Và ba bài dưới đây xin được đảnh lễ Thầy Tuệ Sỹ tôn kính, tóc trắng muôn đời trên mây núi Trường Sơn.
Ngọc Hân
Vô Ngôn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Ðỉnh đá nầy và hạt muối đó chưa tan* Vì đại dương nghe thiếu một cung đàn Ðêm nguyệt tận mù sa phơi tóc trắng Người đứng đó mười tám ghềnh đổ xuống Nhớ lũng chiều hồn gió lộng Trường Sơn Ðường trầm luân in mộng triệu sông hồ* Giờ khép lại trăng sao và bóng tối Rừng thấp xuống sầu lên thành quách cổ Trời lao đao niềm muối mặn giữa mù khơi* Từ dạo xa quê tiếng hát gửi lại bên trời Hạt muối đó chưa tan trường mộng phiêu bồng biển im muôn thuở.
* Thơ Tuệ Sỹ
Trầm Tích
Ta thuyền nhỏ đi vào con sóng dữ Quay quắt giữa cường triều dõng mãnh tự ghềnh cao Có phải năm xưa nghe tiếng gọi sông hồ Quên con nước, một chiều thấp cao sóng áo Ðêm từng đêm âm ba nào vẫn đầm đầm vỗ nhịp Một điệu huyền vang vọng lời kinh xưa Cất tiếng ca, sao lạc điệu sông hồ Sương nhớ khói, thuyền nhớ trăng nước nguồn thuở ấy Xiêm áo mùa Thu mênh mang màu phổ độ Ta cúi đầu bên bóng cả ghềnh non xưa Biển chiều nay xin mượn triều hoa sóng bạc đầu Vùi thuyền nhỏ mai nầy dấu sương phai trầm tích cũ.
Dạ khúc
Mưa đã rơi và một loài chim đã bay qua biển chiều đìu hiu tiếng gió Sương đã phai và một ngày nắng đã tan trên tháng ngày dìu dặt nét thu phong
Ta hỏi bóng bao giờ chim vượt ngàn trở lại Bóng mỉm cười mùa hạ huyền đang chênh chếch ngoài kia Nầy bóng ơi sao những hoàng hôn vắng mặt trời ? - Hãy nghe tiếng sóng vỗ mạn thuyền trơ vơ ghềnh đá
Trăng đã treo từ những ngày buồn rơi trên đời sống Mộng đã gầy từ những giấc ban đầu đã xa Hình hài nào vô vọng lãng đãng bên đời ta Chim vỗ cánh tiếng bi ai lạc loài trời phong lữ
Ðêm đã sâu và một vầng trăng khuất đã lâu cho ta cứ hoài ngày thiên thu cũ Ðàn đã chơi vơi và bài dạ khúc đã chùng rơi cho hạt muối ngậm ngùi đau nhức trùng khơi.
Sống đời bi trí hộ muôn sinh
Thúc liễm thân tâm trải nghĩa tình
Dưỡng khí tồn thần tăng tuổi thọ
Tầm hoa thái nhụy phí xuân xanh
Lang thang phóng đãng nhà hư nát
Tích thiện tu nhân vạn sự thành
Kim cổ luôn chê hàng tục tử
Thanh tao vạn thuở mãi nêu danh
Con Kính tặng Cụ Bà Tâm Thái (Mẫu thân của TT Tâm Phương, TT Nguyên Tạng, NS Tâm Vân)
bài thơ này, vì Cụ Bà đã cho chúng con thêm niềm tin và hạnh tinh tấn, mỗi ngày Cụ Bà miên mật hai thời niệm Phật sáng- tối,
ngoài thời gian này cụ bà lúc nào cũng giữ mình trong đời sống chánh niệm, tay không rời chuỗi hạt và nghe pháp thoại.
Đó là hạnh phúc giản đơn mà ít người biết hưởng ? Kính chúc Cụ Bà Tâm Thái sống lâu trăm tuổi để tiếp tục lan toả hạnh tinh tấn đến cho mọi người. HH
Bạn đã từng yêu thơ, đã từng đọc thơ, đã từng làm thơ, đã từng say đắm với thơ... tôi tin rằng bạn sẽ đứng tim khi đọc tới những dòng:
cổng chùa khuya chưa khép
bầy sao rủ nhau về
soi trong hồ nước biếc
tiếng hạc buồn lê thê
Tôi đã đứng tim như thế, đã kinh ngạc đọc đi đọc lại các dòng thơ trên. Tôi đã nghiêng đầu, áp tai sát trang giấy để nghe xem tiếng hạc buồn lê thê thế nào. Tôi đã nghiêng trang giấy qua lại để xem có ngôi sao nào rơi ra từ giữa những dòng thơ. Khi đó, tôi đã thắc mắc vì sao có hình ảnh cổng chùa chưa khép trong thơ, có phải vì nhà sư thi sĩ đã đi lạc nơi phố chợ và quên mất lối về.
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
Tạ thâm ân những lần bên bờ vực thẳm
Mầu nhiệm, gần gũi thay Đức Quán Thế Âm.
Cứu khổ muôn loài vô biên Ứng hoá thân
Người thọ nhận cảm ứng chỉ mình mình hiểu,
Vì có nói chẳng ai tin cũng không thể hiểu !
Vào chùa
học hạnh khiêm cung
Ra sân
gặp mộ anh hùng
Nam mô
Oai linh toả sáng đền thờ
Hoa thơm chánh điện
Dòng thơ tươm vần
Tháp vườn sau vắng chuông ngân
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.