Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con trâu báo oán

08/08/201104:55(Xem: 7380)
Con trâu báo oán


con trau

CON TRÂU BÁO OÁN

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Triều vua Ba Tư Nặc
Có vị quan đại thần,
Bảy con trai, trong đó
Sáu người đã thành thân.

Ông giàu có, hiền đức,
Tên là Lê Kỳ Di.
Ông nghĩ, còn cậu út
Đã đến tuổi, đến thì.

Phải hỏi vợ cho nó.
Ông muốn tìm con dâu,
Phải thông minh, hiền thảo,
Xinh đẹp, con nhà giàu.

Kén chọn mãi không được,
Trong nước lẫn nước ngoài,
Ông bèn nhờ người bạn
Tìm vợ cho con trai.

Ông này rất hăng hái,
Liền khăn gói lên đường,
Sang tận nước Thị Lợi,
Cách những mấy ngày đường.

Ở đấy ông đã gặp
Năm trăm nữ đồng trinh
Đang hái hoa bên suối,
Mà cô nào cũng xinh.

Khi họ lội qua suối,
Ông nhận thấy một người
Không cởi dép, cứ lội,
Dẫu các bạn chê cười.

Hơn thế, cô thà ướt
Chứ không chịu xắn quần.
Một cô gái bản lĩnh,
Lại xinh đẹp tuyệt trần.

Đến một khu rừng nọ,
Các cô trèo lên cây,
Đua nhau nghịch, hái quả,
Trong khi cô gái này

Đứng yên nhìn các bạn
Hoặc lặng lẽ hái hoa.
Ông lấy thế làm lạ,
Theo cô về tận nhà.

Đến nơi, ông mới biết
Cô gái này là con
Một gia đình giàu có,
Đẳng cấp Bà La Môn.

Ông bố cô có biết 
Lê Kỳ Di đại thần
Nên vui vẻ đồng ý
Để hai nhà kết thân.

Thế là liền sau đó
Lê Kỳ Di dẫn đầu
Một đoàn xe đông đảo
Sang Thị Lợi đón dâu.

Khi quay về, họ gặp
Một quán có nhiều cây.
Vì mệt, ai cũng muốn
Vào nghỉ quán trọ này.

Thế mà cô dâu mới,
Tên là Tỳ Xá Ly,
Bảo bố chồng đừng xuống,
Tiếp tục đánh xe đi.

Một lúc sau, quả thật,
Có đàn voi phát điên
Kéo đến, xô đổ quán,
Dẫm chết mấy người liền.

Đoàn xe lại đi tiếp.
Đến một khe nước nông,
Mọi người muốn dừng nghỉ,
Nhưng cô dâu bảo không.

Chỉ mấy phút sau đó
Nước đâu từ trên cao
Chảy xuống con suối ấy,
Cuộn sóng, réo ào ào.

Ông bố chồng ngồi cạnh,
Chép miệng và gật đầu:
“Hai lần mình thoát chết
Là nhờ có con dâu.”

Ông rất vui, vì vậy,
Khi vừa về đến nhà,
Giao cho cô quản lý
Ruộng đất và tư gia.

Mọi chuyện rất tốt đẹp.
Rồi một thời gian sau
Cô sinh một bọc trứng,
Ba hai quả đều nhau.

Ba hai quả trứng ấy,
Ba hai người con trai.
Lớn lên đều tuấn tú,
Thông minh và có tài.

Duy có người con út
Tính ngỗ nghịch khác người.
Một hôm, cùng bè bạn,
Cậu cưỡi voi đi chơi.

Khi đến chiếc cầu nọ,
Cậu thấy bên kia cầu
Là xe con Tể tướng.
Không ai chịu nhường nhau.

Ai cũng tranh đi trước,
Cậy nhà mình quan to.
Rồi lời qua, tiếng lại,
Rồi xẩy ra đôi co.

Cuối cùng cậu con út
Phớt lờ, coi như không,
Thúc voi, hất đối thủ,
Người và xe xuống sông.

Anh kia về mách bố.
Quan tể tướng thương con,
Thề rửa mối nhục ấy
Quyết một mất một còn.

Thời ấy có luật cấm
Mang vũ khí vào cung.
Trái luật sẽ bị chém.
Luật nghiêm khắc vô cùng.

Tể tướng bày kế độc,
Tặng con Tỳ Xá Ly
Ba hai chiếc roi ngựa
To, bằng da trơn lì.

Ông giấu con dao nhỏ
Trong mỗi chiếc roi này.
Các chàng trai không biết,
Mang vào cung hàng ngày.

Một hôm, quan tể tướng
Ghé tai vua thì thầm.
Vua cho khám roi ngựa
Tìm thấy nhiều dao găm.

Vua liền chiểu theo luật,
Mà luật có từ lâu.
Ba hai chàng trai trẻ
Lập tức bị chém đầu.

Rồi đầu họ bị chém
Cho vào hòm, tức thì
Binh lính mang hòm ấy
Đến nhà Tỳ Xá Ly.

Ở nhà bà lúc ấy
Đang có lễ thọ trai,
Có mặt cả Đức Phật
Và đệ tử của Ngài.

Tưởng vua gửi quà tặng,
Bà định mở ra ngay,
Đức Phật can, đừng mở,
Chờ ăn xong hẵng hay.

Thọ trai xong, Đức Phật
Và đệ tử ra về,
Bà mới cho người mở
Chiếc hòm lớn nặng nề.

Bà suýt ngất khi thấy
Đầu các con trai mình.
May trước đó được Phật
Cứu khỏi vòng vô minh,

Nên bà chỉ than khóc,
Chấp nhận đời phù du,
Có sống thì có chết,
Có oán thì có thù.

Nhưng gia đình đằng vợ
Các con trai của bà
Nghĩ vua giết oan trái
Các chàng rể, thế là

Họ dấy binh chống lại.
Vua phải trốn đi xa,
Tới vườn Cấp Cô Độc
Nương nhờ Phật Tích Ca.

Phiến quân kéo đến đấy,
Nhờ Phật mới chịu yên.
Tôi xin Ngài nói rõ
Mọi người biết nhân duyên.

*
Phật dạy, nhiều kiếp trước,
Có ba mươi hai người,
Đẹp trai và khỏe mạnh,
Một hôm cùng đi chơi.

Khi đến một vùng nọ,
Họ trộm được con trâu,
Quyết định đem mổ thịt,
Ăn thỏa thích với nhau.

Con trâu quì xuống lạy,
Xin tha chết, nếu không
Sau sẽ bị báo oán,
Những chuyện rất đau lòng.

Đức Phật dừng lại nói,
Khi kể xong chuyện này:
“Con trâu của kiếp trước
Là đức vua ngày nay.

Ba mươi hai người nọ
Nỡ lòng giết con trâu,
Nay là đám trai trẻ
Vừa mới bị chặt đầu.”

Mấy ông đằng nhà vợ,
Nghe hiểu chuyện oán ân,
Xin lỗi vua, tạ Phật,
Rồi lặng lẽ rút quân.

Mọi người nghe, chợt hiểu,
Cả tôi, A Nan Đà,
Đảnh lễ trước Đức Phật
Rồi lặng lẽ lui ra.

Thái Bá Tân

31
CON TRÂU BÁO OÁN

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Triều vua Ba Tư Nặc
Có vị quan đại thần,
Bảy con trai, trong đó
Sáu người đã thành thân.

Ông giàu có, hiền đức,
Tên là Lê Kỳ Di.
Ông nghĩ, còn cậu út
Đã đến tuổi, đến thì.

Phải hỏi vợ cho nó.
Ông muốn tìm con dâu,
Phải thông minh, hiền thảo,
Xinh đẹp, con nhà giàu.

Kén chọn mãi không được,
Trong nước lẫn nước ngoài,
Ông bèn nhờ người bạn
Tìm vợ cho con trai.

Ông này rất hăng hái,
Liền khăn gói lên đường,
Sang tận nước Thị Lợi,
Cách những mấy ngày đường.

Ở đấy ông đã gặp
Năm trăm nữ đồng trinh
Đang hái hoa bên suối,
Mà cô nào cũng xinh.

Khi họ lội qua suối,
Ông nhận thấy một người
Không cởi dép, cứ lội,
Dẫu các bạn chê cười.

Hơn thế, cô thà ướt
Chứ không chịu xắn quần.
Một cô gái bản lĩnh,
Lại xinh đẹp tuyệt trần.

Đến một khu rừng nọ,
Các cô trèo lên cây,
Đua nhau nghịch, hái quả,
Trong khi cô gái này

Đứng yên nhìn các bạn
Hoặc lặng lẽ hái hoa.
Ông lấy thế làm lạ,
Theo cô về tận nhà.

Đến nơi, ông mới biết
Cô gái này là con
Một gia đình giàu có,
Đẳng cấp Bà La Môn.

Ông bố cô có biết 
Lê Kỳ Di đại thần
Nên vui vẻ đồng ý
Để hai nhà kết thân.

Thế là liền sau đó
Lê Kỳ Di dẫn đầu
Một đoàn xe đông đảo
Sang Thị Lợi đón dâu.

Khi quay về, họ gặp
Một quán có nhiều cây.
Vì mệt, ai cũng muốn
Vào nghỉ quán trọ này.

Thế mà cô dâu mới,
Tên là Tỳ Xá Ly,
Bảo bố chồng đừng xuống,
Tiếp tục đánh xe đi.

Một lúc sau, quả thật,
Có đàn voi phát điên
Kéo đến, xô đổ quán,
Dẫm chết mấy người liền.

Đoàn xe lại đi tiếp.
Đến một khe nước nông,
Mọi người muốn dừng nghỉ,
Nhưng cô dâu bảo không.

Chỉ mấy phút sau đó
Nước đâu từ trên cao
Chảy xuống con suối ấy,
Cuộn sóng, réo ào ào.

Ông bố chồng ngồi cạnh,
Chép miệng và gật đầu:
“Hai lần mình thoát chết
Là nhờ có con dâu.”

Ông rất vui, vì vậy,
Khi vừa về đến nhà,
Giao cho cô quản lý
Ruộng đất và tư gia.

Mọi chuyện rất tốt đẹp.
Rồi một thời gian sau
Cô sinh một bọc trứng,
Ba hai quả đều nhau.

Ba hai quả trứng ấy,
Ba hai người con trai.
Lớn lên đều tuấn tú,
Thông minh và có tài.

Duy có người con út
Tính ngỗ nghịch khác người.
Một hôm, cùng bè bạn,
Cậu cưỡi voi đi chơi.

Khi đến chiếc cầu nọ,
Cậu thấy bên kia cầu
Là xe con Tể tướng.
Không ai chịu nhường nhau.

Ai cũng tranh đi trước,
Cậy nhà mình quan to.
Rồi lời qua, tiếng lại,
Rồi xẩy ra đôi co.

Cuối cùng cậu con út
Phớt lờ, coi như không,
Thúc voi, hất đối thủ,
Người và xe xuống sông.

Anh kia về mách bố.
Quan tể tướng thương con,
Thề rửa mối nhục ấy
Quyết một mất một còn.

Thời ấy có luật cấm
Mang vũ khí vào cung.
Trái luật sẽ bị chém.
Luật nghiêm khắc vô cùng.

Tể tướng bày kế độc,
Tặng con Tỳ Xá Ly
Ba hai chiếc roi ngựa
To, bằng da trơn lì.

Ông giấu con dao nhỏ
Trong mỗi chiếc roi này.
Các chàng trai không biết,
Mang vào cung hàng ngày.

Một hôm, quan tể tướng
Ghé tai vua thì thầm.
Vua cho khám roi ngựa
Tìm thấy nhiều dao găm.

Vua liền chiểu theo luật,
Mà luật có từ lâu.
Ba hai chàng trai trẻ
Lập tức bị chém đầu.

Rồi đầu họ bị chém
Cho vào hòm, tức thì
Binh lính mang hòm ấy
Đến nhà Tỳ Xá Ly.

Ở nhà bà lúc ấy
Đang có lễ thọ trai,
Có mặt cả Đức Phật
Và đệ tử của Ngài.

Tưởng vua gửi quà tặng,
Bà định mở ra ngay,
Đức Phật can, đừng mở,
Chờ ăn xong hẵng hay.

Thọ trai xong, Đức Phật
Và đệ tử ra về,
Bà mới cho người mở
Chiếc hòm lớn nặng nề.

Bà suýt ngất khi thấy
Đầu các con trai mình.
May trước đó được Phật
Cứu khỏi vòng vô minh,

Nên bà chỉ than khóc,
Chấp nhận đời phù du,
Có sống thì có chết,
Có oán thì có thù.

Nhưng gia đình đằng vợ
Các con trai của bà
Nghĩ vua giết oan trái
Các chàng rể, thế là

Họ dấy binh chống lại.
Vua phải trốn đi xa,
Tới vườn Cấp Cô Độc
Nương nhờ Phật Tích Ca.

Phiến quân kéo đến đấy,
Nhờ Phật mới chịu yên.
Tôi xin Ngài nói rõ
Mọi người biết nhân duyên.

*
Phật dạy, nhiều kiếp trước,
Có ba mươi hai người,
Đẹp trai và khỏe mạnh,
Một hôm cùng đi chơi.

Khi đến một vùng nọ,
Họ trộm được con trâu,
Quyết định đem mổ thịt,
Ăn thỏa thích với nhau.

Con trâu quì xuống lạy,
Xin tha chết, nếu không
Sau sẽ bị báo oán,
Những chuyện rất đau lòng.

Đức Phật dừng lại nói,
Khi kể xong chuyện này:
“Con trâu của kiếp trước
Là đức vua ngày nay.

Ba mươi hai người nọ
Nỡ lòng giết con trâu,
Nay là đám trai trẻ
Vừa mới bị chặt đầu.”

Mấy ông đằng nhà vợ,
Nghe hiểu chuyện oán ân,
Xin lỗi vua, tạ Phật,
Rồi lặng lẽ rút quân.

Mọi người nghe, chợt hiểu,
Cả tôi, A Nan Đà,
Đảnh lễ trước Đức Phật
Rồi lặng lẽ lui ra.

Thái Bá Tân


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/06/2010(Xem: 25386)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8048)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6664)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10208)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7734)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12231)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7527)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31239)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567