màu tỏa sáng,

Trong lò sen nở sắc khoe tươi.

Thiền Sư Mãn Giác ( 1052 – 1096)

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân đi, trăm hoa rụng

Xuân đến nở…trăm hoa,

Trước mắt, đời chuyển biến!

Đầu xanh tuyết điểm pha…

Đừng nghĩ:

Xuân tàn hoa rụng hết

Bên thềm, mai nở trắng…đêm qua!

Lý Thường Kiệt (1019- 1105)

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên thiền định tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Như đẳng hành khan thủ bại hư.

1-Nước Việt Nam, vua Nam cai trị,

Sách trời vạch định rõ biên cương.

Cớ sao lũ giăc sang xâm chiếm?

Quyết đánh không tha, buộc chúng hàng.

2-Vua Nam ngự trị nước Nam ta,

Ranh giới sách trời đã vạch ra.

Quân giặc, cớ sao sang cướp phá?

Bọn ngươi chuốc lấy nhục thua mà!...

Thiền Sư Quảng Nghiêm ( 1121- 1190)

Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,

Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.

Nam nhi tự hữu xung thiên chí,

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành

Lìa tịch diệt, bàn câu tịch diệt,

Chứng vô sinh hãy thuyết vô sinh,

Tài trai tự chủ tròn thiên chí;

Khoan…vọng Như Lai- thẳng lộ trình…

Thiền Sư Thường Chiếu ( ?- 1203)

Đạo bản vô nhan sắc,

Tân tiên nhật nhật khoa.

Đại thiên sa giới ngoại,

Hà xứ bất vi gia.

Đạo vốn không nhan sắc,

Ngày phô vẻ gấm hoa.

Cả đại thiên sa giới,

Đâu chẳng là quê nhà.

Trần Thái Tông ( 1218 – 1277)

Tâm điạ khai thời khoa lạn mạn

Chư thiên vũ lộ nhượng phân phương

Chi chi đóa đoá hiến Phật tiền

Ức kiếp nghiệp phong xuy bất lạc[14]

Hoa tâm nở mài tốt tươi,

Hương thơm sực nức hoa trời kém xa.

Trước Phật, xin dâng đóa hoa.

Muôn thu gió nghiệp khó mà chuyển lay.

Chân tể huân đào, vạn tượng thành,

Bản lai phi triệu hựu phi manh.

Chỉ sai hữu niệm song vô niệm,

Khước bội vô sinh, thụ hữu sinh.

Tị trước chư hương, thiệt tham vị,

Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh.

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,

Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Thiên địa giao thao vạn vật thành,

Nhân duyên hội ngộ sắc và danh[15]

Vì sai hữu niệm quên vô niệm,

Bởi trái vô sinh chịu hữu sinh.

Mũi lưỡi mê hương ưa mùi vị,

Mắt tai đắm sắc thích âm thanh.

Lang thang khách trọ đời phiêu bạt,

Xa cách quê hương vạn dặm trình.

Nhân sinh tại thế nhược phù âu,

Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu.

Cảnh bức tang du tương hướng vãn,

Thân như bồ liễu tạm kinh thu.

Thanh điêu tích nhật Phan Lang mấu,

Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu.

Thế sự thao thao hồn bất cố,

Tịch dương tây khứ thủy đông lưu.

Bềnh bồng sóng nước kiếp con người,

Thọ yểu nào ai cưỡng số trời[16]

Cảnh đã nương dâu làn nắng tắt,

Thân như bồ liễu hạt sương rơi.

Phan Lang thuở trước đầu xanh mướt,

Lã Vọng năm nay tóc bạc rồi!

Sự thế bộn bề thôi ngoảnh lại,

Vầng hồng gác tía, nước trôi xuôi.

Âm dương khiến đức bản tương nhân,

Biến tác tai truân cập thế nhân.

Đại để hữu thân phương hữu bệnh,

Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân.

Linh đan mạn thác trường sinh thuật

Lương dược nan linh bất tử xau6n

Tảo nguyện viễn ly ma cảnh giới,

Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân.

Âm dương họa phúc vốn theo nhau,

Gieo rắc nhân gian nỗi thảm sầu

Vì bởi có thân, nên có bệnh,

Nếu như không xác, ắt không đau,

Phép tiên, đã mấy ai không chết?

Thuốc thánh nào đâu kẻ sống lâu!

Xa lánh cõi ma mau tỉnh thức,

Trên đường tu đạo, sớm quay đầu.

Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh,

Ngư ông túy lúy, điếu chu hoành

Tứ thùy vân hợp âm mai sắc,

Nhất pháo ba phiên cổ động thanh,

Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch,

Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh.

Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh,

Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.

Lồng lộng khắp nơi trận gió ngàn,

Ông chài say khướt mặc thuyền lan,

Bốn bề mây kéo trời u ám,

Một giải sóng gầm trống giục ran,

Tầm tã côn mưa bay lả tả,

Ì ầm tiếng sấm nổ lan man.

Giây lâu,tan bụi bầu trời tạnh,

Đêm xuống dòng sông bóng nguyệt tan.

Trần Quang Khải ( 1241 – 1294)

Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình đương[17]trí lực,

Vạn cổ thử giang sơn.

Bến Chương Dương đuổi giặc,

Cửa Hàn Tử diệt thù,

Thái bình nên gắng sức,

Đất nước vững nghìn thu,

Trần Nhân Tông ( 1258 – 1308)

Thế số nhất tức mặc

Thời tình lưỡng hải ngân.

Ma cung hồn quản thậm

Phật quốc bất thăng xuân

Kiếp người một hơi thở

Tình đời đôi mắt buồn,

Cung ma nhiều rắc rối…,

Cõi Phật vui nào hơn.

Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng

Nghi vệ thiên môn túc,

Y quan thất phẩm thông.

Bạch đầu quân sĩ tại,

Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.[18]

Thụy khởi khải song phi,

Bất tri xuân dĩ quy.

Nhất song bạch hồ điệp,

Phách phách sấn hoa phi.

Cửa mở,lúc thứa dậy,

À,xuân đã đến kìa !

Có đôi bươm bướm trắng,

Đậu cành hoa phất phơ…

Tôn Giả Pháp Loa ( 1284 – 1330)

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,

Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,

Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn

Trót nửa cuộc đời mộng thế gian

Hỡi các môn nhân đừng gạn hỏi

Bên kia trăng gió đẹp mênh mang.

Trần Dụ Tông ( 1341 – 1369)

Đường - Việt khai cơ lưỡng Thái Tông

Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong

Kiến Thành tru tử, An Sinh tại

Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.

Đường - Việt hai vua: hiệu Thái Tông

Người xưng Trinh Quán, kẻ Nguyên Phong

Kiến Thành bức tử, An Sinh sống

Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng

Thiền Sư Hương Hải ( 1628 – 1715)

Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy.

Nhạn vô di tích chỉ ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Chim nhạn bay ngang trời,

Bóng chìm trong đầm lạnh.

Nhạn không lưu dấu vết,

Nước chẳng giữ bóng hình.

Phan Chu Trinh ( 1872 – 1926)

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,

Giang sơn vô lệ khắp anh hùng,

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,

Bát cổ văn chương túy mộng trung,

Trường thử bách niên cam thóa mạ,

Bất tri hà nhật xuất lao lung,

Chư quân vị tất vô tâm huyết,

Nguyện bả tư văn khan nhất thông,

Thế sự coi kìa hết thảy không,

Non sông cạn lệ khóc anh hùng.

Muôn dân nô lệ vòng cường tỏa,

Tám vế văn chương giấc ngủ nồng (!)

Há nhịn trăm năm người chửi mắng?

Thả trôi ngày tháng kiếp cùm gông!

Quý ông đâu phải không tâm huyết,

Xin đọc thơ này chút cảm thông.

21 -6- 1990

Khánh Đản

Nếu cõi đời không đau khổ tối tăm,

Ta đã chẳng xuất hiện trong cõi Sa bà này

- lời Đức Phật.

Ngày hôm ấy, đóa hoa đàm bứng nở

Là điềm thiêng nghìn thuở mãi linh anh

Là Nguồn Tin tràn ngập mọi an lành

Đã khơi mở sống còn…từ vạn kỷ,

Ngày hôm ấy, hương vầng in huyền bí

Lời tung hô vang động cả bầu trời

-Đời mê say trong một giấc mơ tươi-

Làm ngừng đọng cả cõi đời xao xuyến.

Ngày hôm ấy, phá tan bao thành kiến

Từ nghìn xưa vạn vật đẫm đau thương

Và những gì của áp bức,bất lương

Đã dệt lại bằng sợi dây đạo lý.

Ngày hôm ấy, muôn cõi lòng hoan hỷ

Mang về đây niềm Hy Vọng ngày mai

Khắp muôn loài làm sống dậy muôn nơi

Cho tất cả…được nhờ ơn công đức.

Ngày hôm ấy, trên hai nghìn năm trước

Thành Kapilavastu rực rỡ nhiệm mầu

Nơi khí thiêng sản xuất đạo cao siêu !

Cả vũ trụ, nhân, thiên đều kính lạy,

Ngày hôm ấym gió muôn phương tồn tại

Hoa đưa hương và lắng tiếng tơ sầu

Vạn sinh linh hằng khao khát mong cầu

Ơn pháp nhũ Đấng Từ Bi cáo cả.

Niềm Tin

Một tia sáng ngời lên trong đêm tối

Đây niềm tin mược gió gửi ngàn phương

Tôi đã có những vần thơ tha thiết

Buồn thương cho cuộc trần thế xoay vần

Nhưng…từ độ thuyền từ nương vững lái

Nguyền sắt son trong chí hướng siêu trần,

Gió rộn rã bay về nơi đất lạ

Lời góp lời, thương xót nghiệp trầm luân

Trăng vằng vặc trên biển trời, theo dõi

Soi đường đi cho vạn lấp phong vân,

Tìm Sự Thật trong nghìn đời bất diệt

Nhìn chân mây, mặt nước, ý trầm ngâm…

Khi giác ngộ, nở thành hoa trác tuyệt!

Thoát ra ngoài bao không có, có không.

Rồi một ngày kia: trời quang ,mây tạnh

Người hoan ca trong điệu sống thanh bình

Hoa đàm nở như ngàn sao lấp lánh

Hương đàm bay theo cánh gió lương sinh.

Từ vạn nẻo, trần gian xuôi một hướng

Triều thương yêu theo nhịp sống lên dần

Và ánh sáng của niềm tin bất diệt

Nguyện đưa đường muôn loại đến thiên chân,

PHỤ LỤC

Thơ của chư Tăng và các thi văn hữu tặng tác giả

Đức đại công cao nhật nguyệt đồng

Nhuận hòa xứ xứ độ quần mông

Thượng hoằng Phật đạo tùy cơ ứng

Tọa niệm kim kinh vạn sự thông

Lương năng chi khí chí dung hòa

Hạnh ngộ di phong đắc xuất gia

Đức nhuận càn khôn đồng diệu thể

Giác minh vũ trụ nhất tâm hoa

Nho phong cẩm tú tiêu thi xã

Phật học tinh hoa chủng đạo nha

Vạn hạnh toàn chương phương giáo điển

Danh đăng kim sử tịnh sơn hà.

Tâm hoài chí thiện chấn tăng luân

Phú ốc hà như đức nhuận thân

Vạn hạnh tinh hoa hinh giáo sử

Ngũ lăng văn bút hội từ vân

Giác minh đại địa tiêu kim xí

Tuệ chiếu trường thiên hiển tri nhân

Thế cục phế hưng hàm nhất tiếu

Thiền lâm nghiễm tọa độc kỳ lân

1977

Trượng phu chi chí xuất trần gia

Tuế nguyệt tài bồi giác đạo nha

Đức nhuận thân tâm văn nhuận thế

Trí khai tình thức bút khai hoa

Thiền lâm ngọc diệp phu minh nguyệt

Tuệ uyển kim chi ánh đạm hà

Vạn hạnh linh hoa phương ý chức

Hưng dương giáo hải tráng sơn hà

Thế Tôn giáo lý bản vô cùng

Thâm áo huyền vi thiểm vị thông

Hạng ngộ thiền gia văn diệu pháp

Đốn tư trần cảnh ngộ chân không

Nhược năng tụng niệm thân tâm lạc

Tiệc đắc an khang lão thiếu đồng

Tạc nhận thừa nhan đàm thoại hậu

Phiêu nhiên mãn tọa khởi xuân phong

Thế sự thăng trầm tự ảo vân

Kỷ niệm diện bích vọng canh tàn

Đức bào như thiết thùy năng hoán

Nhuận thủy tùy bình khởi tỷ phân

Hoa điểu bất kinh sư tử hống

Mộc nhân hà phạ ác lang thân

Pháp luân phổ nguyện đông tây chuyển

Chí tại Nhất Thừa thị bảo trân

1993

Vị đạo ưu thời bất cố thân

Lao lung hà ngại chi siêu trần

Đức như tuệ chúc quang phù thế

Nhuận tự thần chung cảnh mị dân

Ngộ hại tâm an vô động chuyển

Phùng mưu trí tịch bất dao phân

Quan Âm diệu lực nan tư nghị

Cứu ngã thời thời thoát khổ tân.

Kính tặng Thầy Đức Nhuận

Sơn sinh phát tiết muộn lời

Tâm hồn như lộc trang đời như điên

Chậm lời muộn tiếng lầu tiên

Liền tâu Thánh Đế (Đức NHuận)

mối phiền Lão Phu (Đười Ươi)

1973

Trận đầu ký thác Rừng Thiêng

Sông xa ở lại cơn phiền dây dưa

Rải lên đường cỏ mộng thừa

Về thăm viễn phố tin vừa mối dâng

Nắng hồng - trẫm triệu phân vân

Bấm cung lục ngạn thành thân mối buồn

Cập bờ phỉ thúy đúc un

Tầm sương sái điệu – quên nguồn hóa sinh

BÙI GIÁNG- 1993

Vạn Hạnh Quốc Sư

Kính tặng T.T Thích Đức Nhuận

Sư ở vườn mai chống gậy ra

Lòng tay mang bông bưởi bông trà

Về nhã lan bày lên đĩa cổ

Ngồi dịch kinh kinh cũng nở hoa

PHẠM THIÊN THƯ- 1973

Trăng Mọc Thanh Thơi

Kính tặng Thiền Sư Đức Nhuận

Trăng mọc thanh thơi bước tỏa mây

Mà soi mà sáng có mà hay

Cả hoa nở cũng còn không biết

Chi biết thiền sư để dấu giày

Nguyên đán giáp dần

Người giữ lửa trong đền

Huyền vi ngọn lửa thiêng

Giữ quê mình ấm mãi

Cho hoa nở Rồng Tiên

Xuât ất sửu – 1985

TRỤ VŨ

Ký hỏa đình viện trung

Linh cự thị ảo mộng

Vệ hương tâm thần noãn

Hoa khai Tiên dữ Long

Hồn Thơ

Kính dâng Hòa Thượng Đức Nhuận

Thơ với gió hay là em đã

Thổi vào cây chiếc lá xanh lòng

Nắng với đất hay là ta đã

Chín vàng người như cỏ nằm không

Cỏ nằm không buồn trong chiềunắng

Nắng rơi rơi chiều trắng rơi rơi

Phố lên mây đường vắng ta người

Chân bước bước mây trôi gió cuốn

Cánh hồng hoan cửa trời mở xuống

Bụi hồng hoang châu rạng ngọc lòa

Nhạc hồng hoang phố chiều lai láng

Hồn hồng hoang ngày tháng bay qua

Giấc ngủ ngày cánh hoa nở mộng

Chim chơi vơi tỏa rộng cõi bờ

Núi đã mọc hay là đất động

Biển chìm dâu sóng nhảy lên bờ

Bóng ngửa nghiêng dưới triền đá dựng

Sầu ngửa nghiêng chừ hẳn lan tràn

Người bước đi hay là Thánh Thượng

Giữa cõi đời để nhớ để thương

Thơ với gió bay suông vào cõi

Nắng với chiều xuống tới tàn cây

Hồn hoang người đó ta đây

Cùng nhau nghiêng xuống đất này làm thơ…

TRẦN ĐỚI - 1983

Nhớ Thầy

Kính tặng Thầy Đ.N

Hôm nay rằm tháng bảy

Ngày đại biểu Vu Lan

Chùa xưa con trở lại

Âm thầm mái Tam Quan,

Khói hương trầm ngào ngạt

Quyện quanh Đấng Từ Tôn

Chuông chùa rung nhè nhẹ

Rơi trong nắng hoàng hôn.

Con cái đầu lặng lẽ

Quỳ dưới Đấng cha hiền

Thầm đọc kinh cầu nguyện

Xin Thầy bớt ưu phiền.

Bước nhẹ đến hành lang

Phòng Thầy xưa còn đó

Núi đá đứng cô đơn

Sao bóng Thầy không có?

Nắng chiều tan tác rơi

Chuông chùa ngân bồi hồi

Hồn thơ còn trên vách

Mà Thầy xưa xa rồi !

Trong bóng tối âm u

Mình Thầy ngồi vắng lặng

Thiền quán chốn lao tù

Xác thân Thầy mệt mỏi

Hồn bừng sáng thiên thu.

Đóa sen hồng dù héo

Chốn ao bùn tanh hôi

Hương sen còn phảng phất

Thơm ngát một khung trời.

Chuông chùa nhẹ rơi rơi

Nghe rưng rưng bồi hồi

Xót xa tràn lên mắt

Thương thân phận con người.

Vu Lan – 1985.P.T.T

Hải Triều

Mây lành rủ xuống cả không gian, Rải phấn hương thơm khói ngút ngàn

Vạn pháp huyền vi tình ấp ủ, Từ bi, nguồn suối mát nhân gian

Trích bài: Gió Mới của T.T Đức Nhuận trong Gió Thiêng

Đóa Chân Như đẹp núi rừng

Sắc không điểm hóa trập trùng…hư vô !

Chim bằng buộc cánh bởi thời cơ

Phật tử, chùa xưa luống đợi chờ

Xiềng ngắn khôn ngăn tình đất nước

Xích dài khó cản nghĩa sông hồ

Tiếc vì nghiệp nặng đành vương nợ

Dành chút hương thầm nối nhạc tơ

Sóng động Hải Triều âm Đức Nhuận

Đạo Vàng soi sáng nét làm thơ

Nam đô, đầu xuân quý dậu – 1993

Cửa thiền ẩn nhẫn đóa hoa tâm

Có những thời xui cát bụi lầm

Nghiệp nặng hẳn còn vương sự thế

Thân gầy nên lỡ vướng hương trần

Đắng cay từng trải trò dâu bể

Khôi dại chi màng lẽ giả chân

Lần giở kinh thi trang trắng nợ

Lắng hồn theo nhịp tiếng chuông ngân.

Mạnh xuân bính tý

NGHIÊM PHÁI – THƯ LINH

Vần Thơ Kính Tặng

Thượng Tọa ĐỨC NHUẬN

Người đã về đây với cháu con

Đời tu thanh bạch chẳng vàng son

Mênh mông áo Phật ngời cao rộng

Tấm áo nâu sồng đẹp nước non

Thượng sĩ xuất trần- bậc đại tăng

Tâm Từ bát nát ánh sông Hằng

Thương yêu thắm cả tình cây cỏ

Trí tuệ ngời như ngọn hải đăng

Mong ơn Phật Tổ rủ lòng thương

Cứu vớt sinh linh khổ đoạn trường

Trần thế mịt mù…sương khói tỏa…

Cầu xin chỉ dẫn mở…con đường

Bao năm xa cách ngóng trông chờ

Cảnh ngộ vui…buồn…tỏa ước mơ

Mỗi độ thu sang ,hoa nở đẹp

Dâng Người, con có mấy vần thơ

Thu năm ất hợi- 1995

ĐỒNG TÙNG MẬU

Kính Dâng

Hòa Thượng thượng Đức hạ Nhuận

vị Thầy luôn ưu tư về ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC

Cõi tục tâm hồn vẫn thản nhiên

Ngày tháng chuyên tu dẹp chướng duyên

Mong sao dân tộc trường tồn mãi

Thư thả, thong dong,rỗi tọa thiền

UYÊN HỒ- 01.7.96

Kính Tặng Nhà Thơ

Thượng Tọa Thích Đức Nhuận

Công lao Đức Nhuận lớn quê ta !

Vạn Hạnh truyền tin Phật giáo nhà,

Đinh,Lý,Trần,Lê khai dựng nước,

Rạng danh tiên tổ nghiệp ông cha.

Xuân mậu dần, 1998.PHỔ ĐỨC

Hoa Nở Mùa Xuân

Kính tặng cụ - thiền sư Đức Nhuận

Hoa vẫn nở dẫu cây già, bóng xế,

Rừng tuy xa,chim mỏi cánh bay về

Ngọn lửa đền hun hút giữa sơn khê

Người giữ lửa âm thầm và vĩ đại…

Con ngưỡng mộ cả một đời vững chãi,

Trái tim người ôi thắm đẹp tình quê,

Giữa lao lung son sắt vững câu thề

Cho hoa nở mùa xuân trên đất Việt…

PHẠM TRƯỜNG LINH

Thiền Sư Xuống Núi

Kính tặng Hòa Thượng Đức Nhuận

Tác giả Gió thiêng và Sáng một niềm tin

Thuyền từ neo bến khổ

Tu chẳng lìa núi sông

Đạo đời luôn gắn bó

Như vàng trăng giữa dòng

Gió thiêng từng hơi thở

Mở lòng đời bao dung

Mỗi niềm tin sáng tỏ

Xua đêm tối mịt mùng

Chúng sinh chưa bớt khốn cùng

Thiền sư xuống núi…anh hùng về ngôi

THƠ là ĐẠO.Con đường ngộ đạo nhiệm mầu và khó khăn bao nhiêu thì con đường vào thơ cũng không dung dị.Tác giả “ GIÓ THIÊNG” là một cảm tử của hai bản ngã: một tu sĩ phóng xả cố đạt cho được Đạo viên dung, một thi sĩ yêu đời tha thiết:

Tôi đã có những vần thơ tha thiết,

Buồn thương cho cuộc trần thế xoay vần;

Nhưng từ độ thuyền từ nương vững lái,

Nguyền sắt son trong chí hướng viên trần.

Không khí Đạo và Đời quyện vào nhau,bàng bạc trong từng câu từng chữ.Tác giả là tu sĩ nên cũng có khi nhìn đời qua màu nâu:

Hỡi nhân thế đắm chìm trong tội lỗi!

Dắt dìu nhau xa khổ ải triền miên

Trở về đây chung hưởng ánh trăng hiền

Cho hoa đạo ngời lên ngàn sao sáng rỡ

Trong “GIÓ THIÊNG” co đủ màu sắc lung linh của tư tưởng.Những ý tưởng yêu đời chen lẫn những mảnh cảm tường chán chường, những ý thơ thơm màu đạo vị trộn lẫn với những mảnh nhớ thương, vì đó mà ta bắt gặp rất tình cờ những cảm tình thắm đượm:

Dù có gặp bao gian nan thử thách

Mộng thương đời ấp ủ tự nghìn xưa…

Hoa từ bi nở tưng bừng hai vệ đường THƠ, ánh sáng ĐẠO huy hoàng khai hội mùa hy vọng.Tôi trân trọng cầu mong bạn gạt bỏ trần duyên vào trong vường thơ của một ngôi chùa trầm tịch.

PL. 2503 – PL.1959

LỮ HỒ



[1]Nguyện hiểu sâu nguồn giáo lý GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT để tự độ và độ tha…

[2]Thơ Lý Đông A.

[3]LỤC ĐỘ,cũng gọi là 6 pháp Ba la mật (Paramita).Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn nghĩa là :từ bờ bến này (mê) vượt qua bờ bến kia (giác), tức là pháp tu của người hành Bồ tát đạo.Bồ tát (Bodhisattva) : Người giác ngộ

[4]Thày tịch ngày 24 tháng X năm tân mùi (29-XI-1991)

[5]Từ vân biến phú

[6]Đêm 23 tháng 7 năm ất hợi -18.8.1995,cháu ĐMC mất lúc 18giờ 15’ ngày 22 tháng 7 âm lịch (17-8-1995)

[7]Thơ Thanh Tâm Tuyền.

[8]Vua Đinh khởi nghĩa ở Hoa Lư.

[9]Thơ Vũ Hoàng Chương trong bài Thoát Hình:

“Phá cho Thành đấy! Sinh và Diệt !

Dời Quả lên từ mỗi xác Nhân”

Trích Bút Nở Hoa Đàm,Vạn Hạnh 1967

[10]Hai câu thơ trên trích trong bài hát “Hoa Sen”

[11]Vương Duy,trong bài Ngưng Bình Trì, có câu:

“Vạn hộ thương tâm sinh dã yên

Xót cảnh muôn dân khói lửa tràn”

[12]Cosara,tên của máy bay.

[13]LĂNG GIÀ (Lankavatara), nguyên là một hòn núi rất bí mật ở đảo TÍCH LAN (Caylan), chung quanh là bể, nơi ở của quỷ vương Dạ Xoa.Một hôm Phật đến thuyết pháp ở Hải Long Cung, lúc về ghé qua núi đó, quỷ vương xin Phật nói pháp cho nghe. Nhân đấy mà đặt tên là Kinh Lăng Già.

Mục đích của kinh Lăng Già là trực chỉ Nhất Tâm Chân Như, nhằm làm snag tỏ nghĩa Tam giới duy Tâm, vạn Pháp duy Thức.

Kinh Lăng Già lấy Nhất tâm làm tông, lấy Tự Giáo Thánh Trí làm cứu cánh.Phương pháp tu học là thực hành bốn pháp Thiền: Nhân và ngã, tự tướng, cộng tướng, vô thường, khổ, bất tịnh gọi là QUÁN SINH KHÔNG.

-Ngu Phu Sở Hành Thiền, tức là thiền quán của hàng Thanh Văn, Duyên giác và ngoại đạo.

-Quan Sát Nghĩa Thiền, tức phương tiện tu hành của Bồ tát, quán nhân vô ngã (tự hay tha đều là vô tính), pháp vô ngã, gọi là QUÁN PHÁP KHÔNG.

-Phan Duyên Như Thiền, quan sát hai thứ vô ngã tướng, tức nhân và pháp đến chỗ như thật.(Ba thứ thiền trên là hành tướng của tam thừa)

-Như Lai Thiền, vào địa vị của Như Lai được tự giác thánh trí, có đủ 3 đức tròn đầy (pháp thân, bát nhã, giải thoát), giải quyết được hết mọi sự của chúng sinh, cũng gọi là TỐI THƯỢNG THỪA THIỀN.

[14]Tiếp thoe là 4 bài thơ trích ra từ Khoá Hư Lục của vua Trần Thái Tông viết về 4 cảnh: Sinh ,lão Bệnh,Tử, để tự cảnh giác và khuyên mọi người cùng thức tỉnh…

[15]SẮC: các hiện tượng vật chất

DANH: các hiện tượng tinh thần

[16]TRỜI:không có nghĩa chỉ định mệnh hay thiên mệnh mà chỉ có ý nói rằng:con người sinh ra đời, khi thân mệnh đã suy tàn, con người sẽ chết, không nhất định là già hay trẻ…

[17]có chỗ viết là NGHI

[18]Câu chuyện Nguyên Phong nhắc chúng ta nhớ lại thời đại TRẦN THÁI TÔNG vào năm 1258 đã chiến thắng quân Mông Cổ khét tiếng là đạo quân hung bạo nhất thời bấy giờ. Đoàn kỵ binh của chúng đã từng giày xéo lên khắp lục địa Âu Á,thế mà khi qua đánh nước Đại Việt,chúng đã bị thất bại.Trong tiết mùa xuân,vua Nhân Tông đến viếng lăng ông nội ở ChiêuLăng,lòng hoài niệm đến những chiến sĩ vô danh đã hy sinh cho Tổ Quốc,trong số những người lính còn sống đến nay tuy đầu đã bạc phơ nhưng nhìn họ như tỏa ra hòa khí của những người chiến sĩ đã dự vào cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổvẫn vui vẻ nói cười bên nhau “kể chuyện Nguyên Phong”, đã gây xúc động sâu xa trong tâm tư mọi người, có lẽ do đấy mà vua cảm tác nên bài thơ “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng” này.

---o0o---

Vi tính: Kim Thư
Trình bày: Vĩnh Thoại

Cập nhật: 01-11-2007

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/11/2015(Xem: 5686)
Chân trần đạp núi băng nương Tóe tươm máu đỏ bón ươm chồi mầm Thiêng liêng tỏa ngát hương trầm Bài ca ngất ngưỡng, chiêng cồng âm vang
30/11/2015(Xem: 6254)
Rồi cũng qua đi những nhọc nhằn Đường đời mấy độ bước trầm, thăng Niềm vui, nỗi khổ tìm mây khói Còn lại yên bình mỗi bước chân.
14/11/2015(Xem: 7009)
Khi ta hộ trì cho chính ta là ta đang hộ trì cho người khác. Khi ta hộ trì cho người khác là ta đang hộ trì cho chính ta. - Này các thầy, thế nào là trong khi hộ trì cho mình ta hộ trì cho người khác? Và thế nào là trong khi hộ trì cho người khác là ta đang hộ trì co mình ? Bằng cách nhẫn nhịn, bất hại và tình thương. Khả năng giúp đỡ người khác của ta hoàn toàn phụ thuộc vào sự vững vàng và quân bình của chính mình. (Kinh Tương Ưng Bộ 47.19) Namo Buddhaya
12/11/2015(Xem: 12143)
Sinh ra trên mảnh đất quê hương miền Trung; Quảng Ngãi là một trong những tỉnh nghèo nhất của Việt Nam. Khí hậu rất khắc nghiệt. Nắng gắt bỏng da giữa mùa hè, lạnh buốt da thịt giữa mùa đông. Bảo táp, lụt lội liên miên hằng năm. Do đó dân vùng quê xứ tôi sinh ra và lớn lên trong cảnh bần hàn thiếu thốn tất cả mọi mặt; thêm vào đó là thời kỳ chiến tranh loạn lạc liên miên, chỉ mong sao học cho đến hết tiểu học cũng là điều khó huống hồ là đi xứ khác học, được đi ra nước ngoài học và nay được định cư nơi xứ sở may mắn nầy.
27/10/2015(Xem: 7457)
Trên dưới Trời “ta” là người độc nhất Chỉ có “ta” quyết định hết mọi điều “Ta” tu hành bao nghiệp chướng đều tiêu Theo ngũ dục “ta” tốn nhiều năng lực “Ta” phụng sự khiến lớn dần công đức Hưởng thụ thời “ta” đày đọa phước tiêu Để sinh tồn “ta” tạo tội đủ điều Khi giác ngộ “ta” quay đầu là bến
25/10/2015(Xem: 7058)
Những máy bay ném bom chiến lược tàng hình trông dễ sợ. Những hỏa tiễn siêu thanh liên lục địa xé trời như sấm nổ. Những tàu ngầm âm thầm dưới đáy biển mang đầu đạn hạt nhân. Người ta bảo đó là những phương tiện giữ gìn hòa bình thế giới. Rồi biết bao phi cơ tàng hình mang đầy hỏa tiễn. F-22, F-16, F-35… Những biệt kích, lực lượng đặc nhiệm mang đầy vũ khí ít người biết. Trên không máy bay không người lái rình mò.
22/10/2015(Xem: 8395)
Khi vừa thức giấc mỗi ngày Bạn ơi hãy nghĩ thân này hôm nay Thật là may mắn lắm thay Vẫn còn tỉnh dậy với đầy niềm vui.
12/10/2015(Xem: 8529)
Thầy đi một sáng mùa thu Trong cơn lốc thổi Vô thường tử sinh
11/10/2015(Xem: 6305)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567