Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn Triều Ðông hải vẫn thì thầm cát trắng Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị Yêu rừng sâu nên khoé mắt rưng rưng Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu Bản tình ca vô tận của Ðông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ Giữa con đường còn rợp khói tang thương Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương
N.Tr. 4 – 1975
Khung Trời Cũ
Ðôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Ðỉnh đá nầy và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rủ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Tìm Em Trong Giấc Chiêm Bao
Ta tìm em trong giấc chiêm bao Nỗi buồn thu nhỏ hàng cây cao Cháy đỏ mùa đông ta vẫn lạnh Bóng tối vương đầy đôi mắt sâu Yêu em dâng cả ráng chiều thu Em đốt tình yêu bằng hận thù Cháy đỏ mùa đông ta vẫn lạnh Giấc mơ không kín dãy song tù.
Trại giam X.4 Sàigòn 79
Ba bài thơ trên đây trích ra từ tập thơ “Tuệ Sỹ: Giấc mơ Trường Sơn” vừa ấn hành ở Hoa kỳ.
Có người khách hỏi lão hòa thượng:
Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ?
Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói!
Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay,
vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không?
Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không?
Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ!
Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân
hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi.
Người khách: A, Con hiểu rồi!
Lại thêm thu nửa trở về,
Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn.
Nhớ về quê mẹ cội nguồn,
Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay,
Nhón chân dạo bước vườn ngoài,
Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm.
Sắp từng chiếc lá gọi tên,
Thì thầm tên lá theo miền thế gian.
Cảnh thu dễ gợi u buồn,
Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên.
Nhắn lòng ta ráng tịnh yên,
Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy
Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con,
Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh
Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh.
Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932.
Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
Dáng ngồi như núi như non
Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm
Trên cao sừng sững bóng hiền
Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình
Giữa đời lặng lặng thinh thinh
Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu
Tử tôn gánh đội ân sâu
Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya
Bước chân hoằng độ đi, về
Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi
Như non như núi không dời
Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.