Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con trâu báo oán

08/08/201104:55(Xem: 7394)
Con trâu báo oán


con trau

CON TRÂU BÁO OÁN

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Triều vua Ba Tư Nặc
Có vị quan đại thần,
Bảy con trai, trong đó
Sáu người đã thành thân.

Ông giàu có, hiền đức,
Tên là Lê Kỳ Di.
Ông nghĩ, còn cậu út
Đã đến tuổi, đến thì.

Phải hỏi vợ cho nó.
Ông muốn tìm con dâu,
Phải thông minh, hiền thảo,
Xinh đẹp, con nhà giàu.

Kén chọn mãi không được,
Trong nước lẫn nước ngoài,
Ông bèn nhờ người bạn
Tìm vợ cho con trai.

Ông này rất hăng hái,
Liền khăn gói lên đường,
Sang tận nước Thị Lợi,
Cách những mấy ngày đường.

Ở đấy ông đã gặp
Năm trăm nữ đồng trinh
Đang hái hoa bên suối,
Mà cô nào cũng xinh.

Khi họ lội qua suối,
Ông nhận thấy một người
Không cởi dép, cứ lội,
Dẫu các bạn chê cười.

Hơn thế, cô thà ướt
Chứ không chịu xắn quần.
Một cô gái bản lĩnh,
Lại xinh đẹp tuyệt trần.

Đến một khu rừng nọ,
Các cô trèo lên cây,
Đua nhau nghịch, hái quả,
Trong khi cô gái này

Đứng yên nhìn các bạn
Hoặc lặng lẽ hái hoa.
Ông lấy thế làm lạ,
Theo cô về tận nhà.

Đến nơi, ông mới biết
Cô gái này là con
Một gia đình giàu có,
Đẳng cấp Bà La Môn.

Ông bố cô có biết 
Lê Kỳ Di đại thần
Nên vui vẻ đồng ý
Để hai nhà kết thân.

Thế là liền sau đó
Lê Kỳ Di dẫn đầu
Một đoàn xe đông đảo
Sang Thị Lợi đón dâu.

Khi quay về, họ gặp
Một quán có nhiều cây.
Vì mệt, ai cũng muốn
Vào nghỉ quán trọ này.

Thế mà cô dâu mới,
Tên là Tỳ Xá Ly,
Bảo bố chồng đừng xuống,
Tiếp tục đánh xe đi.

Một lúc sau, quả thật,
Có đàn voi phát điên
Kéo đến, xô đổ quán,
Dẫm chết mấy người liền.

Đoàn xe lại đi tiếp.
Đến một khe nước nông,
Mọi người muốn dừng nghỉ,
Nhưng cô dâu bảo không.

Chỉ mấy phút sau đó
Nước đâu từ trên cao
Chảy xuống con suối ấy,
Cuộn sóng, réo ào ào.

Ông bố chồng ngồi cạnh,
Chép miệng và gật đầu:
“Hai lần mình thoát chết
Là nhờ có con dâu.”

Ông rất vui, vì vậy,
Khi vừa về đến nhà,
Giao cho cô quản lý
Ruộng đất và tư gia.

Mọi chuyện rất tốt đẹp.
Rồi một thời gian sau
Cô sinh một bọc trứng,
Ba hai quả đều nhau.

Ba hai quả trứng ấy,
Ba hai người con trai.
Lớn lên đều tuấn tú,
Thông minh và có tài.

Duy có người con út
Tính ngỗ nghịch khác người.
Một hôm, cùng bè bạn,
Cậu cưỡi voi đi chơi.

Khi đến chiếc cầu nọ,
Cậu thấy bên kia cầu
Là xe con Tể tướng.
Không ai chịu nhường nhau.

Ai cũng tranh đi trước,
Cậy nhà mình quan to.
Rồi lời qua, tiếng lại,
Rồi xẩy ra đôi co.

Cuối cùng cậu con út
Phớt lờ, coi như không,
Thúc voi, hất đối thủ,
Người và xe xuống sông.

Anh kia về mách bố.
Quan tể tướng thương con,
Thề rửa mối nhục ấy
Quyết một mất một còn.

Thời ấy có luật cấm
Mang vũ khí vào cung.
Trái luật sẽ bị chém.
Luật nghiêm khắc vô cùng.

Tể tướng bày kế độc,
Tặng con Tỳ Xá Ly
Ba hai chiếc roi ngựa
To, bằng da trơn lì.

Ông giấu con dao nhỏ
Trong mỗi chiếc roi này.
Các chàng trai không biết,
Mang vào cung hàng ngày.

Một hôm, quan tể tướng
Ghé tai vua thì thầm.
Vua cho khám roi ngựa
Tìm thấy nhiều dao găm.

Vua liền chiểu theo luật,
Mà luật có từ lâu.
Ba hai chàng trai trẻ
Lập tức bị chém đầu.

Rồi đầu họ bị chém
Cho vào hòm, tức thì
Binh lính mang hòm ấy
Đến nhà Tỳ Xá Ly.

Ở nhà bà lúc ấy
Đang có lễ thọ trai,
Có mặt cả Đức Phật
Và đệ tử của Ngài.

Tưởng vua gửi quà tặng,
Bà định mở ra ngay,
Đức Phật can, đừng mở,
Chờ ăn xong hẵng hay.

Thọ trai xong, Đức Phật
Và đệ tử ra về,
Bà mới cho người mở
Chiếc hòm lớn nặng nề.

Bà suýt ngất khi thấy
Đầu các con trai mình.
May trước đó được Phật
Cứu khỏi vòng vô minh,

Nên bà chỉ than khóc,
Chấp nhận đời phù du,
Có sống thì có chết,
Có oán thì có thù.

Nhưng gia đình đằng vợ
Các con trai của bà
Nghĩ vua giết oan trái
Các chàng rể, thế là

Họ dấy binh chống lại.
Vua phải trốn đi xa,
Tới vườn Cấp Cô Độc
Nương nhờ Phật Tích Ca.

Phiến quân kéo đến đấy,
Nhờ Phật mới chịu yên.
Tôi xin Ngài nói rõ
Mọi người biết nhân duyên.

*
Phật dạy, nhiều kiếp trước,
Có ba mươi hai người,
Đẹp trai và khỏe mạnh,
Một hôm cùng đi chơi.

Khi đến một vùng nọ,
Họ trộm được con trâu,
Quyết định đem mổ thịt,
Ăn thỏa thích với nhau.

Con trâu quì xuống lạy,
Xin tha chết, nếu không
Sau sẽ bị báo oán,
Những chuyện rất đau lòng.

Đức Phật dừng lại nói,
Khi kể xong chuyện này:
“Con trâu của kiếp trước
Là đức vua ngày nay.

Ba mươi hai người nọ
Nỡ lòng giết con trâu,
Nay là đám trai trẻ
Vừa mới bị chặt đầu.”

Mấy ông đằng nhà vợ,
Nghe hiểu chuyện oán ân,
Xin lỗi vua, tạ Phật,
Rồi lặng lẽ rút quân.

Mọi người nghe, chợt hiểu,
Cả tôi, A Nan Đà,
Đảnh lễ trước Đức Phật
Rồi lặng lẽ lui ra.

Thái Bá Tân

31
CON TRÂU BÁO OÁN

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Triều vua Ba Tư Nặc
Có vị quan đại thần,
Bảy con trai, trong đó
Sáu người đã thành thân.

Ông giàu có, hiền đức,
Tên là Lê Kỳ Di.
Ông nghĩ, còn cậu út
Đã đến tuổi, đến thì.

Phải hỏi vợ cho nó.
Ông muốn tìm con dâu,
Phải thông minh, hiền thảo,
Xinh đẹp, con nhà giàu.

Kén chọn mãi không được,
Trong nước lẫn nước ngoài,
Ông bèn nhờ người bạn
Tìm vợ cho con trai.

Ông này rất hăng hái,
Liền khăn gói lên đường,
Sang tận nước Thị Lợi,
Cách những mấy ngày đường.

Ở đấy ông đã gặp
Năm trăm nữ đồng trinh
Đang hái hoa bên suối,
Mà cô nào cũng xinh.

Khi họ lội qua suối,
Ông nhận thấy một người
Không cởi dép, cứ lội,
Dẫu các bạn chê cười.

Hơn thế, cô thà ướt
Chứ không chịu xắn quần.
Một cô gái bản lĩnh,
Lại xinh đẹp tuyệt trần.

Đến một khu rừng nọ,
Các cô trèo lên cây,
Đua nhau nghịch, hái quả,
Trong khi cô gái này

Đứng yên nhìn các bạn
Hoặc lặng lẽ hái hoa.
Ông lấy thế làm lạ,
Theo cô về tận nhà.

Đến nơi, ông mới biết
Cô gái này là con
Một gia đình giàu có,
Đẳng cấp Bà La Môn.

Ông bố cô có biết 
Lê Kỳ Di đại thần
Nên vui vẻ đồng ý
Để hai nhà kết thân.

Thế là liền sau đó
Lê Kỳ Di dẫn đầu
Một đoàn xe đông đảo
Sang Thị Lợi đón dâu.

Khi quay về, họ gặp
Một quán có nhiều cây.
Vì mệt, ai cũng muốn
Vào nghỉ quán trọ này.

Thế mà cô dâu mới,
Tên là Tỳ Xá Ly,
Bảo bố chồng đừng xuống,
Tiếp tục đánh xe đi.

Một lúc sau, quả thật,
Có đàn voi phát điên
Kéo đến, xô đổ quán,
Dẫm chết mấy người liền.

Đoàn xe lại đi tiếp.
Đến một khe nước nông,
Mọi người muốn dừng nghỉ,
Nhưng cô dâu bảo không.

Chỉ mấy phút sau đó
Nước đâu từ trên cao
Chảy xuống con suối ấy,
Cuộn sóng, réo ào ào.

Ông bố chồng ngồi cạnh,
Chép miệng và gật đầu:
“Hai lần mình thoát chết
Là nhờ có con dâu.”

Ông rất vui, vì vậy,
Khi vừa về đến nhà,
Giao cho cô quản lý
Ruộng đất và tư gia.

Mọi chuyện rất tốt đẹp.
Rồi một thời gian sau
Cô sinh một bọc trứng,
Ba hai quả đều nhau.

Ba hai quả trứng ấy,
Ba hai người con trai.
Lớn lên đều tuấn tú,
Thông minh và có tài.

Duy có người con út
Tính ngỗ nghịch khác người.
Một hôm, cùng bè bạn,
Cậu cưỡi voi đi chơi.

Khi đến chiếc cầu nọ,
Cậu thấy bên kia cầu
Là xe con Tể tướng.
Không ai chịu nhường nhau.

Ai cũng tranh đi trước,
Cậy nhà mình quan to.
Rồi lời qua, tiếng lại,
Rồi xẩy ra đôi co.

Cuối cùng cậu con út
Phớt lờ, coi như không,
Thúc voi, hất đối thủ,
Người và xe xuống sông.

Anh kia về mách bố.
Quan tể tướng thương con,
Thề rửa mối nhục ấy
Quyết một mất một còn.

Thời ấy có luật cấm
Mang vũ khí vào cung.
Trái luật sẽ bị chém.
Luật nghiêm khắc vô cùng.

Tể tướng bày kế độc,
Tặng con Tỳ Xá Ly
Ba hai chiếc roi ngựa
To, bằng da trơn lì.

Ông giấu con dao nhỏ
Trong mỗi chiếc roi này.
Các chàng trai không biết,
Mang vào cung hàng ngày.

Một hôm, quan tể tướng
Ghé tai vua thì thầm.
Vua cho khám roi ngựa
Tìm thấy nhiều dao găm.

Vua liền chiểu theo luật,
Mà luật có từ lâu.
Ba hai chàng trai trẻ
Lập tức bị chém đầu.

Rồi đầu họ bị chém
Cho vào hòm, tức thì
Binh lính mang hòm ấy
Đến nhà Tỳ Xá Ly.

Ở nhà bà lúc ấy
Đang có lễ thọ trai,
Có mặt cả Đức Phật
Và đệ tử của Ngài.

Tưởng vua gửi quà tặng,
Bà định mở ra ngay,
Đức Phật can, đừng mở,
Chờ ăn xong hẵng hay.

Thọ trai xong, Đức Phật
Và đệ tử ra về,
Bà mới cho người mở
Chiếc hòm lớn nặng nề.

Bà suýt ngất khi thấy
Đầu các con trai mình.
May trước đó được Phật
Cứu khỏi vòng vô minh,

Nên bà chỉ than khóc,
Chấp nhận đời phù du,
Có sống thì có chết,
Có oán thì có thù.

Nhưng gia đình đằng vợ
Các con trai của bà
Nghĩ vua giết oan trái
Các chàng rể, thế là

Họ dấy binh chống lại.
Vua phải trốn đi xa,
Tới vườn Cấp Cô Độc
Nương nhờ Phật Tích Ca.

Phiến quân kéo đến đấy,
Nhờ Phật mới chịu yên.
Tôi xin Ngài nói rõ
Mọi người biết nhân duyên.

*
Phật dạy, nhiều kiếp trước,
Có ba mươi hai người,
Đẹp trai và khỏe mạnh,
Một hôm cùng đi chơi.

Khi đến một vùng nọ,
Họ trộm được con trâu,
Quyết định đem mổ thịt,
Ăn thỏa thích với nhau.

Con trâu quì xuống lạy,
Xin tha chết, nếu không
Sau sẽ bị báo oán,
Những chuyện rất đau lòng.

Đức Phật dừng lại nói,
Khi kể xong chuyện này:
“Con trâu của kiếp trước
Là đức vua ngày nay.

Ba mươi hai người nọ
Nỡ lòng giết con trâu,
Nay là đám trai trẻ
Vừa mới bị chặt đầu.”

Mấy ông đằng nhà vợ,
Nghe hiểu chuyện oán ân,
Xin lỗi vua, tạ Phật,
Rồi lặng lẽ rút quân.

Mọi người nghe, chợt hiểu,
Cả tôi, A Nan Đà,
Đảnh lễ trước Đức Phật
Rồi lặng lẽ lui ra.

Thái Bá Tân


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/09/2010(Xem: 6643)
Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
08/09/2010(Xem: 7131)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
06/09/2010(Xem: 7880)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 8668)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 7611)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 7943)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 9673)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 7805)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 10138)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
06/09/2010(Xem: 8133)
Nhịp Bước Đăng Trình, TNT Mặc Giang
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567