SÁNG MỘT NIỀM TIN
Thơ
( 50 bài sáng tác và dịch 23 bài của các vị danh tăng đời Lý Trần)
ĐỨC NHUẬN
“Ngã kim phát tâm,bất vị tự cầu nhân thiên phúc báo,Thanh văn,Duyên giác,nãi chí quyền thừa,chư vị Bồ tát,duy y tối thượng thừa,phát bồ đề tâm,nguyện dữ pháp giới chúng sinh,nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam diểu tam bồ đề”.
Tôi phát tâm tu chẳng phải vì (riêng mình)mong hưởng phúc báo ở cõi trời,cõi người cho đến ngôi vị Thanh văn,Duyên giác hay quyền thừa Bồ tát,mà chỉ phát bồ tâm:cầu đạt đạo quả “tối thượng thừa” như Phật,và nguyện cho hết thảy pháp giới chúng sinh cùng lúc chứng nhập chân lý Vô thượng chính đẳng chính giác.
Đệ tử kính dâng hương
Hiện mây lành năm sắc
Khắp pháp giới mười phương
Kết đài sen sáng rực.
Cầu Phật từ gia hộ :
Lòng nở đóa hoa tươi
Hạnh bồ tát xin giữ
Nguyện cứu giúp loài người.
Hương thơm bay sực nức
Đem hạnh phúc cho đời
Bao ưu phiền…rũ sạch
Đạo Vàng tỏa nơi nơi.
Phật pháp linh thiêng mầu nhiệm
Nghìn năm mới gặp một lần
Con nay dốc lòng tu niệm
Nguyện xin chứng nhập ý thần[1]
Đấng Pháp vương vô thượng
Thày dạy khắp trời,người
Lòng từ ơn cứu độ
Đạo Vàng chiếu muôn nơi…
Lớn thay! Công đức Phật
Trí tuệ và Từ bi
Xưng dương cùng tán thán
Xin trọn đời qui y.
Kỷ niệm ngày Đức Phật Đản Sinh PL.2532
Thắp ngọn đèn trí tuệ
Bừng sáng cả trời thơ
Lòng nở hoa chân lý
Như trăng rằm tháng tư.
Nhìn dòng đời trôi chảy
Từng khoảng khắc bây giờ
Con người còn đói rét
Sách vở cũng là dư.
Chỉ khi nào chứng đắc
Như đứa trẻ ban sơ
Tâm hồn đầy trong trắng
Không bợn chút bụi nhơ.
Sự Thật hiện trước mắt
Chẳng cần tìm đâu xa
Sinh tử, không sinh tử
Niết bàn ở trong ta.
Thắp ngọn đèn trí tuệ
Bừng sáng cả trời thơ
Lòng nở hoa chân lý
Vạn pháp mà Nhất Như.
1988
Trên đường lý tưởng đạo cao xa
Tâm sự mang mang ánh nguyệt tà
Bến giác bờ mê chung một lối
Kẻ đi,người đến đêm…bao la
Mộng thấy ngàn hoa ngan ngát hương
Ý tình thắm đượm gửi muôn phương
Câu thơ bày tỏ…soi vầng nguyệt,
Lẽ đạo tin yêu tỏa ánh dương
Kia đóa sen vàng tươi chính khí
Đây trang chữ viết đẹp văn chương
Bao la vũ trụ tình vô hạn…
Mộng thấy ngàn hoa ngan ngát hương.
1985
Đêm nay, ánh trăng vàng in đáy nước
Gió từ xa vang vọng tiếng tơ sấu
Cả hoàn vũ chím ngập nỗi thương đau
Động trắc ẩn tâm hồn người xuất thế
Lấy sự nghiệp “độ sinh” làm bản thệ
Dẫu phong sương nhưng dạ vẫn đinh ninh
Vén màn mây cho loại chí bình sinh
Giải thoát vô minh-Mở chân trời mới
Dong đuốc tuệ phá ngục tù đêm tối
Tỏa Tình Thương cho khắp cả mọi loài
Niềm an vui bừng sáng ở tương lai…
Đem hạnh phúc đắp xây đời nhân ái
Đạo mầu nhiệm,tinh anh và vĩ đại
Sáng vô biên và tỏa ngát thiên hương
Bả vinh hoa…ngăn ngại chí quật cướng
Đời đau khổ- ta nguyền xin cứu khổ
Và…vững bước trên con đường giác ngộ
Nguyện thân này dù nát với cỏ cây
Chí hiên ngang ta đạp gió tung mây
Dù tay ngắn cũng dời non phá thạch
Dù có gặp bao gian nan thử thách
Mộng thường đời ấp ủ tự nghìn xưa
Mỗi bước đihòa mỗi nắng và mưa…
Sưởi hồn lạnh…ta “mở đường khai lối”
“Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”
Mỗi độ thu sang- Rằm tháng Bảy
Dân làng mở hội đón Vu Lan
Ngày vui Báo Hiếu trong thiên hạ
Đạo Sáng muôn đời chiếu thế gian.
Nguồng suối Hương Yêu chảy ngập tràn
Đẹp như lòng Mẹ mãi thương con
Như hoa nở giữa trời quang đãng
Ân nghĩa sinh Thành với nước non !
Ánh lửa Từ Bi bát ngát thiền
Đóa hoa chân lý sáng vô biên
Truyện xưa Hiếu Nghĩa soi kim cổ
Văn hiến nghìn năm…của tổ tiên.
Cây nhớ rừng xanh,nước nhớ nguồn
“Núi sông gìn giữ lấy vuông tròn”[2]
Nén hươn tưởng niệm chân dung Mẹ!
Phảng phát anh linh gió gọi hồn.
Sự nghiệp gia phong nối tiếp truyền
Noi gương “hiếu hạnh”Mục Kiền Liên
Chứng minh : nguyện có mười phương Phật
Giải cứu sinh linh thoát não phiền.
Mỗi độ thu sang - Rằm tháng Bảy
Dân làng mở hội đón Vu Lan
Ngày vui Báo Hiếu trong thiên hạ
Đạo Sáng muôn đời chiếu thế gian.
Nhớ ngày giỗ Mẹ.PL 2532
Bài Ca Lục Độ[3]
“Chỉ biết vì đời van mộng đẹp
Cho vừa lý tưởng chóng khai hoa”
1.BỐ THÍ cứu độ chúng sinh
Gieo nhân tốt để …cây lành trổ hoa.
2.Thương người như thể thương ta
Ai ai TRÌ GIỚI…nhà nhà an vui.
3.NHẪN NHỤC, đức hạnh cao vời!
Nhẫn như “đại hải” độ người trầm luân.
4.TINH TIẾN, giới đức nghiêm thân
Đường về chính đạo muôn dân thái hòa
5.Pháp tu THIỀN ĐỊNH bao la
Tinh thần tự chủ nhìn xa…cuộc đời.
6.TRÍ TUỆ bát nhã sáng ngời
Hừng lên như ánh mặt trời rạng đông
Ngày 19 tháng 2,nhâm thân -1992
Phật pháp cao siêu những vọng cầu
Đường đời mưa nắng…biển và dâu !
Bao dòng suối lệ rơi tầm tã
Mấy độ tang thương luống dãi dầu.
Kiếp người sao lắm nỗi thương đau
Đức Phật từ bi ý nhiệm mầu
Mở lối quần sinh về bến giác
Cho đời tươi đẹp gội ơn sâu.
1988
Bồ tát Quan Âm giáng cõi trần !
Hiển linh Hương Tích cứu sinh dân
Lòng Từ mở rộng can khôn hẹp;
Mắt Phật nhìn xa nhật nguyệt gần.
Giọt nước cam lồ …tiêu nghiệp chướng;
Nhành dương giải thoát xóa oan khiên.
Nghìn năm công đức soi kim cổ…
Phong cảnh trời Nam hiện cõi Thiền
Ngày 4 tháng 9 năm 1995
Nhân dịp về thăm quê hương ,ngày 9 tháng 8 năm ất hợi (3-9-1995), từ Nam Định, chúng tôi khởi hành lúc 7 giờ 30 đi xe tới đền Hùng ( Vĩnh Phú) đúng 12 giờ 30 dừng chân tại công quán mua hương, cả bốn người cùng đi vào cổng đền, qua nhiều bậc tới đền Hạ và chùa Thiên Quang, ngôi chùa được xây dựng lại vào thế kỷ XVII,trong chùa có nhiều pho tượng đẹp, đặc biệt là pho QUAN ÂM NAM HẢI.
Tam Quan xây thời Hậu Lê, có treo một quả chuông lớn đúc vào thế kỷ XVIII.
-ĐỀN HẠ: là đền có nhiều dấu tích kiến trúc cổ dân gian.Tương truyền đây là nơi Mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, tổ tiên của người Lạc Việt
-ĐỀN TRUNG: được xây dựng trước thời đại Lý-Trần,bị giặc ngoại xâm tàn phá,sau xây dựng lại
-ĐỀN THƯỢNG: Trùng tu vào những năm 1917- 1922. Trên đỉnh núi này ( cao 175m so với mặt biển ), vua Hùng lập miếu “Kính Thiên Lĩnh Điện” để tế trời đất.Bên cạnh sân đền có Cột Đá Thể do Thục Phán (An Dương Vương) đã dựng cột đá này sau khi lên ngôi: “Nguyện sẽ đời đời giữ gìn lăng miếu và cơ nghiệp vua Hùng truyền lại”. Cũng tại đây có dựng tháp mộ vua Hùng thứ VI.Dưới đây là câu đối chữ Nôm thờ ở lăng vua Hùng thứ VI:
“Lăng tẩm tự năm nào,núi Tản sông
Đà,non nước vẫn quay về đất Tổ:
Văn minh đang buổi mới, con Hồng cháu
Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông.”
Mười tám đời vua nước Việt hùng
Bốn nghìn năm lẻ cháu con chung
Hương mây một đóa dâng lên Tổ
Nguyện đá vàng gìn giữ núi sông
Ngày 9 tháng 8 Phật lịch 2539 (3-9-1995)
Kính dâng các Anh Hùng Dân Tộc
Xưa nay những đấng (gọi) anh hùng
Trang trải cho đời…nợ núi sông
Tâm tựa trăng soi lòng biển thắm
Trí như hoa nở mặt trời hồng
Mở ra đường sáng tình thương lớn
Khơi dậy niềm tin nghĩa sống chung
Dân tộc văn minh- đời thịnh trị
Vinh quang nước Việt giống Tiên Rồng.
3-9-1995
Giác linh HT Thích Thanh Long
Chợt nghe tin báo dạ bồi hồi
Thôi thế từ nay vĩnh biệt Người!
Tôi ở phương trời …xa cách quá
Nhớ thương đành chỉ nhớ thương thôi.
Câu thơ định viết mà chưa viết
Người đã ra đi tận cuối trời!
Thế sự thăng trầm…sầu viễn xứ
Sá gì vinh nhục, cố nhân ơi!
Hơn bảy mươi năm trong cuộc sống
Một lòng vị đạo với vì dân
Người: không danh lợi, không gì cả…
Đức sáng nào đâu lấm bụi trần.
Đóa hoa “nhân phẩm” tựa trăng sao
Nhân hạnh tu từ những kiếp nào?
Cây đức vun trồng hoa kết trái
Danh thơm bay tỏa ngát trời cao!
Sông núi còn kia ! vắng bóng ai?
Để thương để nhớ mãi cho đời
Hồn thiêng theo gió về Đâu Suất
Bỏ giữa trần gian tiếng khóc cười.
Nén hươn tâm niệm vọng liên đài
Man mác tình xưa mối cảm hoài
Muôn dặm xa xôi- người mỗi ngả…
Nhớ thương đành chỉ nhớ thương thôi[4]
Ngày 2-XII-1991
Riêng tặng các pháp lữ xa gần
Bạn và tôi nặng tình trong lý tưởng
Chung trái tim nhịp đập…ý thâm sâu
Nguyện tử sinh: phụng sự đạo cao siêu
Hồn mộng,thực trải dài trong mưa nắng…
Lòng tôi đây mãi là trang giấy trắng
Thôi hết rồi,còn chi nữa …mà mong!
Truyện các thiền sư làm đẹp…núi sông
Nêu chính nghĩa mở trang thơ Việt sử
Bạn còn nhớ với những lần “tâm sự”?
Có lẽ nào quên đạo nghĩa thanh cao !
Chí xuất trần siêu việt biết nhường bao
Trời hạnh phúc xa trông là sẽ thấy
Lời chân thành tôi ghi trên trang giấy
Những hằng mong gọi dậy chút tình xưa
Sự nhục vinh…đâu phải chuyện…hơn thua
Sứ mệnh “độ sinh”mới là trọng đại
Đông tàn,tuyết rụng, ánh trời quang
Cảnh vật dường như mới điểm trang
Cây cỏ thắm tươi…hoa nở đẹp;
Nước non rạng rỡ nắng hanh vàng.
Hồi chuông trừ tịch vừa buông tiếng;
Tràng pháo giao thừa đã nổ vang,
Thiên hạ rủ nhau đi lễ Phật
Người người náo nức đón xuân sang.
1991
Xuân về trong tiếng pháo ban mai,
Thức giấc vầng hồng tỏa mãn khai.
Trời đất tinh khôi-đời đổi mới!
Núi sông hùng vĩ-cảnh khoe tươi,
Tình người hoan hỷ vui xuân thắm,
Đức Phật từ bi nở nụ cười.
Điềm ứng năm nay nhiều hứa hẹn,
Mây lành che rợp…[5]khắp muôn nơi.
Xuân quý dậu- 1993
Đêm nay[6]trời đất tối như bưng
Cảnh vật hoang sơ cảnh não nùng
Dằng dặc trăng…mờ sao…vắng vẻ !
Lòng buốn rười rượi nhớ mung lung…
Tôi về thăm lại chốn quê nhà
Nhìn cảnh tang thương…dạ xót xa
“Thế sự thăng trầm” -đời ảo ảnh
Vô thường sống…chết…mấy ai qua!
Nguyện cầu Đức Phật hiện Sa-bà
Giải cứu hàm linh thoát Nại hà
Địa ngục-Thiên đường tâm tạo tác
Niết bàn-Sinh tử thị không hoa.
Sử Việt nghìn năm trải…tuyết sương!
Hôm nay: ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Mà sao con cháu như quên lãng…
Uống nước, nào ai nhớ tới nguồn?
Đề Bia Chùa Linh Sơn Nha Trang
Hơn hai thế kỷ sen thơm ngát
Trải mấy mươi đời Tổ đạo…thiêng
Pháp tử nối dòng hương khói tỏa
Nghìn năm thanh sử đất Nha Trang.
Vu Lan, PL 2541-1997
Ánh sáng
diệt trừ tăm tối
người người vui sống trong lòng
thế kỷ hai mươi mốt
trái đất quay
bánh xe Chính Pháp vần xoay
mở đường khai lối.
Muôn hoa đón chào vận hội mới
…có những đoàn người góp gió vờn mây
lớn lên như nước trào đầy
mặt nhìn mặt
tay nắm tay
lòng nhủ lòng
tin tưởng ngời lên ánh mắt
họ trao nhau trọn tình núi sông dằng dặc…
“anh một trái tim tôi một trái tim”[7]
chúng ta, triệu người như một
ghép ván làm thuyền
“dìu nhau qua những ngày dài lao khổ”
cho ánh đạo thêm sâu
hỡi ngàn sao sáng tỏ
nhiệm mầu,
Ánh nắng bừng lên “giữa đại dương một sớm mai hồng”
Như mặt trời xuất hiện ở phương đông
Cùng nhau ngợi ca cuộc đời
Tin yêu chân thật.
Xa trông thế sự…dạ bồi hồi,
Đạo lý cương thường đảo ngược rồi!
Mẫn thế, mà …âu đành lụy thế,
Thương đời, nên mới phải chiều đời.
Cái vòng danh lợi…ôi ngao ngán,
Nhìn cuộc hưng suy luống…ngậm ngùi
Lòng tự nhủ lòng quên tất cả.
Giang sơn Phật pháp nguyện tô bồi.
Đêm mất ngủ,1985
Nhìn vòm trời xanh thẳm
Dâng lòng lên chơi vơi
Ôi,hồn thơ man mác
Sao khó dệt…nên lời
Nhưng lòng ta vẳng lặng
Như vầng trăng đêm khuya
Tỏa ánh sáng dịu mát
Gieo rắc hạt Từ Bi.
Những văn minh tiến bộ
Tự nghìn xưa đến giờ
Do con người Sáng Tạo
Đâu phải chuyện đơn sơ…
Con người là tự chủ
Một ý chí sáng ngời!
Và,khơi nguồn sống mới
Mong làm đẹp cõi người
Mong bình minh hé mở
Cho đời bớt…đơn côi
“Hoa nhân quyền” bừng nở
Cho tình người vui tươi
Mây lành che chín cõi
Đạo Sáng chiếu nơi nơi
Đắp xây đài hạnh phúc
Giữa thế giới loài người
Gió xuân lướt nhẹ lúc xuân sang
Ngọn lửa Từ Bi tỏa ánh vàng
Sưởi ấm lòng người cơn buốt lạnh
Cho tình vũ trụ đẹp mênh mang.
Tôi “ước mong sao có những ngày
Tâm hồn êm ái tắm hương say
Gửi hương cho quãng đời thanh tịnh
Đỡ khổ, quên rồi…những buổi nay”.
Bao năm khói lửa mờ nhân ảnh
Nhân phẩm vùi sâu dưới số không!
Đất nước cựa mình khi thức giấc
Điềm lành báo trước buổi hừng đông.
PHẦN II: Trích một số bài thơ trong GIÓ THIÊNG Đuốc Tuệ, Hà Nội xb-1953
Tình thương khơi mở nguồn tư tưởng
Ý nguyện hồn thơ sáng nhiệm mầu
Ngôn ngữ hóa thân thành tứ lạ
Giao hòa một thoáng với muôn sau
Gió thiêng về giữa trần ai
Vi vu tiếng gió trong ngoài mọi nơi
Gió bay ra tận chân trời
Khắp miền phương đất…tuyệt vời mù xưa
Hôm nay, gió cuốn trong ta
Gió đem sinh khí muôn hoa trở về
Dẫu là cách trở sơn khê
Gió ngàn rung động “lời thề núi sông”
Tạnh đi! Mưa gió bão bùng…
Cho non nước lại tưng bừng nở hoa
Mong cho mưa thuận gió hòa
Cho non gặp nước cho hoa mỉm cười
Gió Thiêng nguyện áng xuân tươi
Cảm niệm ngày Đức Bồ Tát SIDDHATTHA thành đạo
Một nguồn sáng ngời lên từ tám hướng
vạn sinh linh hằng khao khát mong chờ
trời đất đẹp-Đạo Vàng thêm bát ngát !
khắp nhân gian như bừng tỉnh giấc mơ.
Hỡi ! vạn vật triền miên trong đêm tối !
hướng về đây, xây mộng đẹp tinh cầu
cho hồn lắng mê say vờn khói nhẹ
xa âm u, xa tội lỗi buồn đau
Hoa-như-ý nở đầy trời thanh sắc
Đấng Từ Bi lòng rộng mở cao sâu !
Là chứa đọng của muôn vì linh tú
Mây vô biên rủ xuống đạo dài lâu.
Bao ước vọng của tình thương ấp ủ
đây niềm tin tràn ngập tự xưa sau
MÙA GIÁC NGỘ- một mùa hoa sáng láng
gió vương hương giải thoát ý nhiệm mầu.
Gió Mới mang về muôn vẻ đẹp
Lời hoa ý thắm dệt hồn thơ
Vang êm nhạc đạo tràn lan xuống…
Từ ấy trần ai bặt tiếng tơ.
Bánh xe lịch sử dần xoay chuyển
Nhân loại,từ âu vẫn đợi chờ;
Mở lối chúng sinh về giác ngộ,
Xua tan vũ trụ…mối nghi ngờ.
Mây lành che rợp cả không gian
Rải phấn hương thơm khói ngút ngàn
Vạn pháp huyền vi khơi mạch sống…
Từ bi,nguồn suối mát…nhân gian.
Lý tưởng ngùn lên ánh lửa hồng
Đạo Vàng chiếu tỏa khắp tây đông
Từ Tốn in vết thần chân lý
Sáng rọi thanh xuân vạn tấm lòng.
Gió Mới mang về muôn vẻ đẹp
Lời hoa ý thắm dệt hồn thơ
Vang êm nhạc đạo tràn lan xuống…
Từ ấy trần ai bặt tiếng tơ.
Ngày Thành Đạo,PL 2497-1953
Trong tôi muôn điệu nhạc đời
Gảy lên những tiếng tuyệt vời cao siêu,
Lòng tràn ngập tình yêu không bến,
Thú an nhiên lưu luyến ngày xưa,
Quê hương trải mấy nắng mưa,
Mái chùa che chở sớm trưa…dân lành,
Khắp làng xóm tre xanh rủ bóng,
Mỗi đêm rằm đón ánh trăng lên,
Nhà nhà vui thú điền viên,
Mà nay chinh chiến…phủ miền giang san !
Thời gian bỗng làm tan trong gió,
Nhìn ánh trăng mờ tỏ gần xa.
Thả hồn trong cõi bao la
Mênh mông trời biển bướm hoa vẽ vành.
Ham vẻ đẹp “muôn hình muôn điệu”
Để mượn làm tài liệu tôi ca:
Vời trông phong cảnh nước nhà,
Ngập hồn thi sĩ mưa sa…lạnh lùng!
Nỗi buồn thế kỷ trong rét mướt,
Viết thơ,tôi có bút “muôn màu.”
Hòa cùng tư tưởng xưa sau,
Buồn,vui man mác đượm màu thi ca,
Ca Điệu nhạc an hòa vạn thuở,
Ca khúc đàn trong tựa suối reo.
Kìa,vũ trụ đẹp nhường bao
Nghìn năm vẫn ánh muôn sao…cõi người,
Gặp phải lúc dân nguy quốc biến
Tôi véo con vì tiếng ai bi:
Buồn thương trước cảnh phân kỳ!
Tấm thân riêng những nặng vì nước non,
“Trăm năm tính cuộc vuông tròn”.
Làn suối thương yêu
Tự đáy tầng
Kể từ mở nước
Dựng Văn Lang
Sử Việt: nghìn năm hiển hách
Nghìn năm công đức huy hoàng
Tâm như Đại Nhật
Tỏa sáng mười phương
Khí thiêng bàng bạc-ánh trăng trong
Hoa nở Từ Bi-Phật ở lòng
Nòi giống văn minh chân thiện mỹ
Rằng đây,gói cả cõi tình thương
Gió mới mang “tin” về khắp nẻo
Trăng thu tỏa sáng trải gần xa
Tôi say lý tưởng trong tôn giáo
Và tôi từng hát khúc trường ca.
Đây khúc trường ca của cuộc đời
Buồn thương mù tỏa trước vui tươi;
Nỗi đau chợt hiện trong tiềm thức
Như ánh sao mai lạc cuối trời.
Chiều xuống không gian buồn lặng lẽ
Thời gian như chiếm cả hồn tôi
Mịt mù sương tỏa…lòng tôi lạnh
Cây cỏ hoang mang cũng ngậm ngùi!
Bởi chưng mùa loạn khắp nơi nơi
Nghĩ kiếp nhân sinh…khổ lắm rồi!
Tôi từng gặp gỡ và thao thức
Cuộc sống khác gì lúc…vượt khơi
Sao nay buồn lẻ quá đi thôi!
Lòng những băn khoăn chuyện đạo…đời…
Giữa lúc giang sơn tầm cát bụi
Tình quê hương vương vấn hồn tôi.
Một chiều thu,lâi một chiều thu
Phảng phất in hình cõi tịch u
Ta vẫn là ta và tự nhủ
Buồn,vui cảm tác…một chiều thu.
Lời Sông Núi (Cảm tưởng trong khi đi biển)
“Nước non vẫn nước non nhà
Đến đâu ta cũng chỉ là ta thôi”
Tình quê luống những bồi hồi
Con tàu xa bến khuất vời cố hương
Lữ hành mấy nẻo dặm trường
Đìu hiu trước gió mơ màng đó đây
Vút ngàn khe suối bóng cây
Gió lùa ngọn cỏ đắm say cảnh tình
Ngưới nhìn lên khoảng trời xanh
Bên non, bên biển,bên tình…bao la
Mắt tôi lệ những chan hòa
Vì đời bao phủ sương sa lạnh lùng !
Chí tôi, dạ thép anh hùng
Lần xem bờ cõi Lạc Hồng những đâu
Từ Nam Quan đến Cà Mau
Nước non cách trở mặc dầu…ta đi
Trong cơn binh lửa loạn ly !
Nền dư đồ cũ còn ghi dấu hùng
Lửa thiêng bàng bạc núi sông
Hồn linh dân tộc sáng bừng…nơi nơi
VẠN XUÂN thuở ấy phục hồi
Muôn năm nướcViệt nối đời vinh quang.
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
THÔI HIỆU
Hôm nay, trời lất phất mưa
Gió rì rào gợi hồn thơ khơi nguồn
Tiếng chuông xé lớp sóng cồn
Hoàng hôn rủ xuống cô thôn xa mờ
Chập trùng khuất nẻo đường xưa
Xa xôi biết có bao giờ về thăm
(Đến nay cách đã bao năm?
Nhớ nhưng để dạ…khôn làm sao đây!)
Trong khi loạn lạc thế này
“Biệt ly êm ái” xưa nay lẽ thường
Ai mà cưỡng được lòng thương
Nước non một giải hồn vương cành tình
Quê tôi ở tận xa xanh
Giữa làm có một ngôi đình quạnh hiu
Bóng tre xanh lúc xế chiều
Cùng ngơ ngác với…bao nhiêu nỗi niềm…
Lạc loài trong cõi vô biên
Bâng khuâng gió rít lời nguyền núi sông
Nhưng rồi…lòng tự nhủ lòng
Khí thiêng hiểu hiện chim Hồng bay cao
Quê hương là những vầng sao
Nghìn năm mây trắng biết bao nhiêu tình
Non non nước nước xinh xinh
Nguyện cho non nước giữ xanh đời đời
“Liên lạc bất kham hoài cố quốc
Cơ mi hà sự luyến tha hương”
Hôm nay, trời rộng,mây cao,
Một mình lạc long đi vào rừng xanh,
Chim ca ríu rít trên cành,
Hoàng hôn rủ xuống mái tranh khói mờ,
Sườn non cành trúc phất phơ
Càng nhìn cảnh vật càng…ngơ ngác hoài
Lạc loài trong cõi trần ai,
Vi vu tiếng gió thổi ngoài rặng cây.
Non cao,cao vút cung mây,
Nhớp nhơ hiện tại…phủ đầy tang thương!
Lê chân dạo khắp phố phường,
Trần gian xao xuyến vấn vương phận mình,
Bâng khuâng nhìn cảnh xa xanh,
Trút trên trang giấy hồn trinh mấy lời,
Cảnh kia ai đã vẽ vời,
Đàn kia ai gảy mà khơi…nỗi phiền.
Nước non nặng một lời nguyền.
Lòng ta nở đóa hoa tình
Gió càng gào thét vươn mình càng cao
Biển khơi sóng dậy xôn xao
Ôi,bâng khuâng quá sóng reo gió cồn
Mưa tuôn mờ khuất sau ngàn
Ầm ầm chớp giật sấm ran khắp trời
Mây chiều rườn rượn buồn trôi
Sương lam lạnh lẽo lưng trời nhạn bay
Rám vàng hiu hắt heo may
Đường không tịch mịch gió lay phím đàn
Bâng khuâng nhìn cảnh hoang tàn
Sầu mang theo lệ gửi hàng tre xanh
Mặc cho mưa gió tung hoành
Ta đi với cả tâm tình…ta đi
Nhớ khi nguyện ước những gì
Mộng vàng xây đắp còn ghi đáy lòng
Bụi mù khuất nẻo đồi thông
Họa may hồn có đoái trông quê nhà
Lạnh lùng gió rít trong ta
Gió ơi! Mưa gió nữa mà làm chi?
Tạnh đi! Xin hãy tạnh đi!
Cho hoa đỡ phải sớm lìa cỗi cây
Nắng hồng hãy trở về đây
Và cùng muôn vật sum vầy tốt tươi
Ờ đây không khí nhẹ nhàng
Cánh đồng lúa chín ửng vàng khắp nơi
Tôi say vẻ đẹp đất trời
Say hoa tươi thắm say người ươm bông
Khơi nguồn hạnh phúc-ai trồng?
Hương thơm tỏa ngát từ vồng cỏ hoa
Lưng trời cánh nhạn bay qua
Bâng khuâng mến nhớ tình ta u hoài !
Trăng non vừa xé rách lưới trời quạnh hiu
Mây về những ngẩn ngơ chiều
Nỗi buồn quê mẹ…niềm đau ngậm người…
Gió đưa tiếng sáo lên khơi
Nhìn bờ lau thắm…lệ vơi cõi lòng
Khí thiêng bàng bạc núi sông
Cỏ sường non tắm ánh hồng Bạch Vân
Trót “mang lấy nghiệp vào thân”
Nhớ quê,tôi có đôi vần…tôi ca
Lạc loài trong cõi bao la
Nơi đây đồng ruộng thướt tha huy hoàng
Tình quê quên nỗi bẽ bàng
Hồn quê chan chứa mấy hàng tre xanh
Cỏ hoa đồng ruộng tốt lành
Nghìn năm kim cổ tung hoàng là đây
Cánh đồng quê[8]ấy tôi say…
Đây mùa hoa chớm nở
Sắc xanh đỏ trắng vàng
Lòng tôi vừa hé mở
Đón gió lạ rừng hương,
Hoa đẹp cho lòng những cảm thương
Hoa kia ai nở hái ven đường
Anh hoa phát tiết ngời xuân ý
Hoa tới mùa hoa dậy sắc hương
Hoa rải phấn vàng mây quyện gió
Bảo rằng: hoa vừa độ hoa khai
Cũng như trăng tới kỳ trăng tỏ[9]
Như ánh mặt trời mọc sớm mai
Đây mùa xuân thắm- mùa hoa nở
Bởi lẽ hoa là cả ý thơ
Nếp sống văn minh hoa góp mặt
Giúp người trút bỏ nỗi ưu tư
Nhìn chùm hoa nở tốt xinh tươi
Cảnh lạ rừng hoa ý nhị cười
Hoa tạo cho đời thêm vẻ đẹp
Hương thơm phảng phất tỏa nơi nơi
Thân gởi pháp hữu THÍCH GIÁC VIÊN
Hôm nay, gió lộng về hoang vắng
Những hạt mưa phùn lặng lẽ rơi
Gặp bạn cõi lòng tôi ấm lại
Cảm tình man mác…nhớ xa xôi…
Giữa lúc nhân gian sóng ngập trời
Theo giòng nước chảy ngã ba xuôi
Muôn vàn khoa học nhưng sao vẫn (?)
Toàn những u hoài…giọt lệ rơi (!)
Trước hố sâu xa của cuộc đời
Nỗi đau nhân thế khó khơi vơi
Bao năm ấp ủ…tình thương lớn
Mộng dệt hồn hoa ý tuyệt vời.
Ngọn đuốc Từ Bi chiếu sáng ngời
Quét quanh mây tạnh…lệ sầu vơi…
Trên đường lý tưởng cao sang ấy
Tay nắm tay ta dựng cuộc đời.
…Những vết thời gian chẳng xoá nhào
Con đường duy nhất: Đạo cao xa !
Còn ghi mãi mãi lời đây nhé
Gió quyện mang về muôn ý hoa.
1949
Mến tặng các em
Danh Và Gia Đình Phật tử V.N.
Các em là đóa hoa
Nở giữa mùa xuân thắm
Coi dịu dàng óng ả
Ai nhìn mà chả thương
Các em là đàn chim
Chuyền trên cành ca hót
Tung cánh tận trời xa
Trông xinh xinh đẹp mắt.
Các em còn non trẻ
Là lúc đang vui chơi
Mơn trớn vẻ tròn đầy
Nô đùa không tư lự.
Các em tuy còn nhỏ
Nhưng mà ngoan-ngoan lắm
Quần áo các em sạch
Học hành các em chăm
Ở nhà cha mẹ răn
Các em biết lễ độ
Giữ trọn đạo làm con
Đến trường thày giáo dạy
Các em chăm chỉ nghe
Bao nhiêu điều nhân nghĩa
Nào trí dục, đức dục
Cách trí và địa dư
Cả sinh ngữ,toán pháp
Các em cũng hơn người
Ngoài ra còn những gì
Các em đều thông thạo
Tối đến em tụng kinh
Cầu nguyện cho nhân sinh
Mau trở về chính đạo:
Đạo Phật- đạo Từ Bi
Trí Tuệ và Giải Thoát
Trừ sạch mọi khổ đau
Là đạo của nhiệm mầu
Các em hãy nhìn nhau
Làm gương cho tất cả…
Các em đàn hậu tiến
Tay măng sữa nõn nà
Mắt nhìn xa sáng quắc
Miệng nở nụ cười hoa
Lòng tôi thấy vui vẻ!
Tôi muốn cùng các em
Sống cuộc đời tươi trẻ
Và ca mãi ngày xuân…
Các em là những búp
Măng non đang nảy trồi
Vươn mình khắp mọi nơi
Che rợp cả đất trời
Các em ngày mai lại
Khi tuổi đã trưởng thành
Độ tuổi của xuân xanh
Đầy tràn trề hy vọng
Nhìn vòm trời cao rộng
Vũ trụ đẹp nhường kia
Nước Việt Nam oai hùng
Ôi, sung sướng biết mấy
Các em hãy nhận lấy
Trách nhiệm ở ngày mai
Cả việc đạo việc đời
Trông chờ các em đấy
Các em hãy nghe tôi
Chăm chỉ học, chớ lười
Đoàn tụ thương yêu nhau
Hạnh phúc chỉ ngần ấy…
Hoa sen xinh đẹp biết là bao
Hoa ơi! Hoa có tự thuở nào?[10]
Giơ tay nâng đóa hoa như ý
Cho lòng vũ trụ ngợp trăng sao.
Có hoa sen nở ngát xinh tươi
Có vạn tim mơ ý tuyệt vời
Lưu luyến tình ta muôn thế hệ
Hương đưa phảng phát tỏa nơi nơi.
Trăng lồng đáy nước,hoa lồng bóng
Gió thoảng hương đưa: hoa mãn khai;
Trời đất tinh khôi hoa kết nụ
Như vầng dương hiện lúc ban mai.
Hoa Sen sải cánh đẹp ven hồ
Mọc tự bùn nhơ chẳng nhiễm ô
Hoa của mười phương hoa nở đẹp
Thả hồn chỉ thắm quyện đường tơ.
Khi mùa sen đến-mùa hoa nở
Nguồn suối thương yêu…dậy ý thơ
Chúng sinh khao khát tình cao cả
Đạo Sáng nhiệm mầu tỏa ước mơ…
Hoa Sen xinh đẹp biết la bao
Hoa ơi! Hoa có tự thuở nào
Giơ tay nâng đóa hoa như ý
Cho lòng vũ trụ ngợp trăng sao.
1953
Kỷ niệm đại hội Phật giáo thống nhất họp lần thứ II tại Sài Gòn,PL 2500
Tôi chép bài ca thống nhất
Gửi về trăm chốn ngàn phương…
Sông núi dâng niềm tin tưởng
Tình người nở vạn hoa hương.
Tôi viết bài ca hợp tấu
In trên lụa đẹp muôn màu
Ngày mai tưng bừng mở hội
Cùng về đoàn tụ bên nhau,
Có những tấm lòng son sắt
Bàn tay xiết chặt bàn tay
Yêu thương hiện trong sóng mắt
Loài người chung sức đắp xây…
Kìa ! hoa Từ bi nở đẹp
Khắp trời ngợp những trăng sao
Cơ hội nghìn năm một thuở
Khơi nguồn mạch sống dâng cao.
Tôi viết bai ca hy vọng
Cuộc đời xóa hết thương đau
Đạo Vàng ngày thêm bát ngát
Sáng lên! Ánh sáng nhiệm mầu.
Tôi chép bài ca thống nhất.
Gửi về trăm chốn ngàn phương
Sông núi dâng niềm tin tưởng
Tình người nở vạn hoa hương
1956
Mây chiều tan hợp nhện giăng tơ
Trời đất im lìm trong giấc mơ
Vạn vật như say cơn mộng ảo
Ôi,bâng khuâng dệt mấy vần thơ
Tôi nhớ xa xưa một độ nào
Màn trời lấp lánh hiện muôn sao
Chạnh niềm nhớ tưởng trong suy tưởng
Cuộc sống thanh bình…đẹp biết bao
Bỗng,khói lửa từ đâu…hiện đến?
Khiến cho nòi giống phải lao đao[11]
Tình người lạc long bơ vơ quá!
Nhân thế sao mà lắm khổ đau…
Nghe trời nổ gió thoảng dư ba
Tâm sự trăm năm…ta nhủ ta:
“Hoằng pháp lợi sinh” là nghĩa cả
Lòng Từ rộng mở giữa bao la
Lá cuốn,mây bay,sóng dạt dào
Tâm hồn kẻ sĩ vút dâng cao
Ý tình lưu luyến từ muôn kiếp
Một cõi trần gian-một nhiệm mầu.
Man mác tình thương rải phấn vàng
của đời tươi thắm tuổi hiên ngang
dẫm trên hảy thể mười phương trắng
gọi nhỏ xuân về với cố hương
GIÁC VIÊN
Lá thu rụng nổi trên đầm sinh diệt
Nắng vàng hoe ẩn trong túp màn tranh
Nhựa tràn đầy của nguồn sống mong manh
Hòa với lẽ muôn đời trong vũ trụ
Đường sống đạo ta vẫn luôn ấp ủ
Dẫu chông gai ta vẫn bước an nhiên
Dù đêm dài ta đợi ánh trăng lên
Tương lai đẹp ướp…hương lòng hiện tại
Nhưng ,trần gian,trần gian là cửa ải
Vắng tanh người như chiều xuống hôm nay
Cánh rừng hoang trong hiu quạnh chốn này
Làm ngừng đọng cả cõi trời xao xuyến
Gió gào núi,tiếng gầm nơi sóng biển
Doạ nạt người trần thế đứng kề bên
Muôn sắc hương lẫn sầu khổ triền miên
Hoa và lá cũng phai màu tươi thắm
Đời mù quáng xin hãy lìa…mê đắm
Tìm an vui giữa sông núi “tịch liêu”
Gió xuân lướt nhẹ cành đào,
Hồ trong lơ lửng cánh bèo nghiêng nghiêng.
Mây trôi về cõi vô biên,
Hạt mưa rải rác khắp miền nhân gian,
Chuông chùa xa vọng ngân vang,
Sưởi hồn lạnh đốt lò nhang “chân thường”.
Ngàn mai nở đóa hoa vàng,
Non sông in nét hào quang sáng ngời.
Không gian vẫn đất,nước,trời,
Và,xuân trước với xuân này khác chi?
Sáng lên ! ánh sáng Từ Bi,
Nhân sinh tỉnh giấc mê si…canh trường!
Mùa xuân,mùa của sắc hương,
Ý xuân lưu luyến; tình xuân dạt dào…
Khắp trời ngợp những trăng sao
Vạn-Xuân-Hoa nở thấm vào hồn say…
Hoa xuân quyện gió xuân bay,
Gió xuân phảng phất vờn mây mang về…
Nơi đây,dưới ánh trăng vàng,
Hồn thi nhân những…rộn ràng niềm tin,
Hòa vui lẽ sống thiên nhiên,
Khơi nguồn sáng mói trăng hiền muôn thu.
Đêm nay trăng tròn đầy và vẳng lặng,
Trăng lung linh,trăng huyền ảo làm sao!
Từng ánh vàng lóng lánh tự trời cao,
Rọi bóng xuống xé màn mây tăm tối,
Hỡi nhân thế đắm chìm trong tội lỗi!
Dắt dìu nhau…xa khổ ải triền miên
Trở về đây chung hưởng ánh trăng hiền
Cho hoa đạo ngời lên ngàn sao sáng rỡ.
TRĂNG MUÔN THUỞ! Người cao vời tỏ rõ,
Hiện hình ra giữa trần giới mê mờ…
Tôi hiểu người qua ý thắm duyên thơ
Người đẹp lắm! và lòng người cũng đẹp !
(trong chuyến đi máy bay từ Sài Gòn ra Huế)
Mờ mờ sáng lúc mặt trời vừa mọc
Cosara[12]cất cánh liệng trên không
Ngước nhìn ra bầu vũ trụ mênh mông
Ồ, đẹp quá cảnh giang sơn hùng tráng!
Lòng tràn ngập tình yếu không giới hạn
Đây lớp nhà xen với lũy tre xanh
Đây rừng hoang, đây biển cả bao quanh
Và đây nữa, núi đồi cùng thung lũng
Có lắm lúc như làn mây lững thững
Kéo lê thê dệt từng cánh tơ vàng…
Tôi tưởng tượng trong giờ phút ngang tàng
Vượt tất cả đi tìm chân lý sáng
Tuy bỡ ngỡ nhưng…lòng tôi vắng lặng
Cứ đi đi…đi…tận tới muôn trùng
Thả hồn ra đón gió lạ rừng hương
Cho ánh đạo ngời lên trong cuộc sống…
29-3-1952
Tặng những người bạn tôi quen và lạ cùng chung lý tưởng phụng sự chính pháp-dân tộc và nhân loại…
Lên đường ! Tìm chân trời mới
Ca vang lên cho thế giới thanh bình
Cho hồn đau vợi bớt
Cho vạn loại hồi sinh
Cho ánh đạo ngời lên trong cuộc sống…
Cho đời trái ngọt thơm hoa
Ta đi khắp chốn quan hà
Truyền tin cho cả gần xa cõi người
Gieo mầm trí tuệ
Hạnh phúc an vui,
Từ xưa nhớ mãi muôn đời
Vẫn đoàn người ấy ven trời…ta đi…
Lấp nghìn muôn hố thẳm
Nồi kết tình…chia ly
“Vượt” và “tạo”hoàn cảnh
Cùng nhau đi…ta đi…
(Nương theo tiếng gọi Từ Bi
Từng hiên ngang bước ra đi…vì đời)
Một công trình đích đáng
Một nhiệm vụ sáng ngời
Đất nước rẽ qua cơn bĩ cực
Tương lai: Vận Sáng Của Con Người
Ôi, hồn thiêng muôn thuở của ta ơi!
Nguyện về đây cùng nhau xây đắp:
Một gia đình Phật hóa
Trong nếp sống hòa vui
Một quốc gia cường thịnh
Trí sáng chiếu muôn đời,
Và,từ xưa,vẫn đoàn người ấy
Đi …Ta đi…,ơ kìa
Một chân trời mới
Ca vang lên cho thế giới thanh bình
1954
Nắng vàng sưởi ấm
Mộng đẹp chiều mơ
Dệt nên bởi sợi dây tơ
Ý vương vương những hồn thơ rộn ràng
Mùa hoa nở
Nét huy hoàng!
Đây đàn chim tung cánh
Đây đàn bướm tung hoành
Cùng chung niềm tin tưởng
Non nước một màu xanh
Ngát mùi sen thắm tình vương vấn
Bao trái tim xây đắp mộng lành…
Nghìn năm một hội
Rộn nghĩa nhân sinh
Say nguồn lý tưởng
Mạch sống thanh bình
Tình trong, ý sáng,duyên lành
Nhịp đàn trỗi khúc xanh xanh ngàn đời
Vì chúng ta biết rằng:
Ngày Mai Trời Lại Sáng.”
Từ lâu,nhân loại đợi chờ trông
Ánh đạo ngời lên ngọn lửa hồng
Làm sống dậy những gì đã chết
Niềm tin soi sáng vạn hoa lòng
1954
Thơ các Vị Danh Tăng đời Lý- Trần
Cố hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất dao văn,
Tùy xứ kết tường vân.
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân
Giới hương, định hương,dữ tuệ hương
Giải thoát,giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng dường thập phương vô lượng Phật
Lò trầm vừa chợt đốt
Khắp cõi pháp thơm lừng
Cúng dường lên chư Phật
Và Bồ tát Thánh tăng
Chứng chi lòng trong trắng
Dù một nén tâm hương
Mây lành che chín cõi
Chư Phật hiện mười phương
Hương GIỚI,hương ĐỊNH với hương TUỆ
Hương GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN
Kết thành mây sáng trưng cõi pháp
Cúng dường chư Phật khắp mười phương.
Thiền Sư Pháp Thuận (915- 990)
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
Vận nước như dây quấn
Trời Nam mở thái bình
Niết bàn trong điện các
Đây đó hết đao binh
Đại Sư Khuông Việt ( 933-1011)
Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương
Dao vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lắng
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng
Trời quang,gió thuận,cánh buồm giương
Dõi theo sứ thần về cố hương
Nghìn trùng non nước vượt đại dương
Xa xôi hút dặm trường
Tình thắm thiết, xin nâng chén rượu lên đường
Cầm tay nhau,lòng vấn vương…
Nhờ dem ý nguyện người biên cương
Bày tỏ với thượng hoàng.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cối thu tàn xuân trổ bông
Nhìn cuộc thịnh suy…nào có sợ
Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương hồng
Thiền Sư Viên Chiếu ( 999 – 1091)
Ly hạ trùng dương cức
Chi đầu thục khí oanh
Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh.
Dưới giậu, cúc thu nở
Đầu cành oanh xuân ca,
Ngày ngày mặt trời chiếu,
Đêm đến trăng hiện ra.
Tăng Thống Huệ Sinh ( ? – 1063)
Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịnh lịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không không giác hữu
Tam muội nhậm thông chu
Pháp cũng như không pháp
Không có cũng không không.
Nếu biết được lẽ đó,
Chúng sinh, Phật vốn đồng.
Trăng Lăng Già[13]in bóng
Thuyền đậu bến Chân Không,
Biết không, không là có,
Định tuệ chiếu vô cùng.
Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.
“Chân như diệu tính” vô ngôn thuyết,
Chỉ ngộ Chân Như mới hiểu thôi.
Trên núi ngọc thiêu màu tỏa sáng,
Trong lò sen nở sắc khoe tươi.
Thiền Sư Mãn Giác ( 1052 – 1096)
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến nở…trăm hoa,
Trước mắt, đời chuyển biến!
Đầu xanh tuyết điểm pha…
Đừng nghĩ:
Xuân tàn hoa rụng hết
Bên thềm, mai nở trắng…đêm qua!
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên thiền định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư.
1-Nước Việt Nam, vua Nam cai trị,
Sách trời vạch định rõ biên cương.
Cớ sao lũ giăc sang xâm chiếm?
Quyết đánh không tha, buộc chúng hàng.
2-Vua Nam ngự trị nước Nam ta,
Ranh giới sách trời đã vạch ra.
Quân giặc, cớ sao sang cướp phá?
Bọn ngươi chuốc lấy nhục thua mà!...
Thiền Sư Quảng Nghiêm ( 1121- 1190)
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành
Lìa tịch diệt, bàn câu tịch diệt,
Chứng vô sinh hãy thuyết vô sinh,
Tài trai tự chủ tròn thiên chí;
Khoan…vọng Như Lai- thẳng lộ trình…
Thiền Sư Thường Chiếu ( ?- 1203)
Đạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa.
Đại thiên sa giới ngoại,
Hà xứ bất vi gia.
Đạo vốn không nhan sắc,
Ngày phô vẻ gấm hoa.
Cả đại thiên sa giới,
Đâu chẳng là quê nhà.
Tâm điạ khai thời khoa lạn mạn
Chư thiên vũ lộ nhượng phân phương
Chi chi đóa đoá hiến Phật tiền
Ức kiếp nghiệp phong xuy bất lạc[14]
Hoa tâm nở mài tốt tươi,
Hương thơm sực nức hoa trời kém xa.
Trước Phật, xin dâng đóa hoa.
Muôn thu gió nghiệp khó mà chuyển lay.
Chân tể huân đào, vạn tượng thành,
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm song vô niệm,
Khước bội vô sinh, thụ hữu sinh.
Tị trước chư hương, thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
Thiên địa giao thao vạn vật thành,
Nhân duyên hội ngộ sắc và danh[15]
Vì sai hữu niệm quên vô niệm,
Bởi trái vô sinh chịu hữu sinh.
Mũi lưỡi mê hương ưa mùi vị,
Mắt tai đắm sắc thích âm thanh.
Lang thang khách trọ đời phiêu bạt,
Xa cách quê hương vạn dặm trình.
Nhân sinh tại thế nhược phù âu,
Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu.
Cảnh bức tang du tương hướng vãn,
Thân như bồ liễu tạm kinh thu.
Thanh điêu tích nhật Phan Lang mấu,
Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu.
Thế sự thao thao hồn bất cố,
Tịch dương tây khứ thủy đông lưu.
Bềnh bồng sóng nước kiếp con người,
Thọ yểu nào ai cưỡng số trời[16]
Cảnh đã nương dâu làn nắng tắt,
Thân như bồ liễu hạt sương rơi.
Phan Lang thuở trước đầu xanh mướt,
Lã Vọng năm nay tóc bạc rồi!
Sự thế bộn bề thôi ngoảnh lại,
Vầng hồng gác tía, nước trôi xuôi.
Âm dương khiến đức bản tương nhân,
Biến tác tai truân cập thế nhân.
Đại để hữu thân phương hữu bệnh,
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân.
Linh đan mạn thác trường sinh thuật
Lương dược nan linh bất tử xau6n
Tảo nguyện viễn ly ma cảnh giới,
Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân.
Âm dương họa phúc vốn theo nhau,
Gieo rắc nhân gian nỗi thảm sầu
Vì bởi có thân, nên có bệnh,
Nếu như không xác, ắt không đau,
Phép tiên, đã mấy ai không chết?
Thuốc thánh nào đâu kẻ sống lâu!
Xa lánh cõi ma mau tỉnh thức,
Trên đường tu đạo, sớm quay đầu.
Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh,
Ngư ông túy lúy, điếu chu hoành
Tứ thùy vân hợp âm mai sắc,
Nhất pháo ba phiên cổ động thanh,
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch,
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh.
Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh,
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.
Lồng lộng khắp nơi trận gió ngàn,
Ông chài say khướt mặc thuyền lan,
Bốn bề mây kéo trời u ám,
Một giải sóng gầm trống giục ran,
Tầm tã côn mưa bay lả tả,
Ì ầm tiếng sấm nổ lan man.
Giây lâu,tan bụi bầu trời tạnh,
Đêm xuống dòng sông bóng nguyệt tan.
Trần Quang Khải ( 1241 – 1294)
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình đương[17]trí lực,
Vạn cổ thử giang sơn.
Bến Chương Dương đuổi giặc,
Cửa Hàn Tử diệt thù,
Thái bình nên gắng sức,
Đất nước vững nghìn thu,
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thăng xuân
Kiếp người một hơi thở
Tình đời đôi mắt buồn,
Cung ma nhiều rắc rối…,
Cõi Phật vui nào hơn.
Nghi vệ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.[18]
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
Cửa mở,lúc thứa dậy,
À,xuân đã đến kìa !
Có đôi bươm bướm trắng,
Đậu cành hoa phất phơ…
Tôn Giả Pháp Loa ( 1284 – 1330)
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.
Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn
Trót nửa cuộc đời mộng thế gian
Hỡi các môn nhân đừng gạn hỏi
Bên kia trăng gió đẹp mênh mang.
Đường - Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.
Đường - Việt hai vua: hiệu Thái Tông
Người xưng Trinh Quán, kẻ Nguyên Phong
Kiến Thành bức tử, An Sinh sống
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng
Thiền Sư Hương Hải ( 1628 – 1715)
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chỉ ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Chim nhạn bay ngang trời,
Bóng chìm trong đầm lạnh.
Nhạn không lưu dấu vết,
Nước chẳng giữ bóng hình.
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khắp anh hùng,
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung,
Trường thử bách niên cam thóa mạ,
Bất tri hà nhật xuất lao lung,
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Nguyện bả tư văn khan nhất thông,
Thế sự coi kìa hết thảy không,
Non sông cạn lệ khóc anh hùng.
Muôn dân nô lệ vòng cường tỏa,
Tám vế văn chương giấc ngủ nồng (!)
Há nhịn trăm năm người chửi mắng?
Thả trôi ngày tháng kiếp cùm gông!
Quý ông đâu phải không tâm huyết,
Xin đọc thơ này chút cảm thông.
21 -6- 1990
Nếu cõi đời không đau khổ tối tăm,
Ta đã chẳng xuất hiện trong cõi Sa bà này
- lời Đức Phật.
Ngày hôm ấy, đóa hoa đàm bứng nở
Là điềm thiêng nghìn thuở mãi linh anh
Là Nguồn Tin tràn ngập mọi an lành
Đã khơi mở sống còn…từ vạn kỷ,
Ngày hôm ấy, hương vầng in huyền bí
Lời tung hô vang động cả bầu trời
-Đời mê say trong một giấc mơ tươi-
Làm ngừng đọng cả cõi đời xao xuyến.
Ngày hôm ấy, phá tan bao thành kiến
Từ nghìn xưa vạn vật đẫm đau thương
Và những gì của áp bức,bất lương
Đã dệt lại bằng sợi dây đạo lý.
Ngày hôm ấy, muôn cõi lòng hoan hỷ
Mang về đây niềm Hy Vọng ngày mai
Khắp muôn loài làm sống dậy muôn nơi
Cho tất cả…được nhờ ơn công đức.
Ngày hôm ấy, trên hai nghìn năm trước
Thành Kapilavastu rực rỡ nhiệm mầu
Nơi khí thiêng sản xuất đạo cao siêu !
Cả vũ trụ, nhân, thiên đều kính lạy,
Ngày hôm ấym gió muôn phương tồn tại
Hoa đưa hương và lắng tiếng tơ sầu
Vạn sinh linh hằng khao khát mong cầu
Ơn pháp nhũ Đấng Từ Bi cáo cả.
Một tia sáng ngời lên trong đêm tối
Đây niềm tin mược gió gửi ngàn phương
Tôi đã có những vần thơ tha thiết
Buồn thương cho cuộc trần thế xoay vần
Nhưng…từ độ thuyền từ nương vững lái
Nguyền sắt son trong chí hướng siêu trần,
Gió rộn rã bay về nơi đất lạ
Lời góp lời, thương xót nghiệp trầm luân
Trăng vằng vặc trên biển trời, theo dõi
Soi đường đi cho vạn lấp phong vân,
Tìm Sự Thật trong nghìn đời bất diệt
Nhìn chân mây, mặt nước, ý trầm ngâm…
Khi giác ngộ, nở thành hoa trác tuyệt!
Thoát ra ngoài bao không có, có không.
Rồi một ngày kia: trời quang ,mây tạnh
Người hoan ca trong điệu sống thanh bình
Hoa đàm nở như ngàn sao lấp lánh
Hương đàm bay theo cánh gió lương sinh.
Từ vạn nẻo, trần gian xuôi một hướng
Triều thương yêu theo nhịp sống lên dần
Và ánh sáng của niềm tin bất diệt
Nguyện đưa đường muôn loại đến thiên chân,
Thơ của chư Tăng và các thi văn hữu tặng tác giả
Đức đại công cao nhật nguyệt đồng
Nhuận hòa xứ xứ độ quần mông
Thượng hoằng Phật đạo tùy cơ ứng
Tọa niệm kim kinh vạn sự thông
Lương năng chi khí chí dung hòa
Hạnh ngộ di phong đắc xuất gia
Đức nhuận càn khôn đồng diệu thể
Giác minh vũ trụ nhất tâm hoa
Nho phong cẩm tú tiêu thi xã
Phật học tinh hoa chủng đạo nha
Vạn hạnh toàn chương phương giáo điển
Danh đăng kim sử tịnh sơn hà.
Tâm hoài chí thiện chấn tăng luân
Phú ốc hà như đức nhuận thân
Vạn hạnh tinh hoa hinh giáo sử
Ngũ lăng văn bút hội từ vân
Giác minh đại địa tiêu kim xí
Tuệ chiếu trường thiên hiển tri nhân
Thế cục phế hưng hàm nhất tiếu
Thiền lâm nghiễm tọa độc kỳ lân
1977
Trượng phu chi chí xuất trần gia
Tuế nguyệt tài bồi giác đạo nha
Đức nhuận thân tâm văn nhuận thế
Trí khai tình thức bút khai hoa
Thiền lâm ngọc diệp phu minh nguyệt
Tuệ uyển kim chi ánh đạm hà
Vạn hạnh linh hoa phương ý chức
Hưng dương giáo hải tráng sơn hà
Thế Tôn giáo lý bản vô cùng
Thâm áo huyền vi thiểm vị thông
Hạng ngộ thiền gia văn diệu pháp
Đốn tư trần cảnh ngộ chân không
Nhược năng tụng niệm thân tâm lạc
Tiệc đắc an khang lão thiếu đồng
Tạc nhận thừa nhan đàm thoại hậu
Phiêu nhiên mãn tọa khởi xuân phong
Thế sự thăng trầm tự ảo vân
Kỷ niệm diện bích vọng canh tàn
Đức bào như thiết thùy năng hoán
Nhuận thủy tùy bình khởi tỷ phân
Hoa điểu bất kinh sư tử hống
Mộc nhân hà phạ ác lang thân
Pháp luân phổ nguyện đông tây chuyển
Chí tại Nhất Thừa thị bảo trân
1993
Vị đạo ưu thời bất cố thân
Lao lung hà ngại chi siêu trần
Đức như tuệ chúc quang phù thế
Nhuận tự thần chung cảnh mị dân
Ngộ hại tâm an vô động chuyển
Phùng mưu trí tịch bất dao phân
Quan Âm diệu lực nan tư nghị
Cứu ngã thời thời thoát khổ tân.
Kính tặng Thầy Đức Nhuận
Sơn sinh phát tiết muộn lời
Tâm hồn như lộc trang đời như điên
Chậm lời muộn tiếng lầu tiên
Liền tâu Thánh Đế (Đức NHuận)
mối phiền Lão Phu (Đười Ươi)
1973
Trận đầu ký thác Rừng Thiêng
Sông xa ở lại cơn phiền dây dưa
Rải lên đường cỏ mộng thừa
Về thăm viễn phố tin vừa mối dâng
Nắng hồng - trẫm triệu phân vân
Bấm cung lục ngạn thành thân mối buồn
Cập bờ phỉ thúy đúc un
Tầm sương sái điệu – quên nguồn hóa sinh
BÙI GIÁNG- 1993
Vạn Hạnh Quốc Sư
Kính tặng T.T Thích Đức Nhuận
Sư ở vườn mai chống gậy ra
Lòng tay mang bông bưởi bông trà
Về nhã lan bày lên đĩa cổ
Ngồi dịch kinh kinh cũng nở hoa
PHẠM THIÊN THƯ- 1973
Trăng Mọc Thanh Thơi
Kính tặng Thiền Sư Đức Nhuận
Trăng mọc thanh thơi bước tỏa mây
Mà soi mà sáng có mà hay
Cả hoa nở cũng còn không biết
Chi biết thiền sư để dấu giày
Nguyên đán giáp dần
Người giữ lửa trong đền
Huyền vi ngọn lửa thiêng
Giữ quê mình ấm mãi
Cho hoa nở Rồng Tiên
Xuât ất sửu – 1985
TRỤ VŨ
Ký hỏa đình viện trung
Linh cự thị ảo mộng
Vệ hương tâm thần noãn
Hoa khai Tiên dữ Long
Hồn Thơ
Kính dâng Hòa Thượng Đức Nhuận
Thơ với gió hay là em đã
Thổi vào cây chiếc lá xanh lòng
Nắng với đất hay là ta đã
Chín vàng người như cỏ nằm không
Cỏ nằm không buồn trong chiềunắng
Nắng rơi rơi chiều trắng rơi rơi
Phố lên mây đường vắng ta người
Chân bước bước mây trôi gió cuốn
Cánh hồng hoan cửa trời mở xuống
Bụi hồng hoang châu rạng ngọc lòa
Nhạc hồng hoang phố chiều lai láng
Hồn hồng hoang ngày tháng bay qua
Giấc ngủ ngày cánh hoa nở mộng
Chim chơi vơi tỏa rộng cõi bờ
Núi đã mọc hay là đất động
Biển chìm dâu sóng nhảy lên bờ
Bóng ngửa nghiêng dưới triền đá dựng
Sầu ngửa nghiêng chừ hẳn lan tràn
Người bước đi hay là Thánh Thượng
Giữa cõi đời để nhớ để thương
Thơ với gió bay suông vào cõi
Nắng với chiều xuống tới tàn cây
Hồn hoang người đó ta đây
Cùng nhau nghiêng xuống đất này làm thơ…
TRẦN ĐỚI - 1983
Nhớ Thầy
Kính tặng Thầy Đ.N
Hôm nay rằm tháng bảy
Ngày đại biểu Vu Lan
Chùa xưa con trở lại
Âm thầm mái Tam Quan,
Khói hương trầm ngào ngạt
Quyện quanh Đấng Từ Tôn
Chuông chùa rung nhè nhẹ
Rơi trong nắng hoàng hôn.
Con cái đầu lặng lẽ
Quỳ dưới Đấng cha hiền
Thầm đọc kinh cầu nguyện
Xin Thầy bớt ưu phiền.
Bước nhẹ đến hành lang
Phòng Thầy xưa còn đó
Núi đá đứng cô đơn
Sao bóng Thầy không có?
Nắng chiều tan tác rơi
Chuông chùa ngân bồi hồi
Hồn thơ còn trên vách
Mà Thầy xưa xa rồi !
Trong bóng tối âm u
Mình Thầy ngồi vắng lặng
Thiền quán chốn lao tù
Xác thân Thầy mệt mỏi
Hồn bừng sáng thiên thu.
Đóa sen hồng dù héo
Chốn ao bùn tanh hôi
Hương sen còn phảng phất
Thơm ngát một khung trời.
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Nghe rưng rưng bồi hồi
Xót xa tràn lên mắt
Thương thân phận con người.
Vu Lan – 1985.P.T.T
Hải Triều
Mây lành rủ xuống cả không gian, Rải phấn hương thơm khói ngút ngàn
Vạn pháp huyền vi tình ấp ủ, Từ bi, nguồn suối mát nhân gian
Trích bài: Gió Mới của T.T Đức Nhuận trong Gió Thiêng
Đóa Chân Như đẹp núi rừng
Sắc không điểm hóa trập trùng…hư vô !
Chim bằng buộc cánh bởi thời cơ
Phật tử, chùa xưa luống đợi chờ
Xiềng ngắn khôn ngăn tình đất nước
Xích dài khó cản nghĩa sông hồ
Tiếc vì nghiệp nặng đành vương nợ
Dành chút hương thầm nối nhạc tơ
Sóng động Hải Triều âm Đức Nhuận
Đạo Vàng soi sáng nét làm thơ
Nam đô, đầu xuân quý dậu – 1993
Cửa thiền ẩn nhẫn đóa hoa tâm
Có những thời xui cát bụi lầm
Nghiệp nặng hẳn còn vương sự thế
Thân gầy nên lỡ vướng hương trần
Đắng cay từng trải trò dâu bể
Khôi dại chi màng lẽ giả chân
Lần giở kinh thi trang trắng nợ
Lắng hồn theo nhịp tiếng chuông ngân.
Mạnh xuân bính tý
NGHIÊM PHÁI – THƯ LINH
Vần Thơ Kính Tặng
Thượng Tọa ĐỨC NHUẬN
Người đã về đây với cháu con
Đời tu thanh bạch chẳng vàng son
Mênh mông áo Phật ngời cao rộng
Tấm áo nâu sồng đẹp nước non
Thượng sĩ xuất trần- bậc đại tăng
Tâm Từ bát nát ánh sông Hằng
Thương yêu thắm cả tình cây cỏ
Trí tuệ ngời như ngọn hải đăng
Mong ơn Phật Tổ rủ lòng thương
Cứu vớt sinh linh khổ đoạn trường
Trần thế mịt mù…sương khói tỏa…
Cầu xin chỉ dẫn mở…con đường
Bao năm xa cách ngóng trông chờ
Cảnh ngộ vui…buồn…tỏa ước mơ
Mỗi độ thu sang ,hoa nở đẹp
Dâng Người, con có mấy vần thơ
Thu năm ất hợi- 1995
ĐỒNG TÙNG MẬU
Kính Dâng
Hòa Thượng thượng Đức hạ Nhuận
vị Thầy luôn ưu tư về ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC
Cõi tục tâm hồn vẫn thản nhiên
Ngày tháng chuyên tu dẹp chướng duyên
Mong sao dân tộc trường tồn mãi
Thư thả, thong dong,rỗi tọa thiền
UYÊN HỒ- 01.7.96
Kính Tặng Nhà Thơ
Thượng Tọa Thích Đức Nhuận
Công lao Đức Nhuận lớn quê ta !
Vạn Hạnh truyền tin Phật giáo nhà,
Đinh,Lý,Trần,Lê khai dựng nước,
Rạng danh tiên tổ nghiệp ông cha.
Xuân mậu dần, 1998.PHỔ ĐỨC
Kính tặng cụ - thiền sư Đức Nhuận
Hoa vẫn nở dẫu cây già, bóng xế,
Rừng tuy xa,chim mỏi cánh bay về
Ngọn lửa đền hun hút giữa sơn khê
Người giữ lửa âm thầm và vĩ đại…
Con ngưỡng mộ cả một đời vững chãi,
Trái tim người ôi thắm đẹp tình quê,
Giữa lao lung son sắt vững câu thề
Cho hoa nở mùa xuân trên đất Việt…
PHẠM TRƯỜNG LINH
Kính tặng Hòa Thượng Đức Nhuận
Tác giả Gió thiêng và Sáng một niềm tin
Thuyền từ neo bến khổ
Tu chẳng lìa núi sông
Đạo đời luôn gắn bó
Như vàng trăng giữa dòng
Gió thiêng từng hơi thở
Mở lòng đời bao dung
Mỗi niềm tin sáng tỏ
Xua đêm tối mịt mùng
Chúng sinh chưa bớt khốn cùng
Thiền sư xuống núi…anh hùng về ngôi
THƠ là ĐẠO.Con đường ngộ đạo nhiệm mầu và khó khăn bao nhiêu thì con đường vào thơ cũng không dung dị.Tác giả “ GIÓ THIÊNG” là một cảm tử của hai bản ngã: một tu sĩ phóng xả cố đạt cho được Đạo viên dung, một thi sĩ yêu đời tha thiết:
Tôi đã có những vần thơ tha thiết,
Buồn thương cho cuộc trần thế xoay vần;
Nhưng từ độ thuyền từ nương vững lái,
Nguyền sắt son trong chí hướng viên trần.
Không khí Đạo và Đời quyện vào nhau,bàng bạc trong từng câu từng chữ.Tác giả là tu sĩ nên cũng có khi nhìn đời qua màu nâu:
Hỡi nhân thế đắm chìm trong tội lỗi!
Dắt dìu nhau xa khổ ải triền miên
Trở về đây chung hưởng ánh trăng hiền
Cho hoa đạo ngời lên ngàn sao sáng rỡ
Trong “GIÓ THIÊNG” co đủ màu sắc lung linh của tư tưởng.Những ý tưởng yêu đời chen lẫn những mảnh cảm tường chán chường, những ý thơ thơm màu đạo vị trộn lẫn với những mảnh nhớ thương, vì đó mà ta bắt gặp rất tình cờ những cảm tình thắm đượm:
Dù có gặp bao gian nan thử thách
Mộng thương đời ấp ủ tự nghìn xưa…
Hoa từ bi nở tưng bừng hai vệ đường THƠ, ánh sáng ĐẠO huy hoàng khai hội mùa hy vọng.Tôi trân trọng cầu mong bạn gạt bỏ trần duyên vào trong vường thơ của một ngôi chùa trầm tịch.
PL. 2503 – PL.1959
LỮ HỒ
[1]Nguyện hiểu sâu nguồn giáo lý GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT để tự độ và độ tha…
[2]Thơ Lý Đông A.
[3]LỤC ĐỘ,cũng gọi là 6 pháp Ba la mật (Paramita).Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn nghĩa là :từ bờ bến này (mê) vượt qua bờ bến kia (giác), tức là pháp tu của người hành Bồ tát đạo.Bồ tát (Bodhisattva) : Người giác ngộ
[4]Thày tịch ngày 24 tháng X năm tân mùi (29-XI-1991)
[5]Từ vân biến phú
[6]Đêm 23 tháng 7 năm ất hợi -18.8.1995,cháu ĐMC mất lúc 18giờ 15’ ngày 22 tháng 7 âm lịch (17-8-1995)
[7]Thơ Thanh Tâm Tuyền.
[8]Vua Đinh khởi nghĩa ở Hoa Lư.
[9]Thơ Vũ Hoàng Chương trong bài Thoát Hình:
“Phá cho Thành đấy! Sinh và Diệt !
Dời Quả lên từ mỗi xác Nhân”
Trích Bút Nở Hoa Đàm,Vạn Hạnh 1967
[10]Hai câu thơ trên trích trong bài hát “Hoa Sen”
[11]Vương Duy,trong bài Ngưng Bình Trì, có câu:
“Vạn hộ thương tâm sinh dã yên
Xót cảnh muôn dân khói lửa tràn”
[12]Cosara,tên của máy bay.
[13]LĂNG GIÀ (Lankavatara), nguyên là một hòn núi rất bí mật ở đảo TÍCH LAN (Caylan), chung quanh là bể, nơi ở của quỷ vương Dạ Xoa.Một hôm Phật đến thuyết pháp ở Hải Long Cung, lúc về ghé qua núi đó, quỷ vương xin Phật nói pháp cho nghe. Nhân đấy mà đặt tên là Kinh Lăng Già.
Mục đích của kinh Lăng Già là trực chỉ Nhất Tâm Chân Như, nhằm làm snag tỏ nghĩa Tam giới duy Tâm, vạn Pháp duy Thức.
Kinh Lăng Già lấy Nhất tâm làm tông, lấy Tự Giáo Thánh Trí làm cứu cánh.Phương pháp tu học là thực hành bốn pháp Thiền: Nhân và ngã, tự tướng, cộng tướng, vô thường, khổ, bất tịnh gọi là QUÁN SINH KHÔNG.
-Ngu Phu Sở Hành Thiền, tức là thiền quán của hàng Thanh Văn, Duyên giác và ngoại đạo.
-Quan Sát Nghĩa Thiền, tức phương tiện tu hành của Bồ tát, quán nhân vô ngã (tự hay tha đều là vô tính), pháp vô ngã, gọi là QUÁN PHÁP KHÔNG.
-Phan Duyên Như Thiền, quan sát hai thứ vô ngã tướng, tức nhân và pháp đến chỗ như thật.(Ba thứ thiền trên là hành tướng của tam thừa)
-Như Lai Thiền, vào địa vị của Như Lai được tự giác thánh trí, có đủ 3 đức tròn đầy (pháp thân, bát nhã, giải thoát), giải quyết được hết mọi sự của chúng sinh, cũng gọi là TỐI THƯỢNG THỪA THIỀN.
[14]Tiếp thoe là 4 bài thơ trích ra từ Khoá Hư Lục của vua Trần Thái Tông viết về 4 cảnh: Sinh ,lão Bệnh,Tử, để tự cảnh giác và khuyên mọi người cùng thức tỉnh…
[15]SẮC: các hiện tượng vật chất
DANH: các hiện tượng tinh thần
[16]TRỜI:không có nghĩa chỉ định mệnh hay thiên mệnh mà chỉ có ý nói rằng:con người sinh ra đời, khi thân mệnh đã suy tàn, con người sẽ chết, không nhất định là già hay trẻ…
[17]có chỗ viết là NGHI
[18]Câu chuyện Nguyên Phong nhắc chúng ta nhớ lại thời đại TRẦN THÁI TÔNG vào năm 1258 đã chiến thắng quân Mông Cổ khét tiếng là đạo quân hung bạo nhất thời bấy giờ. Đoàn kỵ binh của chúng đã từng giày xéo lên khắp lục địa Âu Á,thế mà khi qua đánh nước Đại Việt,chúng đã bị thất bại.Trong tiết mùa xuân,vua Nhân Tông đến viếng lăng ông nội ở ChiêuLăng,lòng hoài niệm đến những chiến sĩ vô danh đã hy sinh cho Tổ Quốc,trong số những người lính còn sống đến nay tuy đầu đã bạc phơ nhưng nhìn họ như tỏa ra hòa khí của những người chiến sĩ đã dự vào cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổvẫn vui vẻ nói cười bên nhau “kể chuyện Nguyên Phong”, đã gây xúc động sâu xa trong tâm tư mọi người, có lẽ do đấy mà vua cảm tác nên bài thơ “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng” này.
---o0o---
Vi tính: Kim Thư
Trình bày: Vĩnh Thoại
Cập nhật: 01-11-2007