Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

CHƯƠNG V

16/04/201314:06(Xem: 8835)
CHƯƠNG V

KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC

TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM

(Quyển II)

CHƯƠNG V

PHƯƠNG PHÁP TU TẬP CỦA DUY THỨC

Phương pháp tu tập của Duy Thức không ngoài phương pháp thiền quán thường gọi là Duy Thức Quán, một trong những đường hướng tu tập quán chiếu của Thiền Học. Trong kho tàng giáo lý của đức Phật chỉ dạy, tất cả pháp môn tu tập đều có thiền quán, không phải chỉ riêng Thiền Môn mới có thiền quán, như pháp môn tu tập của Kinh Pháp Hoa thì có Pháp Hoa Tam Quán, pháp môn tu tập Tịnh Độ thì có Tịnh Độ Quán (Kinh Quán Vô Lượng Thọ), pháp môn tu tập của Tứ Niệm Xứ thì có Tứ Niệm Xứ Quán, pháp môn tu tập của mười hai Nhân Duyên thì có Nhân Duyên Quán, pháp môn tu tập của Kinh Tiểu Bổn Bát Nhã thì có Ngũ Uẩn Quán v.v... Pháp môn tu tập của Duy Thức thì có Duy Thức Quán và Duy Thức Quán đây khởi điểm từ nơi Giới Phân Biện Quán của đức Phật chỉ dạy, về sau pháp môn tu tập này được kiện toàn trở thành phương thức quán chiếu vô cùng xuất sắc, có tánh cách khoa học và hữu hiệu nhất hơn trong tất cả pháp môn. Muốn đi sâu vào phương pháp tu tập thiền quán của Duy Thức, trước hết chúng ta nhìn lại phương pháp tu tập của đức Phật chỉ dạy để thấy sự quan hệ ít nhiều của nó đối với Duy Thức Quán.

I - NHÌN LẠI PHƯƠNG PHÁP TU TẬP CỦA ĐỨC PHẬT CHỈ DẠY:

Đức Phật sau khi thành đạo nơi cội Bồ Đề có sáng lập một phương pháp thiền quán dành riêng cho các đệ tử của ngài tu tập để chứng được đạo quả Niết Bàn. Phương pháp thiền quán của đức Phật sáng lập không phải phương pháp tu tập mà ngài đã hành trì và phương pháp thiền quán của ngài sáng lập nếu như so sánh với phương pháp tu tập của ngài hành trì thì dễ tu và dễ chứng hơn. Phương pháp tu tập của ngài hành trì được rút ra từ phương pháp tu tập của các ngoại đạo đương thời, nhất là dựa theo phương pháp Yoga của Bà La Môn Giáo chủ trương và chế biến theo kinh nghiệm mới. Còn phương pháp thiền quán của ngài sáng lập được rút ra qua sự kinh nghiệm mà ngài đã chứng đắc và rất thích hợp với tất cả mọi trình độ, mọi căn cơ của chúng sanh nếu như những kẻ tu tập cố gắng hành trì một cách chuyên cần thì sẽ chứng quả Niết Bàn không khó khăn trong một kiếp người. Phương pháp thiền quán của ngài sáng lập không phải chỉ có độc nhất là Bát Chánh Đạo mà ở đây bao gồm cả ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của Đạo Đế. Muốn nắm vững ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của Đạo Đế, chúng ta trước hết hãy duyệt xét lại bốn Thánh Đế mà đức Phật thuyết minh đầu tiên để độ năm anh em ông Kiều Trần Như. Bốn Thánh Đế là bốn điều chân thật hiện hữu trong thế gian mà tất cả chúng sanh, ai cũng đều phải chấp nhận cũng phải biết rằng chính mình đã bị ràng buộc, đã bị cuốn hút vào trong vòng sanh tử lưu chuyển và không thể chối bỏ mà cũng không thể thoát ly khỏi sự khống chế của bốn điều kiện chân thật nói trên. Ý nghĩa và giá trị của bốn Thánh Đế đã được nhiều kinh luận giải thích rất tường tận, rất chi ly không cần phải giải thích thêm thừa mà trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ biện minh cụ thể hoá vấn đề tánh chất của bốn Thánh Đế. Bốn Thánh Đế mà ai cũng đều biết gồm có Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.

1.- Ý NGHĨA CỦA BỐN THÁNH ĐẾ:

Đế là chân thật, không thay đổi. Khổ Đế là chân thật về sự khổ, Tập Đế là chân thật về nguồn gốc gây ra đau khổ, Diệt Đế là chân thật về trạng thái Niết Bàn sau khi đứt hết các khổ đau của Khổ Đế và Đạo Đế là chân thật về phương pháp tu tập để tiêu diệt nguồn gốc gây ra khổ đau của Tập Đế.

Đứng trên lập trường nhân quả, Tập Đế là chỉ cho những nguyên nhân tạo thành dòng sanh tử lưu chuyển theo thuận chiều luân hồi khiến cho tất cả chúng sanh bị cuốn trôi mãi trong dây xích mười hai Nhân Duyên của Khổ Đế qua các nẽo sanh tử và ngược lại Đạo Đế gồm có ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo là những nguyên nhân tạo thành dòng chuyển hoá theo nghịch chiều sanh tử lưu chuyển khiến cho tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng đai luân hồi trói buộc của Tập Đế để đạt đến quả vị Niết Bàn tịch tịnh an lạc thật sự của Diệt Đế.

2.- TÁNH CHẤT CỦA BỐN THÁNH ĐẾ:

A/- KHỔ ĐẾ:

Khổ Đế như trước đã trình bày là chân thật về cái khổ, nghĩa là tất cả chúng sanh hữu tình không một ai thoát khỏi những cái khổ của Khổ Đế trói buộc và bất cứ hạng nào sang hay hèn, quý phái hay bần tiện, bất luận ở cõi nào Dục Giới, Sắc Giới hay Vô Sắc Giới đều không thoát khỏi sự chi phối bởi những khổ đau của Khổ Đế, mặc dù những khổ đau đó ít hay nhiều, thô trọng hay vi tế. Nơi ba cõi, vấn đề sanh tử lưu chuyển là khổ đau trọng đại nhất trong những khổ đau của Khổ Đế mà tất cả chúng sanh hữu tình ở những cõi đó đều biểu hiện trước hoàn cảnh sanh tử với tâm trạng là ham sống và sợ chết. Trong Kinh Pháp Hoa, Phẩm Thí Dụ, đức Phật diễn tả cái khổ đau sanh tử trong ba cõi qua câu: “Tam giới vô an du như hoả trạch”, nghĩa là ba cõi không bao giờ an ổn và chúng sanh trong đó giống như sống trong nhà lửa. Những khổ đau của Khổ Đế, tổng quát gồm có ba loại: Khổ Khổ, Hoại Khổ và Hành Khổ.

a]- Khổ Khổ: nghĩa là cái khổ này chồng lên cái khổ kia nên gọi là khổ khổ. Cụ thể như chúng sanh hữu tình ở cõi Ta Bà thuộc Dục Giới nhất là loài người trong lúc sanh ra liền cảm thấy đau khổ, đã vậy đang khi sống còn với đời do bởi nghiệp lực làm chủ và khống chế, cho nên thường hay đương đầu những nghịch cảnh nhiều hơn thuận cảnh, chuốc lấy đắng cay nhiều hơn may mắn. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 3 giải thích: “Thân và tâm của chúng sanh hữu tình xưa nay vốn đã là khổ lại cộng thêm những cái khổ của duyên sanh nào là đói khát, bệnh tật, mưa gió, lạnh nóng, lao dịch, đao tượng v.v...”

b]- Hoại khổ: nghĩa là thân tâm tất cả chúng sanh hữu tình luôn luôn bị biến hoại, luôn luôn bị thay đổi, biến hoại và thay đổi từng sát na trong biến dịch sanh tử (biến dịch sanh tử nghĩa là sống rồi chết và chết rồi sống nối tiếp nhau trong từng phút từng giây đồng hồ) rồi sau đó đi đến sự thay đổi toàn bộ trong phần đoạn sanh tử (phần đoạn sanh tử nghĩa là chúng sanh hữu tình sống giới hạn trong thời gian bao lâu hoặc dài hoặc ngắn rồi cũng phải chết) để chấm dứt một sanh mệnh của kiếp hiện tại và bước sang một sanh mệnh khác của kiếp vị lai với sự khổ đau luyến tiếc gọi chung là hoại khổ. Thí dụ như chúng sanh hữu tình ở cõi Sắc mỗi khi hết phước phải đọa vào cõi Dục theo sự chuyển hoá của Biến Dịch Sanh Tử mà ở đây không có vấn đề sống chết theo sự Phần Đoạn Sanh Tử giống như cõi Dục. Cõi Dục thì gồm đủ cả hai, Biến Dịch Sanh Tử và Phần Đoạn Sanh Tử, cõi Sắc thì chỉ có một loại Biến Dịch Sanh Tử và riêng cõi Vô Sắc thì Biến Dịch Sanh Tử rất vi tế.

c]- Hành Khổ: Hành là lưu chuyển. Hành Khổ nghĩa là tất cả pháp hữu vi luôn luôn biến động và lưu chuyển trong ba đời không một phút giây nào dừng nghỉ, khiến cho thân tâm chúng sanh hữu tình mãi bị bức não khổ đau chẳng chút yên ổn nên gọi là hành khổ. Tất cả pháp hữu vi cũng nhờ biến động nhờ lưu chuyển mới được nẩy nở cùng phát triển và cũng vì biến động cũng vì lưu chuyển cho nên mới bị sanh tử luân hồi trong các cõi khổ đau.

Nếu như phân tích chi ly, Khổ Đế ở cõi Ta Bà của Dục Giới sẽ thấy có tám loại:

l- Sanh Khổ:chữ snh có hai nghĩa, sanh ra và trưởng thành. Chúng sanh hữu tình một khi sanh ra khỏi bào thai đều bị khổ đau và không một ai thoát khỏi hoàn cảnh này. Một em bé vừa mới sanh khỏi lòng mẹ đều mang theo tiếng khóc để ra mắt với mọi người và ít khi nghe thấy nó nở được nụ cười trong khi chào đời. Đó là hiện tượng báo hiệu sanh ra là một điều khổ đau. Sự khổ đau này nếu như em bé biết nói trong lúc mới sanh thì sẽ diễn đạt một cách thâm thúy và sống động vô cùng. Một sanh vật nào dù nhỏ hay lớn khi mới sanh ra đều biểu hiện một trạng thái bất an nào thân thể quằn quại, nào cử chỉ quờ quạng trước cục diện đổi mới toàn bộ của cuộc đời cũng nói lên được hiện tượng sanh ra là khổ. Còn trong giai đoạn trưởng thành, ai cũng phải đấu tranh mới sanh tồn và luôn luôn đương đầu cho kiếp sống mỏng manh trong một xã hội gặp phải biết bao nhiêu sự đe dọa bởi những hoàn cảnh mạnh đặng yếu thua, khôn hiếp dại, cá lớn ăn cá bé chẳng có phút giây nào không lo âu và cứ lo mãi cho đến hơi thở cuối cùng của cuộc đời. Đây là đại khái về những hiện tượng sanh khổ của tất cả chúng sanh hữu tình không bao giờ kể cho hết.

2- Già Khổ:chúng sanh hữu tình một khi trở nên già yếu có hai thứ khổ: khổ đau về vật chất và khổ đau về tinh thần. Khổ đau về vật chất nghĩa là thân thể với tuổi già sức yếu, chân mỏi gối đùn, sức lực mỗi ngày mỗi suy giảm, con người cảm thấy mệt mỏi, sinh hoạt không còn nhanh nhẹn và phản ứng không còn linh hoạt như xưa. Khổ đau về tinh thần nghĩa là trách nhiệm đối với gia đình thì lại càng chồng chất, thân phận tuổi già lại càng nặng gánh lo âu trong lúc sức khoẻ không còn năng động đảm đang. Cái khổ đau về tuổi già cả hai mặt nói trên không thể nào diễn tả hết được.

3- Bệnh Khổ:chúng sanh hữu tình có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm bệnh. Thân bệnh là thân thể thường hay bệnh tật bởi nội thương hoặc ngoại cảm do lao lực hay lao tâm gây ra. Thân bệnh có nhiều lý do tạo nên do từ cuộc sống thiếu dinh dưỡng, thiếu chừng mực, thiếu tiết chế mọi sự ham muốn bởi nhiều dụ dỗ của cuộc đời v.v... và xài phí sức khỏe một cách bừa bãi, suất đời thi đua chạy theo dục lạc của thế gian: Đó là những nguyên nhân căn bản dễ tạo cho thân thể bệnh hoạn. Còn tâm hồn bệnh hoạn nào là buồn thảm, lo âu; bi quan, yếm thế do gặp nhiều bất hạnh trước mọi hoàn cảnh trái ngang của cuộc đời và quẩn trí bởi thất vọng chán chường mỗi khi không đạt thành ước mơ v.v... Những điều bệnh khổ nói trên đại khái là như thế.

4- Tử Khổ:chúng sanh hữu tình mỗi khi bị chết có hai thứ khổ: khổ về thân thể và khổ về tâm thần. Thân thể của chúng sanh hữu tình trong tình trạng sắp chết bị bức bách để ra đi với trạng thái hấp hối, với hơi thở từng cơn hoặc hơi thở nấc lên vài ba tiếng rồi từ biệt ra đi. Hiện tượng thân thể chúng sanh hữu tình sắp bị chết cũng giống như ngọn đèn hết dầu liền cháy sáng lên ba lần rồi lửa mới tắt hẳn. Đây là trạng thái khổ đau về thân thể của chúng sanh hữu tình sắp bị chết.

Khổ đau về tâm thần nghĩa là chúng sanh hữu tình sắp bị chết tâm thần của họ còn nặng nợ luyến ái cho nên luôn luôn thấy sự chết là một điều khổ đau. Thân thể của họ thì bị chết nhưng tâm thần của họ không bao giờ chết, cũng như bóng đèn điện bị bể nhưng dòng điện trong bóng đèn không bao giờ bị bể cả. Cho nên tâm hồn của kẻ sắp chết luyến ái gia đình càng nặng, không muốn rời bỏ vợ chồng, xa lìa con cháu và vô cùng đau khổ vì phải dứt áo ra đi vĩnh viễn.

5- Ái Biệt Ly Khổ:nghĩa là yêu thương nhau mà phải xa lìa là khổ. Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn giải thích: “Như vợ xa chồng, con lìa cha, đôi bên cứ thương nhớ nhau mãi nên thấy mình đau khổ vì chẳng được sum hiệp”. Cõi Ta bà này chính là cõi đầy dẫy khổ đau và chúng sanh hữu tình sống trong đó thường gặp nghịch cảnh trái ngang nhiều hơn thuận duyên may mắn, cho nên phải chịu cái khổ đắng cay về ái biệt ly khống chế. Cõi người chẳng những thường bị cái khổ về Ái Biệt Ly và cho đến các cõi Trời cũng buồn thảm về sự hư hoại, về sự ly tán của những vật mà mình yêu thích.

6- Cầu Bất Đắc Khổ:nghĩa là mong cầu không được kết quả như ý cũng là khổ Chúng sanh hữu tình luôn luôn sống trong tham vọng làm chủ và cứ mãi tham vọng không bao giờ hết. Cuộc sống khi bần cùng thì muốn cho được ấm no, khi được ấm no thì lại muốn cho được giàu sang và khi ước muốn không được, họ cảm thấy buồn phiền và khổ đau. Theo Kinh Bắc Bổn Đại Niết Bàn, quyển 12 và 14, Cầu Bất Đắc Khổ có hai thứ:

a]- Những điều mình mong muốn mà không đạt được, như mong cầu những thiện pháp mà không đạt được, mong cầu giải thoát những ác pháp mà không thành v.v...

b]- Tự mình bỏ công sức rất nhiều vào những sự việc mà mình mong muốn mà không đạt được kết quả, như mình thất bại rất nhiều trên công ăn việc làm, như tự mình tìm đủ cách thoát ly trong mọi sự ràng buộc nghịch cảnh nhưng đều thất bại cả v.v...

Tóm lại, Cầu Bất Đắc Khổ là mong cầu bao nhiêu công việc thuận lòng vừa ý thì lại không được toại nguyện và mong mỏi luôn luôn thoát khỏi bao nghịch cảnh trái ngang nhưng lại không thành.

7- Oán Tắng Hội Khổ:nghĩa là thù ghét nhau mà cứ gặp nhan mãi là khổ. Cái khổ sống gần những người mà mình không ưa, sống chung với hoàn cảnh mà mình không thích. Kinh Trung A Hàm, quyển 7 ghi rằng: “Chúng sanh bên trong thật sự có sáu chỗ đau khổ: mắt phải nhìn thấy những gì mà mình không muốn nhìn thấy, tai phải nghe những gì mà mình không muốn nghe, mũi phải ngửi những gì mà mình không

muốn ngửi, miệng lưỡi phải nếm những gì mà mình không muốn nếm, thân thể phải cảm giác những gì mà mình không muốn xúc chạm và ý thức phải suy nghĩ những gì mà mình không muốn suy nghĩ”. Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 3 giải thích: “Oán Tắng Hội Khổ có hai: khổ bên trong và khổ bên ngoài. Cái khổ bên trong là bị đưa vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh mà mình không muốn. Cái khổ bên ngoài là bị hành hạ bởi bạo lực mà mình phải gánh chịu”. Oán Tắng Hội Khổ nếu như phân tách thì không biết bao nhiêu mà kể cho hết.

8- Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ:Ngũ Ấm cũng gọi là Ngũ Uẩn nghĩa là năm ấm. Ngũ Ấm gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Ngũ Ấm này hoà hợp với nhau để tạo thành thân thể của chúng sanh hữu tình. Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ nghĩa là năm ấm trong thân thể của mỗi chúng sanh hữu tình tăng lên hay giảm xuống làm mất quân bình cho cuộc sống gây ra khổ đau.

a]- Sắc Ấm gồm có đất, nước, gió, lửa. Bốn chất này luôn xung khắc với nhau, như nước nhiều thì lửa tắt và ngược lại lửa nhiều thì nước khô, cho đến các chất khác thì cũng như thế Trong thân thể chúng sanh hữu tình, một trong bốn chất này lên xuống bất thường gọi là xí thaanh gây ra khổ đau về thân thể.

b]- Thọ ấm xí thạnh khổ nghĩa là chúng sanh hữu tình càng cảm thọ nhiều thì càng khổ đau, nghĩa là càng giao tiếp nhiều thì càng vì bị vướng mắc, càng cao danh vọng thì càng dày gian nan.

c]- Tưởng ấm xí thạnh khổ, nghĩa là chúng sanh hữu tình càng mơ tưởng nhiều chừng nào thì lại càng thất vọng chừng nấy. Con người càng mơ tưởng nhiều chừng nào thì càng dệt tơ sầu chừng nấy, càng đam mê thì càng gối lên đầu tang thương.

d]- Hành ấm là chỉ cho các phiền não nghiệp chướng gồm có: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v... Một trong những thứ này xí thạnh nghĩa là làm chủ cuộc đời sẽ gây

nhiều đau khổ cho chúng sanh, như con người cần phải ăn uống mới sống còn, nhưng khi ăn uống lại cộng thêm nghiệp tham lam liền biến thành tham ăn và tham uống thì trở nên vô nghĩa. Nghiệp sân, nghiệp si mê v.v... nếu như xí thạnh đều cũng như thế. Những trường hợp đây đều gọi là Hành Ấm Xí Thạnh Khổ.

e]- Thức Ấm ở đây là chỉ cho Thức Alaya. Trong thân thể chúng sanh hữu tình, Kiến Phần Thức Alaya xí thạnh khiến cho khí huyền xáo trộn, lên xuống bất bình thường, bộ máy sinh hoạt bất an, tạo điều kiện cho các ấm khác phát động nhanh chóng đưa sinh mệnh đi đến tình trạng căng thẳng thần kinh, có khi trở nên hôn mê bất tỉnh. Đây cũng là hiện tượng xí thạnh là khổ của Thức Ấm.

Tám điều khổ đau vừa kể trên là chỉ cho tánh chất căn bản của Khổ Đế mà đức Phật đã nêu ra và còn nhiều hiện tượng khổ nữa tràn ngập trong cuộc đời không thể nào kể cho hết. Vấn đề khổ đau mặc dù rất nhiều, nhưng không ngoài tám loại khổ mà đức Phật đã trình bày trong các kinh điển và tám điêu khổ đau của Khổ Đế là một sự thật không một ai thoát khỏi và không ai chối cải được, dù cho có che đậy đến cách nào đi chăng nữa rồi cũng bị cuốn trôi trong dòng luân hồi của khổ đau. Đức Phật nói lên Khổ Đế không phải tạo cho con người trở nên bi quan yếm thế mà ở đây đức Phật đánh thức con người phải tìm cho ra nguyên nhân gây nên khổ đau để tìm cách hoá giải. Ở đời không có gì tuyệt đối cả, những cái khổ đau vừa nêu trên cũng chỉ trong vòng tương đối và có thể bị tiêu diệt nếu như chúng ta tiên ra được những nguyên nhân gây tạo nên những sự kiện bất hạnh ở trên.

B/- TẬP ĐẾ:

Tập Đế ai cũng đều biết là chỉ cho nguồn gốc tạo ra các khổ đau của Khổ Đế. Tập Đế gồm có Thập Triền, Thập Sử. Thập Triền nghĩa là mười thứ phiền não trói buộc và làm nhiễm ô thân tâm chúng sanh hữu tình khiến gây tạo các thứ ác hạnh trong vòng sanh tử lưu chuyển. Tành chất Thập Triền được giải thích tổng quát như sau:

l- Vô Tàm: nghĩa là không thẹn với mình. Tánh chất Vô Tàm là ngoài việc hành động những việc xấu ác mà không biết thẹn với lương tâm và còn đối với các công đức cũng như đối với những kẻ có đức hạnh không biết sùng kính, lại còn đố kỵ phê bình.

2- Vô Quý: nghĩa là không thẹn với người khác. Tánh chất Vô Quý là ham thích làm những việc xấu ác không cần biết đến nhân phẩm hay thể diện và bất chấp dư luận của thế gian, không sợ ai chê trách.

3- Tật: nghĩa là ganh ghét. Tánh chất của Tật là thấy người ta phát đạt, thành công, tài năng, địa vị hơn mình thì sánh tâm ganh ghét đố kỵ, trên mọi thủ đoạn không chân chánh để ám hại người.

4- San: nghĩa là bổn xẻn, keo kiết. Tánh chất của san là bủn xỉn, keo kiết đối với vấn đề bố thí tài vật ban ân huệ cho kẻ thiếu thốn, cũng như ích kỷ không chịu ra công giúp đỡ nhu cầu cho những người thiếu phương tiện, ngoài ra có hạng người chuyên tính toán lợi hại trong công việc bố thí pháp bảo của Phật đều nằm trong tình trạng mang bệnh bỏn xẻn cả.

5- Hối: nghĩa là ăn năn. Tánh chất của Hối là đối với những công việc tội ác trước kia đã gây tạo giờ đây trở lại hối hận khiến cho thân tâm trở nên bất an.

6- Miên: nghĩa là ngủ nghỉ. Tánh chất của Miên là khiến cho tâm trở nên mê ngủ không còn năng lực tỉnh giác để cứu xét.

7- Trạo Cử: nghĩa là lao chao không điềm tỉnh. Tánh chất của Trạo Cử là khiến cho thân tâm trở nên chao động không được an tĩnh làm mất phong cách và trở ngại trong việc thiền quán.

8- Hôn Trầm: nghĩa là đần độn. Tánh chất của Hôn Trầm là khiến cho tâm trí không thông minh sáng suất, không nhạy bén lanh lợi trong việc quán sát ngoại cảnh.

9- Phẫn: nghĩa là bực tức, giận dữ. Tánh chất của Phẫn là đối với hoàn cảnh trái nghịch ý mình khiến cho thân tâm trở nên bực tức, khó chịu, bất an, làm mất chánh niệm.

10- Phú: nghĩa là che dấu. Tánh chất của Phú là khiến cho tâm ý thường hay che dấu, hay chối quanh những tội lỗi của mình không cho người khác biết đến.

Thập Sử nghĩa là mười thứ phiền não có công năng sai khiến chúng sanh hữu tình mưu tính và hành động tội lỗi. Thập Sử gồm có Ngũ Độn Sử và Ngũ Lợi Sử. Ngũ Độn Sử nghĩa là năm thứ phiền não căn bản thường thiến cho chúng sanh hữu tình bị đần độn ngu si gây nhiều tội lỗi sanh tử lưu chuyển trong ba cõi. Ngũ Lợi Sử nghĩa là năm thứ phiền não thường khiến cho chúng sánh lanh lợi xảo huyệt trong sự chấp trước sự lý của các pháp. Ngũ Độn Sử gồm có: Tham, Sân, Si, Mạn và Nghi. Ngũ Lợi Sử gồm có: Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ và Giới Cấm Thủ.

C/ DIỆT ĐẾ:

Diệt Đế là chân thật về trạng thái Niết bàn sau khi tiêu diệt hết tất cả phiền não của Tập Đế và dứt hẳn các đau khổ của Khổ Đế. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 3 giải thích biệt Đế có bốn tướng: Tận, Chỉ, Diệu, Xuất. Tận nghĩa là dứt bỏ hết tất cả lỗi lầm của phiên não gây tạo, Chỉ nghĩa là trong sạch hết tất cả phiền não tham ái, Diệu nghĩa là xả bỏ tất cả chướng ngại không bị trói buộc và Xuất nghĩa là thanh tịnh an lạc trước mọi hoàn cảnh không bị nhiễm trước. Đây là bốn hiện tượng giải thoát và tự tại của Diệt Đế. Còn trạng thái Niết Bàn của Diệt Đế gồm có hai loại Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Nàn.

Hữu Dư Niết Bàn nghĩa là trạng thái Niết Bàn sau khi tâm kinh dứt bỏ hết tất cả phiền não ái dục của sanh tử, nhưng còn dư lại thân thể nghiệp báo của kiếp này đang cưu mang. Vô Dư Niết Bàn nghĩa là cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh sau khi chấm dứt dư nghiệp nơi thân thể của những bậc đã chứng đắc trạng thái Hữu Dư Niết Bàn. Bảo Quật quyển hạ giải thích: Nhân quả sanh tử đã thanh tịnh, chứng đắc Pháp Thân thường trụ bất diệt nên gọi là Vô Dư Niết Bàn. Tứ Đế Luận quyển 3 cho rằng: Diệt tận Ái Dục là đạt được Hữu Dư Niết Bàn, diệt tận các khổ là đạt được Vô Dư Niết Bàn.

D/- ĐẠO ĐẾ:

Đạo Đế là chân thật về phương pháp để tiêu diệt nguồn gốc gây ra khổ đau của Tập Đế. Phương pháp tu tập của Đạo Đế thông thường trong các kinh luận chỉ ghi có Bát Chánh đạo mà thôi, còn các đạo khác không có đề cập đến. Nhưng thật ra, phương pháp tu tập của Đạo Đế do chính đức Phật giảng dạy không chỉ riêng có Bát Chánh Đạo mà trong đó bao gồm cả ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo. Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo nghĩa là ba mươi bảy thứ bậc trợ giúp Đạo Đế thành công trong sự tu tập. Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo này được chia làm 7 cấp:

1]- Tứ Niệm Xứ

2]- Tứ Chánh Cần

3]- Tứ Như Ý Túc

4]- Ngũ Căn

5]- Ngũ Lực

6]- Thất Giác Chi (Thất Bồ Đề Phần)

7]- Bát Chánh Đạo.

Muốn đạt đến Bát Chánh Đạo, đầu tiên và cũng là cơ bản nhất chúng ta phải hành trì cấp thứ nhất là Tứ Niệm Xứ cho được thuần thục rồi sau đó mới bước sang cấp thứ hai là Tứ Chánh Cần. Chúng ta hành trì Tứ Chánh Cần của cấp thứ hai cho được thuần thục rồi sau đó mới bước sang cấp thứ ba là Tứ Như Ý Túc và cứ như thế hành trì cho đến cấp thứ bảy là Bát Chánh Đạo cho được thuần thục mới thôi, thế là chúng ta đã đạt đến quả vị Niết Bàn Hữu Dư một cách dễ dàng. Trước hết, chúng ta xét về cấp thứ nhất là Tứ Niệm Xứ.

1.- TỨ NIỆM XỨ:

Tứ Niệm Xứ nghĩa là bốn lãnh vực quán niệm. Tứ Niệm Xứ gồm có: Thân, Thọ, Tâm và Pháp và hành giả tu tập phải thường xuyên quán niệm đến bốn lãnh vực này như:

l) Quán thân bất tịnh,

2) Quán thọ giai khổ,

3) Quán tâm vô thường,

4) Quán pháp vô ngã.

Bốn lãnh vực quán chiếu trên đây đã được rất nhiều kinh sách giải thích trên bình diện triết lý về phương pháp tu tập. Ở đây, trên bình diện thực nghiệm, bốn lãnh vực quán chiếu được dùng trong bốn phương pháp tu tập sau đây:

a- Đối trị ái dục (tha quán),

b- Đối trị chấp trước (tự quán),

c- Quán chiếu tìm duyên (tự quán),

d- Quán chiếu tìm trình (tự quán).

a./- PHƯƠNG PHÁP THỨ NHẤT ĐỂ ĐỐI TRỊ ÁI DỤC:

Phương pháp này không chỉ dành riêng cho những người xuất gia tu tập để diệt dục mà còn dành cho những phật tử tại gia tu tập để tiết dục. Người xuất gia trên mong cầu giải thoát dưới hóa độ chúng sánh cho nên cần phải diệt ái dục đứng đầu trong luật pháp, nguyên vì ái dục là nhân của sanh tử luân hồi cần phải đoạn tuyệt. Người xuất gia không diệt ái dục thì không thể giải thoát, không đủ tư cách làm sứ giả của Như Lai cho nên giới luật của đức Phật chế chủ trương diệt đục là một trong những giới căn bản. Còn người phật tử tại gia đã có gia đình mà còn nặng tình ái dục với người ngoài thì phải tu tập phương pháp này để tiết chế sự ái dục gọi là tiết dục. Theo lời đức Phật chỉ dạy, người phật tử tại gia có quyền có gia đình nhưng cần phải biểu tượng đạo đức gia phong cho con cháu nương tựa để được hạnh phúc an lạc mà nếu như mang bệnh ái dục quá nặng thì bị mất đi đức tin với nhau, gây xáo trộn gia cang, tạo nên khổ đau cho gia đình và sẽ bị đọa lạc trong ba đường khổ. Do đó người phật tử tại gia nào bị bệnh ái dục quá nặng cần phải tu tập phương pháp này để tiết dục. Nếu khi khởi tâm luyến ái với người nào, ta phải:

l- Quán thân họ là bất tịnh để ái dục của mình lắng xuống.

2- Quán nếu có cảm thọ với họ, nghĩa là có kết hợp với họ thì sẽ bị đau khổ.

3- Quán tâm họ là vô thường, luôn luôn thay đổi, nay thương mai hết, trước mặt thương mình, sau lưng thương người khác.

4- Quán pháp vô ngã, nghĩa là quán người đó đều do nhân duyên sanh, không có tồn tại, người đó cũng là một pháp, cũng đều giả huyễn, rồi có ngày cũng phải chết.

Người nào tu tập quán chiếu phải hành trì liên tục đến khi bệnh ái dục không còn tác dụng nữa mỗi khi đối diện với bất cứ người nào thuộc khác phái thế là người đó đã đạt đạo diệt dục.

b/- PHƯƠNG PHÁP THỨ HAI ĐỂ ĐỐI TRỊ CHẤP TRƯỚC:

Bệnh chấp trước là bệnh cố hữu của chúng sanh cũng là một trong những nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Những người mang bệnh chấp trước chỉ biết có mình và quan tâm những gì thuộc sở hữu của mình cho là trên hết, cũng từ đó họ ước muốn quá nhiều cho bản thân họ, cho gia đình họ và cho thoả mãn những nhu cầu mà họ tham vọng, như muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh mãi không đau, muốn sống mãi không chết v.v… Bệnh chấp trước của họ tuy nhiều thứ, nhưng không ngoài bốn lãnh vực: Thân, Thọ, Tâm, Pháp và muốn đối trị bệnh chấp trước này phải tu tập bốn lãnh vực quán chiếu sau đây để hóa giải:

a- Thân thể của mình thực tế thuộc loại bất tịnh, nhưng bệnh chấp trước lại cho là thanh tịnh và cứ mãi chạy theo vật chất để cung phụng cho bản thân theo sự ham muốn của mình. Người tu tập quán chiếu phải biết nó là bất tịnh để chặn đứng sự sống xa hoa trụy lạc, sự sống luôn luôn nuông chiều theo thể xác. Người tu tập quán chiếu phải biết sống đừng có ích kỷ riêng tư không nên chỉ lo tự lợi, phải biết sống hạnh vị tha đối với mọi người trong sự tương quan sanh tồn, phải đối xử với mọi người chung quanh bằng tâm từ bi, bằng hành động hỷ xả.

b- Đối với xã hội, mình càng cảm thọ nhiều thì càng giao động nhiều, càng khổ đau nhiều, nghĩa là giao thiệp càng nhiều và ân nghĩa bạn bè không cần thiết càng sâu rộng thì sự lo nghĩ về vấn đề qua lại sao cho tương xứng lại càng mệt mỏi, càng hao mòn cả thể xác lẫn tinh thần. Người tu tập quán chiếu phải biết sống tri túc, phải biết những nhu cầu nào có lợi hoặc có hại cho việc sanh tồn cần nên áp dụng, đừng chạy theo và cạnh tranh với cuộc đời vô bổ để rước lấy nhiều khổ đau.

c- Tâm mình thì thay đổi luôn mà lại chấp cho là thường còn, cứ mãi bảo thủ ý kiến riêng tư không thích hợp với hoàn cảnh của mình, cố chấp những quan niệm cổ điển lỗi thời mà không biết linh động chuyển hoá để kịp thời. Ngoài ra còn chấp linh hồn của con người vẫn tồn tại mãi với hình tướng con người và cũng từ ý niệm đó, họ sống cứ gây tạo những điều tội ác mà không sợ quả báo luân hồi. Người tu tập quán chiếu đừng tin tưởng nơi tâm mình và cũng đừng tin tưởng tâm của bất ai, phải biết sống theo hạnh tùy duyên để thích hợp với mọi hoàn cảnh để được an lạc và giải thoát những khổ đau. Hơn nữa phải biết rằng, linh hồn của mình không phải thường còn mãi với hình tướng con người, luôn luôn biến đổi tướng trạng tùy theo duyên nghiệp để đi thọ thân trong mọi loài chúng sanh, không khác dòng điện chạy vào bóng đèn thì trở thành hình tướng bóng đèn, chạy vào quạt máy thì trở thành hình tướng quạt máy, chạy vào radio thì trở thành hình tướng radio v.v... mà không phải chỉ có một loại hình tướng nhất định như mọi người lầm tưởng.

d- Con người của mình là một pháp trong tất cả pháp đều do nhân duyên tạo nên, thật sự không có bản ngã tồn tại, cho đến ngũ uẩn tạo nên con người không có uẩn nào là bản ngã thật sự cả. Con người vì bệnh chấp ngã kiên cố, ưa đề cao cá nhân, háo danh, lập vị, làm tướng, tỏ ra mình là quan trọng hơn cả và xem thường mọi người chung quanh. Cũng vì bản ngã trên hết, bao nhiêu phiền não trong con người, nào tham lam, ích kỷ, bổn xẻn, keo kiết v.v... thi đua phát triển gây tạo biết bao tội ác nhằm tô bồi cho bản ngã càng thêm to lớn và chuyên sống trên đau khổ của kẻ khác mà không có chút lương tâm hỷ xả vị tha. Hành giả tu tập quán chiếu phải theo pháp môn vô ngã của đức Phật chỉ dạy để phá bệnh chấp ngã của mình.

Người nào tu tập quán chiếu phải hành trì liên tục đến khi bệnh chấp trước không còn tác dụng nữa trong mọi hoàn cảnh thăng trầm vinh nhục thế là người đó đã đạt đạo vô ngã.

c/- PHƯƠNG PHÁP THỨ BA LÀ QUÁN CHIẾU TÌM DUYÊN:

Tìm duyên ở đây là tìm hiểu giá trị của các yếu tố duyên khởi qua bốn lãnh vực quán chiếu để khỏi bị lầm lạc trên hành trình tu tập. Các yếu tố duyên khởi trên lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp là những thành phần cơ bản trong sự cấu trúc thành hình chúng sanh mà hành giả quán chiếu cần phải minh định giá trị cho rõ ràng để tu tập. Hành giả không nắm vững giá trị của các yếu tố duyên khởi qua bốn lãnh vực này thì công trình tu tập của hành giả trở thành dã tràng xe cát biển đông, uổng phí thời gian mà không đạt được kết quả nào. Đây là phương pháp tự giúp mình để được giác ngộ giá trị mỗi loại gồm có:

1- Quán thân nơi thân,

2- Quán thọ nơi thọ,

3- Quán tâm nơi tâm,

4- Quán pháp nơi pháp.

1]- Quán Thân Nơi Thân: nghĩa là ngay nơi thân thể này, loại gì mới đích thực là thân thể của con người? Xương thịt không phải là thân thể của con người nguyên vì trong xương thịt máu huyết, hơi thở và sức nóng đã hiện hữu vô cùng quan trọng không kém. Máu huyết không phải là thân thể của con người nguyên vì trong máu huyết, xương thịt, hơi thở và sức nóng đã hiện hữu vô cùng quan trong không kém. Cho đến hơi thở và sức nóng, mỗi yếu tố cũng thế nghĩa là không phải thân thể của con người. Bốn yếu tố nói trên họp chung lại cũng không phải là thân thể của con người, nguyên vì trong bốn yếu tố đó, loại nào cũng đóng vai quan trọng không kém. Như thế trong bốn yếu tố xương thịt, máu huyết, hơi thở và sức nóng, loại nào mới đích thực là thân thể của con người? Hành giả khi quán chiếu phải tự hỏi con người do yếu tố gì thành hình thân thể. Theo Duy Thức Học, Nghiệp Tướng mới là yếu tố căn bản thành hình thân thể con người và thành hình thân thể của các chúng sanh khác, như thành hình tướng nam, thành hình tướng nữ, thành hình tướng súc sanh, thành hình tướng cây cỏ v.v... Chúng sanh mê chấp cho Nghiệp Tướng là bản ngã của thân thể mình và sự chấp trước đó của chúng sanh thì thật hoàn toàn sai lầm. Nghiệp Tướng cũng ví như hoạ đồ kiểu nhà và cái nhà được xây cất thành hình kiểu đẹp hay kiểu xấu chính là do cái hoạ đồ kiểu mẫu mà kiểu đẹp kiểu xấu đó không phải thuần túy chỉ do vật liệu tạo nên. Để phá bệnh chấp ngã kiên cố nói trên, hành giả phải quán chiếu để thấy rõ Nghiệp Tướng không phải là bản ngã chân thật của thân thể mình mặc dù nếu như không có nghiệp. tướng thì thân thể của con người khó được thành hình cụ thể trong thế gian.

2]- Quán Thọ Nơi Thọ: nghĩa là quán chiếu tìm hiểu tánh chất của các pháp được thọ nhận nơi sự cảm thọ. Tánh chất của những pháp được thọ nhận nơi sự cảm thọ gồm có tánh chất của những pháp lạc thọ, tánh chất của những pháp khổ thọ và tánh chất của những pháp xả thọ. Ba tánh chất của những pháp được thọ nhận nơi sự cảm thọ đều hoàn toàn thuộc về ảo giác và chúng nó không có tánh chất chân thật của một sự vật cụ thể. Theo nhà Duy Thức, tánh chất của những pháp thuộc khổ thọ, thuộc lạc thọ, thuộc xả thọ (không khổ và không lạc) được cảm thọ qua năm giác quan tĩnh lược và hạn chế để cung cấp thì không thể nào có thực chất, tất cả được mang danh là ảnh tử (hình bóng ảo giác). Điển hình như tánh chất của những pháp thuộc khổ thọ, thuộc lạc thọ, thuộc xả thọ được cảm thọ qua sự nhìn thấy của Nhãn Thức thì đều hoàn toàn ảo giác, nguyên vì Nhãn Thức chỉ nhìn thấy được hình tướng ảnh tử của các pháp để có cảm giác mà không thể thấy trực tiếp được thật tướng của các pháp đó, thí dụ trên sân khấu, Nhãn Thức nhìn thấy diễn viên khóc thì khóc theo, nhìn thâý diễn viên cười thì cười theo v.v... Những hình ảnh khóc và cười của diễn viên trên sân khấu đã là không thật mà Nhãn Thức nhìn thấy những hình ảnh khóc và cười đó lại càng không phải đúng như thật của diễn viên đóng kịch. Tánh chất của những pháp thuộc khổ thọ, thuộc lạc thọ, thuộc xả thọ được cảm thọ qua sự nghe tiếng của Nhĩ Thức thì cũng đều hoàn toàn ảo giác, nguyên vì Nhĩ Thức chỉ nghe được tiếng ảnh tử nơi âm thanh của các pháp để có cảm giác mà không thể nghe trực tiếp được âm thanh chân thật của các pháp đó. Tánh chất của những pháp thuộc khổ thọ, thuộc lạc thọ, thuộc xả thọ được cảm thọ qua sự ngửi mùi của Tỷ Thức, qua sự nếm vị của Thiệt Thức và qua sự xúc chạm của Thân Thức thì thảy đều hoàn toàn ảo giác cả, nguyên vì ba Thức này chỉ cảm thọ được những ảnh tử nơi mùi hương, nơi chất vị và nơi xúc chạm đã bị biến chất của các pháp mà không thể cảm thọ trực tiếp được những mùi hương, những chất vị và những xúc chạm thuần túy nguyên thể của những pháp đó. Cho đến tánh chất giá trị và ý nghĩa của những pháp trần thuộc khổ thọ, thuộc lạc thọ, thuộc xả thọ được cảm thọ nhận thức của Ý Thức thì cũng đều ảo giác cả, nguyên vì Ý Thức cảm thọ các pháp qua ảnh tử của năm trần do năm Thức trước cung cấp mà không để cảm thọ trực tiếp được tánh chất, giá trị và ý nghĩa nguyên thể của năm trần. Từ giá trị này, tánh chất của tất cả pháp đã được thọ nhận ở nơi sự cảm thọ có thể nói thảy đều hoàn toàn là ảo giác mà chúng nó chẳng phải chân thật và không nên đam mê nhiễm trước.

3]- Quán Tâm Nơi Tâm: nghĩa là quán chiếu tìm hiểu tâm nào thực thụ là tâm của con người ở nơi tâm (Ý Thức). Theo nhà Duy Thức, Ý Thức không phải là tâm thực thụ của con người, nguyên vì Ý Thức chỉ sinh hoạt được mười hai tiếng đồng hồ trong một ngày nơi mỗi con người và sau đó phải đi nghỉ. Trong thời gian Ý Thức không có mặt, con người vẫn còn sống và điều đó chứng tỏ Ý Thức thực thụ không phải là tâm của con người. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, Ý Thức thì thuộc về Phân Ly Tâm, theo Duy Thức, Ý Thức thì thuộc tâm phân biệt và hơn nữa theo Kinh Lăng Nghiêm, Ý Thức thì thuộc về vọng tâm. Trong kinh Phật dạy Thức Alaya là nơi dung chứa tất cả phiền não, như vậy người ta tu tâm không phải là tu Ý Thức mà ở đây muốn diệt phiền não trong tâm thì phải tu Thức Alaya. Lý do cụ thể Ý Thức thì muốn tu, muốn ngồi thiền, muốn tụng kinh nên đầu tư công sức vào đó quá nhiều nhưng tâm không cho tu tập thế nên Ý Thức luôn luôn bị phân tâm trong lúc ngồi thiền, trong lúc tụng kinh, trong lúc tu tập. Muốn diệt tất cả phiền não trong tâm Alaya, hành giả phải tu 37 Phẩm Trợ Đạo. Qua sự trình bày trên, người tu tập thiền quán phải bắt đầu từ nơi Ý Thức thuộc vọng tâm quán chiếu tìm cho ra Thức Alaya trong mỗi con người thế là tìm được tâm thật của mình để chuyển hoá phiền nào khổ đau.

4]- Quán Pháp Nơi Pháp: Con người là một pháp trong tất cả pháp. Quán Pháp Nơi Pháp nghĩa là quán chiếu ngũ uẩn nơi trong con người. Ngũ Uẩn nơi trong con người gồm có sắc, thọ tưởng, hành và thức. Sắc Uẩn thì thuộc về phần vật chất gồm có: đất, nước, gió, lửa, gọi chung là Tứ Đại và thọ, tưởng, hành, thức thì thuộc về phần tinh thần. Ngũ Uẩn nơi trong mỗi con người hay nơi trong tất cả chúng sanh hữu tình đều thuộc loại tác dụng duyên hợp, nghĩa là trong uẩn này có uẩn kia đã bị biến chất và biến tướng qua sự quan hệ chặt chẽ với nhau để thành hình mỗi pháp mà chúng nó không còn nguyên chất đơn thuần ở trạng thái hạt giống nơi Thức Thể Alaya. Từ đó cho thấy, mỗi con người hay mỗi chúng sanh hữu tình là một pháp hoàn toàn thuộc nhân duyên sanh không có thực thể đều do ngũ uẩn tạo nên bao gồm cả vật chất và tinh thần. Nếu như tách rời ngũ uẩn ra, mỗi con người hay mỗi chúng sanh hữu tình không còn là một pháp hiện hữu và tồn tại trong thế gian nữa. Hành giả tập thiền quán nên biết rằng ngũ uẩn quan hệ với nhau thành hình con người tùy theo nghiệp lực và nghiệp tướng quyết định sinh mệnh.

Hành giả tu tập thiền quán, quán chiếu đến khi nào nhận chân được giá trị đích thực các yếu tố duyên khởi qua bốn lãnh vực thân, thọ, tâm, pháp không chút lầm lạc thế là hành giả đã giác ngộ được chân giả của các pháp.

d/- PHƯƠNG PHÁP THỨ TƯ LÀ QUÁN CHIẾU TÌM TÁNH:

Tất cả pháp hiện hữu mỗi pháp đều có bản tánh riêng của nó và bản tánh nghĩa là tánh chất căn bản của mỗi pháp, pháp nào đều có tánh chất căn bản của pháp nấy, như tánh chất căn bản của nước là tánh ướt. Nhưng tánh chất ướt của nước không phải là bản thể của nước và bản thể của nước thực sự chính là năng lực lưu nhuận mà nó không phải thuộc tánh chất ướt. Tất cả pháp khác đều cũng như thế, nghĩa là cũng có bản thể riêng, bản tánh riêng, hình tướng riêng và sự tác dụng riêng biệt nhau, không pháp nào giống pháp nào. Quán Chiếu Tìm Tánh nghĩa là tìm hiểu bản tánh của mỗi phát hiện hữu qua bốn lãnh vực quán chiếu: thân, thọ, tâm, pháp và đây là phương pháp nội quán gồm có:

l- Quán thân trong thân,

2- Quán thọ trong thọ,

3- Quán tâm trong tâm,

4- Quán pháp trong pháp.

1]- Quán Thân Trong Thân: Nghiệp Tướng chính là thân tướng của tất cả chúng sanh và Nghiệp Tướng này hiện có mặt trong thế gian là do Kiến Phần Thức Alaya mang từ chủng tử xây dựng nên. Trong Nghiệp Tướng của mỗi chúng sanh lại có Thân Tướng bằng Tâm Thức Alaya được gọi là Thức Thân. Thức Thân Alaya nằm trong Nghiệp Tướng, nhưng không phải Nghiệp Tướng và ngoài Nghiệp Tướng không tìm thấy Thức Thân Alaya. Trường hợp này cũng giống như hình tướng Huyền Trang, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng trên màn ảnh TV là do dòng điện mang từ Video-Tape hiện lên. Trong hình tướng của Huyền Trang, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng trên màn ảnh TV có hình tướng của dòng điện. Hình tướng của dòng điện nằm trong hình tướng Huyền Trang, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng, nhưng không phải là hình tướng của Huyền Trang, của Tề Thiên, của Bát Giới, của Sa Tăng, nhưng ngoài hình tướng Huyền Trang, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng không tìm thấy hình tướng của dòng điện. Thân Thức Alay ở khắp cả thân thể của chúng sanh để bào trì sinh mạng của tất cả chúng sanh hiện hữu và tồn tại trong thế gian. Sự rút lui Thân Thức Alaya nơi thân thể của mổi chúng sanh tức là báo hiệu sự hoại diệt của chúng sanh đó trong thế gian. Quán chiếu sâu hơn nữa, bản tánh của Thân Thức Alaya trong mỗi chúng sanh tức là Phật Tánh và cũng gọi là Phật Thân, nguyên vì trong Thân Thức Alya có bản tánh trí tuệ gọi là Đại Viên Cảnh Trí một khi Thức này được chuyển Thức thành Trí. Người nào quán chiếu thấy được trong Thân Thức Alaya nơi Nghiệp Tướng của mỗi chúng sanh có thân Phật hiện hữu và tồn tại bất diệt thế là người đó đã giác ngộ được nguyên lý Quán Thân Trong Thân.

2]- Quán Thọ Trong Thọ: nghĩa là trong cảm thọ khổ, cảm thọ lạc, cảm thọ xả, quán chiếu tìm cho ra kẻ cảm thọ. Cảm thọ thì khác hơn thọ nhận. Thọ nhận thì thuộc về sự hoạt động của Tâm Sở Thọ, một trong năm Tâm Sở Biến Hành, chỉ biết tiếp nhận những sự việc một cách vô tư không có phân biệt tốt xấu thiện ác, không khen hay chê, không ưa thích hay ưa thích, nghĩa là thọ nhận tất cả pháp không bỏ sót một pháp nào cả. Còn Cảm Thọ là thọ nhận những sự việc đã có đặt tình cảm hiện diện trong đó, nghĩa là có phân biệt những pháp mình thọ nhận thuộc về loại thiện, loại ác hay loại vô ký (thuộc loại bình thường trung dung). Quán Thọ Trong Thọ ở đây nghĩa là quán chiếu tìm hiểu trong khổ thọ, trong lạc thọ, trong xả thọ, ai là kẻ cảm thọ những sự việc đó? Theo nhà Duy Thức kẻ cảm thọ khổ, lạc, xả chính là Ý Thức thứ sáu và có Ý Thứ thứ sáu thì mới có cảm thọ. Thí dụ bệnh nhân bị chụp thuốc mê, cũng như con người đang trong cơn mê man bất tỉnh không thấy có cảm thọ khi Bác Sĩ mổ ruột hay làm bất cứ việc gì nơi trong con người của họ, nguyên do lúc đó Ý Thức thứ sáu của họ không có mặt để cảm thọ. Từ đó cho thấy trong khổ thọ, lạc thọ, và xả thọ, Ý Thức thứ sáu mới là yếu tố để có cảm thọ. Quán chiếu sâu hơn nữa bản tánh của Ý Thức thứ sáu chính là Trí Diệu Quan Sát và trí tuệ này được phát sanh từ nơi Phật tánh, như vì bị ràng buộc bởi Căn Thức (Chủng Tử Chứng Tự Chứng phần) và khi sanh hoạt bị quan hệ quá nhiều nơi Thức Mạt Na thứ bảy cho nên biến thành Ý Thức phân biệt. Người nào quán chiếu thấy được bản tánh Trí Diệu Quan Sát của Ý Thức Thứ sáu trong Căn Thức phát sanh từ nơi Phật Tánh thế là người đó đã giác ngộ được nguyên lý Quán Thọ Trong Thọ.

3]- Quán Tâm Trong Tâm: Trong Tâm đây là chỉ cho Tâm Thức Alaya và Quán Tâm Trong Tâm nghĩa là quán chiếu tìm cho ra Tâm Thức Mạt Na trong Tâm Thức Alaya. Theo nhà Duy Thức, Tâm Thức Mạt Na hiện đang nằm trong Tâm Thức Alaya và bám lấy Tâm Thức Alaya làm bản ngã của mình. Bản tánh của Thức Mạt Na thứ bảy chính là Trí Bình Đẳng Tánh phát sanh từ nơi Phật Tánh, nhưng vì bị ràng buộc bởi Căn Thức (Chủng Tử Chứng Tự Chứng phần) và quan hệ quá nhiều nơi hạt giống các phiền não căn bản cho nên biến thành Tâm Thức Mạt Na chấp trước. Người tu thiền quán muốn xoá bỏ bệnh chấp ngã trước hết phải thấy được Trí Bình Đẳng Tánh của Thức Mạt Na trong Căn Thức và kế tiếp phải tìm cho ra lý do chấp trước của Tâm Thức Mạt Na để chuyển hoá, chẳng những thế muốn hoá giải tất cả hạt giống phiền não chứa trong Tâm Thức Thể Alaya phải nhờ Tâm Thức Mạt Na tẩy trừ, nguyên vì tất cả hạt giống phiền não trong kho Thức Thể Alaya đều do Tâm Thức Mạt Na quản lý. Người nào quán chiếu thấy được những nguyên lý quan hệ nói trên của Tâm Thức Mạt Na thứ bảy thế là người đó đã giác ngộ được nguyên lý Quán Tâm Trong Tâm.

4]- Quán Pháp Trong Pháp: nghĩa là quán các pháp trong một pháp. Con người là một pháp trong tất cả pháp do hình tướng của ngũ uẩn tạo nên. Quán Pháp là quán chiếu tìm hiểu bản tánh của ngũ uẩn trong con người từ đâu sanh ra và nguồn gốc của ngũ uẩn là những gì? Ngũ uẩn trong mỗi con người là thuộc về hình tướng đã tác dụng duyên sanh và bản tánh của ngũ uẩn là thuộc về nhân không và nguồn gốc của ngũ uẩn chính là chủng tử, cho nên Bát Nhã Tâm Kinh có câu: “Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều cũng như thế”. Từ đó có thể khẳng định bản tánh của ngũ uẩn trong con người thì hoàn toàn ở trạng thái không với hình thức chủng tử làm nguồn gốc và hành giả phải quán chiếu đến khi nào thấu triệt được bản tánh của ngũ uẩn từ đâu sanh ra là giác ngộ được phương cách quán pháp trong pháp.

Bốn cách quán chiếu Tứ Niệm Xứ của cấp thứ nhất chỉ giúp cho người tu tập giác ngộ được chân giá trị đích thực của bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp, đồng thời cũng giúp cho hành giả chặn đứng sự sinh hoạt của các phiền não tham dục chấp trước qua bốn lãnh vực nói trên. Hành giả mặc dù đã giác ngộ, mặc dù đã chặn đứng được sự sinh hoạt của các phiền não tham dục, chấp trước nhưng chưa phải là kẻ đã thành Phật, nguyên vì hành giả chưa chứng ngộ được nguồn gốc từ đâu sanh ra thể tánh của bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp và cũng chưa giải thoát khỏi sự quan hệ của các phiền não ràng buộc qua bốn lãnh vực này. Thí dụ, hành giả đã giác ngộ được nghiệp sân hận là tội lỗi nhưng chưa hẳn đã giải thoát khỏi sự quan hệ của nghiệp sân ràng buộc. Hành giả phải hành trì bốn cách quán chiếu của cấp thứ nhất cho được thuần thục rồi sau đó mới bước sang thực tập Tứ Chánh Cần của cấp thứ hai.

2.- TỨ CHÁNH CẦN:

Tứ Chánh Cần nghĩa là bốn phương pháp chuyên cần hành trì một cách chân chánh. Tứ Chánh Cần gồm có:

a- Điều ác đã sanh, phải chuyên cần diệt trừ.

b- Điều ác chưa sanh, phải chuyên cần ngăn ngừa.

c- Điều lành chưa sanh, phải chuyên cần khiến cho phát sanh.

d- Điều lành đã sanh, phải chuyên cần khiến cho tăng trưởng.

Mục đích của sự tu tập Tứ Chánh Cần là:

l- Cắt đứt mọi duyên ác ở bên ngoài khiêu khích để không cho các chủng tử ác bên trong Tâm Thức Alaya có cơ hội phát sanh.

2- Phát triển hạnh lành để bồi dưỡng các chủng tử thiện khiến cho nẩy nở và phát triển, nhờ đó các chủng tử thiện mới có năng lực để tẩy sạch các chủng tử ác trong Tâm Thức Alaya không cho tồn tại.

Theo nhà Duy Thức, các chủng tử thiện hiện có mặt trong Tâm Thức Alaya gồm có mười một Tâm Sở như: Tín, Tàm, Quý, Tinh Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si và Bất Hại (không sát sanh). Trong Tâm Thức Alaya, hai mươi sáu Tâm Sở phiền não tội ác hiện đang khống chế và chỉ đạo đời sống con người, đồng thời lấn áp không cho mười một Tâm Sở Thiện nẩy nở và phát triển. Người tu Tứ Chánh Cần bằng mọi cách làm thế nào giúp cho mười một hạt giống Tâm Sở Thiện có cơ duyên trưởng thành để chặn đứng và tiêu diệt hai mươi sáu hạt giống Tâm Sở bất thiện không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya. Theo đức Phật chỉ dạy, hành giả muốn tu tập Tứ Chánh Cần cho đạt được mục đích trước hết:

a]- Phải sử dụng giới luật nghiêm minh cắt đứt mọi duyên xấu ác bên ngoài để cô lập các hạt giống bất thiện không cho phát sanh. Giới luật của đức Phật chế định có hai mặt: mặt tiêu cực và mặt tích cực. Mặt tiêu cực của giới luật là cắt đứt mọi duyên xấu ác bên ngoài hiện đang khiêu khích nhằm để ngăn ngừa các điều ác nói trên không cho làm trợ duyên và đồng thời cô lập không cho các hạt giống xấu ác nẩy nở để khống chế cuộc sống tội lỗi. Còn mặt tích cực của giới luật là phát triển hạnh lành nhằm trợ duyên cho các hạt giống thiện trong Tâm Thức Alaya có cơ hội nẩy nở và phát triển để chỉ đạo cho cuộc sống an lạc giải thoát. Hai mặt tiêu cực và tích cực của giới luật do đức Phật chế định cụ thể như: về mặt tiêu cực của Giới Sát Sanh là chặn đứng tánh háo sát của chúng sanh và về mặt tích cực của Giới Sát Sanh là khuyến khích chúng sanh thực hiện phóng sánh nhằm để phát triển lòng từ bi càng thêm rộng lớn. Tất cả giới luật khác cũng đều có hai mặt như thế Các hành giả tu hạnh Tứ Chánh tan phải hành trì hai mặt của giới luật cho được tinh nghiêm.

b]- Ngoài việc chuyên cần sử dụng giới luật tích cực, hành giả còn phải tinh tấn phát triển tất cả hạnh lành khác như thực hiện hạnh giác tha và đi làm công tác lợi tha trên lãnh vực Tứ Nhiếp Pháp theo công thức Bồ Tát Hạnh “Độ chúng sanh bên ngoài để độ chúng sanh trong tâm” của Kinh Kim Cang chủ trương với mục đích bồi dưỡng khiến cho mười một hạt giống thiện nói trên trưởng thành và nhờ đó mới tiêu diệt được các hạt giống bất thiện trong Tâm Thức Alaya và đồng thời chỉ đạo cho cuộc sống thăng hoá trên con đường tiến tu đạo nghiệp. Theo Duy Thức Học, các điều kiện bên ngoài dù là phước thiện đến đâu thì chỉ có khả năng chặn đứng không cho các hạt giống xấu ác bên trong Tâm Thức Alaya sinh hoạt mà không thể tiêu diệt được chúng. Hành giả muốn tiêu diệt các hạt giống xấu ác bên trong Tâm Thức Alaya không gì hơn sử dụng các hạt giống thiện sẵn có để chuyển hoá chúng cho mất bản chất thì mới hữu hiệu hơn. Phương pháp tu Tứ Chánh Cần được thấy trong Kinh Tạp A Hàm quyển 31, về phương diện đoạn ác và tu thiện đã giải thích như sau:

a] Đoạn Đoạn: nghĩa là nổ lực khiến cho những điều ác đã sanh khởi vĩnh viễn dứt hẳn.

b] Luật Nghi Đoạn: nghĩa là nổ lực kiên trì giới luật, thận trọng trong việc oai nghi để khiến cho những điều ác chưa sanh khởi không còn cơ duyên để sanh khởi.

c] Tùy Hộ Đoạn cũng gọi là Phòng Hộ Đoạn: nghĩa là nổ lực hộ niệm chánh đạo vô lậu chưa sanh khởi khiến cho chúng nó tùy duyên sanh khởi.

d] Tu Đoạn: nghĩa là nổ lực năng tu chánh đạo khiến cho các điều thiện tăng trưởng thì tự nhiên đoạn trừ các điều ác.

Hành giả căn cứ theo những ý nghĩa nêu trên chuyên cần hành trì Tứ Chánh Cần không chút giãi đãi và hành trì đến khi nào phát khởi được năng lực tinh nhuệ thì chừng đó con đường đoạn ác tu thiện không khó khăn trên cuộc hành trình tu tập. Sau khi hành trì Tứ Chánh Cần của cấp thứ hai đã được thuần thục, hành giả mới bước sang thực tập Tứ Như Ý Túc của cấp thứ ba.

3.- TỨ NHƯ Ý TÚC:

Tú Như Ý Túc còn gọi là Tứ Thần Túc. Tứ Như Ý Túc nghĩa là bốn điều ước nguyện phải đạt được kết quả đầy đủ như ý. Tứ Thần Túc, theo Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 141 định nghĩa rằng: Tất cả ước nguyện đều được như ý nên gọi là Thần và Thần Lực đó đã được dẫn phát nên gọi là Thần Túc. Y cứ nơi những điều đã ước nguyện luôn luôn hành trì đến khi nào năng lực chuyên cần đã dẫn phát và lại nương tựa nơi năng lực chuyên cần gia trì đó phát huy các thứ Thần Lục tác dụng nên gọi là Tứ Thần Túc. Tứ Như Ý Túc gồm có:

a- Dục Như Ý Túc,

b- Tinh Tấn Như Ý Túc,

c- Tư Duy Như Ý Túc,

d- Niệm Như Ý Túc hoặc Định Như Ý Túc.

Tứ Như Ý Túc hay Tứ Thần Túc có nhiều kinh luận trình bày mỗi cách khác nhau, nhưng tất cả đều đặt trên nền tảng tu tập trong giai đoạn Thiền Quán và ở đây không còn hành trì theo cơ bản của Thiền Chỉ. Trong giai đoạn tu tập Thiền Quán, Tứ Như Ý Túc hay Tứ Thần Túc mặc dù có nhiều cách giải thích của mỗi kinh luận, nhưng chung quy không ngoài bốn cách giải thích sau đây:

1- Dục Như Ý Túc: nghĩa là những điều ước nguyện phải đạt được như ý, nói cách khác, các pháp môn tu tập một khi phát nguyện thọ trì thì bất cứ giá nào phải đạt cho được như ý.

2- Tinh Tấn Như Ý Túc: nghĩa là tinh tấn giữ gìn tư tưởng tốt, loại bỏ tư tưởng xấu, đồng thời siêng năng cần mẫn tu tập cách chuyên chú, một cách nhất tâm những pháp môn đã chọn để đạt đến kết quả viên mãn như ý.

3- Tư Duy Như Ý Túc: nghĩa là tham cứu đạo lý và tư duy hay quán chiếu yếu chỉ của các pháp môn tu tập một cách minh liễu như ý muốn, nắm vững yếu chỉ của các kinh luận không cho thất thoát và thiếu sót.

4- Niệm Như Ý Túc hay Thiền Định Như Ý Túc: nghĩa là khi tu tập thiền định phải nhớ rõ các cảnh giới thiền quán và mỗi khi niệm đến những cảnh giới thiền quán đã đạt được liền xuất hiện như ý muốn, không cần phải dụng công quán chiếu nữa.

Hành giả hành trì Tứ Như Ý Túc của cấp thứ ba cho được thuần thục rồi sau đó mới bước sang thực tập Ngũ Căn của cấp thứ tư.

4. NGŨ CĂN:

Chữ Căn trong Ngũ Căn có nhiều kinh luận giải thích. Chữ Căn theo Luận Câu Xá quyển 2 giải thích: “Căn nghĩa là gì? Tối thắng tự tại quang hiển gọi là căn. Do vậy có nghĩa là tăng lên”. Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 4 giải thích chữ Căn như: “Có khả năng sanh ra thì gọi là Căn”. Câu Xá Quang Ký quyển 3 giải thích chữ Căn như: “Thắng dụng tăng thượng nên gọi là Căn”. Qua những lời giải thích của các kinh luận cho chúng ta thấy chữ Căn của Ngũ Căn nhất định không phải chỉ cho năm giác quan của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân thể mà chữ Căn ở đây chính là mang ý nghĩa căn bản cho gốc rễ có khả năng sanh sản và trưởng thành cũng như gốc rễ của cỏ cây có năng lượng tăng trưởng để thành hoa trái. Còn chữ Căn thuộc về giác quan chỉ làm chỗ nương tựa (sở y) cho Tâm Thức sinh hoạt để hiểu biết vạn pháp là danh từ chuyên môn của Duy Thức và danh từ này về sau mới thiết lập. Chữ Căn của giác quan thì thuộc về vật lý kết hợp và chữ Căn của Ngũ Căn thì thuộc về tâm lý hình thành, cả hai hoàn toàn khác nhau. Ngũ Căn thì có công năng sanh ra tất cả thiện pháp và Ngũ Căn gồm có:

a- Tín căn,

b- Tấn căn,

c- Niệm căn,

d- Định căn,

e- Huệ căn.

1- Tín Căn: là đức tin căn bản, nghĩa là phải xây dựng đức tin cho được kiên cố, cho được bền vững. Đức tin thì khác hơn niềm tin. Niềm Tin nghĩa là tin tưởng chưa được kiên cố, còn chút nghi ngờ ở trong, chưa đặt trọn tâm mình vào sự tin tưởng đó. Đức tin nghĩa là đặt trọn tâm mình tin tưởng vào pháp chánh đạo, tin tưởng vào pháp trợ đạo có thể phát sanh tất cả pháp thiền định vô lậu và giải thoát. Muốn xây dựng đức tin cho được kiên cố, hành giả phải cố gắng tu tập văn huệ và tư huệ trong các kinh luận của đức Phật chỉ để biện minh cho đức tin.

2- Tấn Căn: nghĩa là chuyên cần hành trì các pháp môn tu tập liên tục không cho gián đoạn và không cho tạp niệm chen vào, hành trì cho đến khi nào đạt được ba la mật dù là khó khăn thế nào cũng không cảm thấy mệt mỏi, cũng không thối chí ngã lòng.

3- Niệm Căn: nghĩa là tâm niệm căn bản. Tâm Niệm Căn Bản là tâm niệm chuyên nhất (nhất tâm) vào vấn đề chánh pháp một cách tự tại có căn bản và mỗi khi niệm đến chánh pháp nào để ứng dụng là chánh pháp đó xuất hiện ngay một cách tự nhiên mà không cần phải qua giai đoạn quán tưởng.

4- Định Căn: là thiền định có căn bản. Thiền định có căn bản nghĩa là đi vào thiền định nhiếp tâm một cách tự tại mà không cần phải qua giai đoạn điều tâm và đi vào lãnh vực quán chiếu để tìm thể tánh của Thiền Cảnh mà không cần phải qua phương thức cơ bản của Thiền Chỉ. Hành giả nào đạt được trạng thái này thì họ đi, đứng, nằm, ngồi đều tĩnh lặng trong thiền định.

5- Huệ Căn: là trí tuệ căn bản. Trí tuệ căn bản là trí tuệ thâm sâu của Bản Tâm mà nó không phải là trí tuệ của Ý Thức thứ sáu. Trí tuệ thâm sâu của Bản Tâm có khả năng soi tỏ vạn pháp một cách minh liễu, khiến cho Ý Thức hiểu biết trực giác không qua ảo giác của ảnh tử và nhờ đó sự hiểu biết của Ý Thức không lầm lẫn mà cũng không thiếu sót.

Hành giả xây dựng Ngũ Căn của cấp thứ tư đến khi nào đạt được thuần thục thì sau đó mới bước sang thực tập Ngũ Lực của cấp thứ năm.

5.- NGŨ LỰC:

Ngũ Lực nghĩa là bồi dưỡng năm thứ năng lực cho được phát huy. Năm thứ năng lực một khi đã được phát huy thì có khả năng đoạn trừ tất cả ác pháp và phát triển tất cả thiện pháp. Ngũ Căn sau khi có chất lượng kiên cố thì Ngũ Lực tự nhiên có nguồn thể năng lực hữu dụng để phát huy. Ngũ Lực gồm có:

a- Tín lực,

b- Tấn lực,

c- Niệm lực,

d- Định lực,

e- Huệ lực.

l- Tín Lực: là năng lực của Tín Căn, năng lực này một khi phát huy có công dụng phá trừ các nghi hoặc, biện biệt mọi tà thuyết, hoá giải mọi thứ mê tín dị đoan, phân loại một cách minh bạch được một thứ chân vọng, đúng sai, phải quấy, đưa hành giả đivào con đường quang minh chánh tín.

2- Tấn Lực: là năng lực của Tấn Căn, năng lực này một khi phát huy có công dụng phá trừ căn bệnh lười biếng, trị liệu cố tật trễ nải trong công việc tiến tu đạo nghiệp và thúc đẩy ý chí của hành giả hăng say trên sự nghiệp đạt đạo giải thoát mà không cảm thấy mệt mỏi hay chán nản để rồi phải bỏ cuộc giữa đường.

3- Niệm Lực: là năng lực của Niệm Căn, năng lực này một khi phát huy có công dụng phá trừ được tà niệm, hoá giải được tà tâm và hướng dẫn hành giả tạo dựng thành tựu nhiều công đức chánh niệm xuất thế.

4- Định Lực: là năng lực của Định Căn, năng lực này một khi phát huy có công năng phá trừ các loạn tưởng và đưa hành giả đi vào nhứt tâm trong thiền quán để trực diện được thể tánh của các thiền cảnh một cách tự tại mà không cần phải qua giai đoạn quán tưởng.

5- Huệ Lực: là năng lực của Huệ Căn, năng lực này một khiphát huy có công năng phát trừ kiến hoặc và tư hoặc của ba cõi, soi thủng nguồn gốc của vô minh phiền não, minh định rõ ràng chân vọng, chánh tà, hư thực của vạn pháp, chỉ đạo cho hành giả đi thẳng vào quả vị Vô Thượng Bồ Đề.

Có thể khẳng định, người nào đã có Ngũ Căn kiên cố thì người đó sẽ phát sanh Ngũ Lực như đã giải thích ở trên. Thí dụ ngườinào có Tín Căn kiên cố thì người đó đối với bất cứ sự việc gì đều cũng nhờ có Tín Lực tự động tuyển trạch phân minh, tự động biết cách chọn lựa đúng sai, chân vọng v.v... không chút lầm lẫn. Nói chung lại, Hành giả một khi có được năm Căn kiên cố nói trên thì năm Lực tự nhiên có đầy đủ chất lượng và năm Lực này chỉ chờ cơ hội phát sanh để làm phương châm cho sự sinh hoạt của hành giả. Trong giai đoạn tu tập, hành giả cố gắng hành trì Ngũ Lực của cấp thứ năm cho được phát huy để chỉ đạo cho nếp sống chân chánh và hành trì đến khi nào thuần thục thì sau đó mới bước sang thực tập Thất Giác Chi của cấp thứ sáu.

6.- THẤT GIÁC CHI:

Thất Giác Chi còn gọi là Thất Bồ Đề Phần. Chữ Phần là tên khác của chữ Chi. Chữ Bồ Đề là tên khác của chữ Giác. Thất Giác Chi hay Thất Bồ Đề Phần đều có nghĩa như nhau.

Thất Giác Chi là bảy yếu tố hay bảy pháp môn khai ngộ nhằm mục đích truy tầm nguồn thể của trí tuệ, soi sáng thể tánh của các pháp qua sự tu tập thiền quán để bắt nhịp cầu đi vào cảnh giới Niết Bàn Vô Dư chân thật bất diệt. Nội dung Thất Giác

Chi gồm có:

a- Niệm Giác Chi,

b- Trạch Pháp Giác Chi,

c- Tinh Tấn Giác Chi,

d- Hỷ Giác Chi,

e- Khinh An Giác Chi,

g- Định Giác Chi,

h- Xả Giác Chi.

1- Niệm Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí (bố thí), niệm Giới (giới luật) khiến cho niệm lực phát sanh và dùng niệm lực này điều khiển bản tâm sáng suốt đi vào thiền định tam muội.

2- Trạch Pháp Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực quán chiếu nguyên lý chân thật của các pháp, phân biệt tánh tướng của vạn hữu một cách rõ ràng, loại bỏ những pháp hư ngụy mê vọng và chọn lựa tinh tường những yếu chỉ thâm sâu mầu nhiệm của Phật Pháp (trạch là phân biệt).

3- Tinh Tấn Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ thúc đẩy Dũng Lực phát sanh để nổ lực tham cầu Vô Thượng Bồ Đề, chuyên cần tu tập các pháp vô lậu không gián đoạn và tu tập đến khi nào đạt được Phật quả mới thôi. Người có dũng lực là người dám hy sinh cho lý tưởng và sẵn sàng tình nguyện hiến dâng cuộc đời để phục vụ lý tưởng, như năm 1963, Bồ Tát Thích Quãng Đức nêu gương dũng lực nguyện làm ngọn đuốc thiêu thân để cứu nguy Phật Giáo Việt Nam bị chế độ Ngô Đinh Diệm đàn áp.

4- Hỷ Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực quán chiếu các pháp chân thật vô lậu giải thoát và quán chiếu đến khi nào pháp hỷ nơi tự tâm được phát sanh là thành công làm tư lương cho cuộc hành trình đi vào thế giới Niết Bàn Vô Dư của Thiền Quán.

5- Khinh An Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực quán chiếu để cắt đứt mọi duyên và đoạn trừ các phiền não của kiến văn giác tri, quán chiếu đến khi nào cảm thấy thân tâm được nhẹ nhàng yên tĩnh, thản nhiên trong bất cứ hoàn cảnh nào và tự tại trước mọi chướng duyên, không bị bát phong ảnh hưởng (Bát Phong: Lợi [thành], Suy [bại], Hủy [chê], Dự [khen], Xưng [ca tụng], Cơ [chế riễu], Khổ [đau khổ], Lạc [sung sướng].

6- Định Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực quán chiếu khiến cho Thiền Định Tam Muội phát sanh để giác liễu các cảnh giới của thiền quán, cảnh giới từ Sơ Thiền trở lên cho đến cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định.

7- Xã Giác Chi: nghĩa là dùng Huệ Lực của Ngũ Lực làm dẫn Tâm đi thẳng vào Định Vô Tưởng và xã bỏ mọi sự quán tưởng của Ý Thức, đồng thời không an trụ bất cứ cảnh giới nào đã đạt được của thiền quán và Tâm quán chiếu đến khi nào ngộ nhập được tri kiến của Phật mới thôi, nghĩa là quán chiếu đến khi nào Vô Tác Diệu Lực của Như Lai phát sanh là thành công.

Hành giả hành trì Thất Giác Chi của cấp thứ sáu đến khi nào được thuần thục rồi sau đó mới bước sang hành trì Bát Chánh Đạo của cấp thứ bảy.

7.- BÁT CHÁNH ĐẠO:

Bát Chánh Đạo nghĩa là tám con đường chân chánh hay tám phương pháp chân chánh để đạt đến quả vị Niết Bàn Tịch Tịnh. Tám phương pháp này là xa lìa hết mọi thứ tà pháp và phi pháp, cho đến không còn chấp trước những pháp phương tiện hữu lậu nữa nên gọi là chánh và tám phương pháp này có thể đưa người đạt đến quả vị Niết Bàn tịch tịnh nên gọi là đạo. Nói cách khác, Bát Chánh Đạo còn có nghĩa nữa là tám cách sống trong đạo lý chân chánh của các bậc Thinh Văn sau khi thành quả sáu cấp tu tập trước để chuẩn bị hành trang cho việc bước vào thế giới Niết Bàn Vô Dư. Bát Chánh Đạo ở đây không phải là cách tu mà là cách sống trong đạo lý chân chánh của những bậc đã đạt đến Niết Bàn Hữu Dư. Bát Chánh Đạo gồm có:

a- Chánh Tri Kiến: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể để sống trong sự thấy và biết chân chánh, tức là nhận chân và tự tại trước nguyên lý của khổ tập diệt đạo, thấy rõ có thiện nghiệp ác nghiệp thì có thiện báo ác báo, có cõi này thì có cõi kia, có cõi vọng thì có cõi chân, có sanh thì có diệt, có sự thì có lý, có lúc mê lầm ra đi thì phải có ngày tỉnh ngộ để trở về. Hành giả lấy trí tuệ vô lậu để soi sáng cuộc đời và tự tại trước những hoàn cảnh nói trên là đã sống trong đạo lý tri kiến chân chánh.

b- Chánh Tư Duy: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể sống trong sự suy xét chân chánh, tức là phát huy ý chí chân chánh để tìm xét chỉ thú cứu cánh chân thật của tất cả pháp, như xem một quyển kinh nào phải nắm vững yếu chỉ của Phật dạy trong quyển kinh đó qua sự suy xét. Tất cả pháp trong thế gian đều có điểm cứu cánh của chúng, cũng như tất cả kinh luận của Phật nói đều có yếu chỉ của mỗi pháp môn. Hành giả lấy trí tuệ vô lậu nắm vững chỉ thú cứu cánh chân thật của tất cả pháp, cũng như nắm vững yếu chỉ của các pháp môn Phật dạy nơi các kinh luận là đã sống trong đạo lý tư duy chân chánh.

c- Chánh Ngữ: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể luôn luôn sống xa lìa vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu và lấy sự truyền bá chánh pháp làm lý tưởng, không cổ võ những pháp bất chánh. Người sống trong chánh ngữ là không bao giờ nói dối như không chụp mũ, không vu khống, không loan tin thất thiệt; không nói những lời thêu dệt như không nói dụ dỗ, không nói lường gạt để mê hoặc mọi người; không nói lưỡi nói đôi chiều như không nói những lời gây chia rẻ, gây căm thù; không nói những lời hung ác như không nguyền rủa, không chửi mắng, không thề thốt và họ luôn luôn nói những lời chân thật và ái ngữ. Hành giả lấy trí tuệ vô lậu không nói những điều tác hại nêu trên và trọn đời chỉ biết truyền bá chánh pháp làm nhiệm vụ là đã sống trong đạo lý chánh ngữ.

d- Chánh Nghiệp: nghĩa là lấy trí tuệ vô hậu làm thể luôn luôn chọn nghề chân chánh để sống và lấy giới vô lậu làm phương châm để phát huy giới thân huệ mạng cho sự nghiệp giải thoát. Hành giả biết chọn những nghề nghiệp không gây tác hại cho chúng sanh và chuyên cần hành trì giới luật đã thọ cho được tinh nghiêm là đã sống trong đạo lý chánh nghiệp.

e- Chánh Mạng: lấy trí tuệ vô lậu làm thể luôn luôn hành nghề chân chánh để tiến thân và lấy giới thân huệ mạng đã thọ để nuôi thân. Người sống theo Chánh Mạng là phải giữ gìn thân miệng ý trong chánh pháp và không sử dụng ngũ tà mệnh để cầu những phương tiện lợi dưỡng cho bản thân như cầu y phục, ăn uống, giường nệm, thuốc thang v.v... để cung phụng cho thân giả tạo hưởng thụ. Theo Luận Trí Độ quyển 19 giải thích, Ngũ Tà Mệnh là năm thứ không đúng chánh pháp để mưu sinh. Ngũ Tà Mệnh gồm có:

1) Trá Hiện Dị Tướng: nghĩa là đối với người thế tục, dối trá hiện ra tướng kỳ dị đặc biệt khác lạ để cầu lợi dưỡng.

2) Tự Thuyết Công Năng: nghĩa là tự khoe công đức và tài năng của mình để cầu lợi dưỡng.

3) Chiêm Tướng Kiết Hung: nghĩa là làm nghề xem tướng, coi tay, bói toán kiết hung để cầu lợi dưỡng.

4) Cao Thanh Hiện Uy: nghĩa là nói năng huênh hoang cố tỏ uy thế của mình để cầu lợi dưỡng.

5) Thuyết Sở Đắc Lợi Dĩ Động Nhân Tâm: nghĩa là đem chỗ được lợi đi khoe khoang với mọi người khiến họ động tâm để cầu lợi dưỡng.

Hành giả luôn luôn giữ gìn thân miệng ý đúng theo chánh pháp và không tham cầu lợi dưỡng theo năm tà mệnh để nuôi thân là sống trong đạo lý chánh mạng.

g- Chánh Tinh Tấn: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể tiến tu đạo nghiệp một cách chân chánh, không tu theo sở thích, không tu sai yếu chỉ của Phật dạy trong mỗi pháp môn mình đã chọn, không chạy theo tà thuyết của ngoại đạo, không phục vụ cho những điều sai lầm làm tổn hại đến đạo giác ngộ và giải thoát. Hành giả luôn luôn lấy trí tuệ vô lậu sáng để tiến tu pháp môn vô lậu giải thoát là đã sống trong đạo lý chánh tinh tấn.

h- Chánh Niệm: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể luôn luôn niệm đến pháp môn vô lậu giải thoát và đào thải các pháp môn hữu lậu phương tiện, đồng thời ý niệm thân thể, cảm quan, tâm linh đều là vô ngã và ý niệm mãi đến khi nào năng lực vô ngã thể hiện chỉ đạo cho cuộc sống tự tại giải thoát: Hành giả lấy trí tuệ vô lậu để soi sáng các pháp môn vô lậu thanh tịnh và phát huy được năng lực vô ngã để chỉ đạo cho mọi sự sinh hoạt là đã sống trong đạo lý chánh niệm.

k- Chánh Định: nghĩa là lấy trí tuệ vô lậu làm thể để đạt đến thiền định vô lậu tam muội của chư Phật, không còn vướng mắc bởi những thiền định phương tiện hữu lậu nữa, nghĩa là công còn vướng mắc bởi những phương pháp điều tức, điều thân, điều tâm nữa, không còn phải tư duy tìm cầu của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền v.v... Hành giả lấy trí tuệ vô lậu để nhập thiền định vô lậu tam muội và lấy thiền định vô lậu tam muội làm thể giải thoát là đã sống trong đạo lý chánh định.

Tóm lại, ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của Đạo Đế là phương pháp tu tập Thiền Quán do chính đức Phật phát minh để làm phương châm tiến tu đạo nghiệp cho các đệ tử hành trì. Theo đức Phật chỉ dạy, Đạo Đế không phải chỉ riêng có Bát Chánh Đạo là độc nhất và phương pháp Thiền Quán cũng không phải chỉ có Tứ Niệm Xứ là pháp môn trên hết mà tất cả trong đó gồm có ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo. Trong ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của Đạo Đế, Tứ Niệm Xứ thì chỉ có giá trị giúp cho hành giả giác ngộ được mọi duyên của Khổ Đế và chặn đứng mọi sự khống chế của Tập Đế mà không phải tiêu diệt hết nguồn gốc phiền não của Tập Đế. Tứ Chánh Cần mới là phương pháp tiêu diệt nguồn gốc phiền não của Tập Đế và Tứ Như Ý Túc là phương pháp trợ lực cho Tứ Chánh Cần sớm thành công trong sứ mạng tận diệt nguồn gốc phiền não của Tập Đế. Ngũ Căn và Ngũ Lực là những phương pháp đào luyện trí tuệ vô lậu trong giai đoạn tu tập Thiền Quán sau khi diệt hết nguồn gốc phiền não của Tập Đế. Thất Giác Chi là phương pháp quán chiếu bằng trí tuệ vô lậu đã đạt được để tìm nguồn thể của trí tuệ và soi sáng thể tánh chân thật của các pháp. Bát Chánh Đạo là những cách sống tự tại giải thoát của những bậc chánh hạnh trong sự an lạc thanh tịnh của Diệt Đế. Có thể nói, từ Tứ Niệm Xứ cho đến Tứ Như Ý Túc là những phương pháp tu tập thuộc giai đoạn tiêu cực và từ Ngũ Căn cho đến Bát Chánh Đạo là những phương pháp tu tập thuộc giai đoạn tích cực. Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo chính là những pháp môn dễ tu nhất và phổ thông nhất đối với mọi từng lớp chúng sanh trên con đường cầu đạo Bồ Đề.

II - PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU TÂM BỆNH QUA SỰ TU TẬP:

Phương pháp trị liệu tâm bệnh của Duy Thức Học là môn tu tập để tẩy sạch tất cả hạt giống 51 Tâm Sở trong Tâm Thức Alaya nơi mỗi con người cho được thanh tịnh. 51 Tâm Sở thì thuộc về loại tâm lý mà chúng nó không phải là những loại tâm thức, nguyên vì những tâm lý này không có khả năng hiểu biết như tâm thức. 51 Tâm Sở còn được gọi là những tâm bệnh vì chúng nó đều mang tánh chất nghiệp lực được nội kết từ vô lượng kiếp về trước đã trở thành hạt giống kiến cố trong Tâm Thức Alaya, mặc dù trong đó có những Tâm Sở rất cần thiết cho việc hiểu biết vạn pháp của các Tâm Thức. Trường hợp như 11 Tâm Sở Thiện chỉ là những hạt giống thật vô cùng hữu ích đối với các chúng sanh hữu tình sống trong những cõi mê vọng mà chúng nó hoàn toàn không có giá trị đối với những bậc đã chứng quả Bồ Đề. Điển hình như giới cấm Dâm Dục, một trong năm giới của Phật chế chỉ có giá trị ở những cõi Dục và nó hoàn toàn không giá trị ở những cõi Sắc và Vô Sắc. Nguồn gốc phát sanh 51 Tâm Sở chính là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp của mỗi chúng sanh tự gây tạo lâu đời qua hành động, qua nói năng và qua ý tưởng được trải dài theo sự cuốn hút của định luật luân hồi chuyển biến trong ba cõi.

Trên lãnh vực tu tập, Duy Thức Học chủ trương dùng tâm lý trị liệu tâm lý, nghĩa là sử dụng tâm lý Vô Tham để tiêu diệt tâm lý Tham, sử dụng tâm lý Vô Sân để tiêu diệt tâm lý Sân v.v... Hành giả muốn tiêu diệt 51 hạt giống Tâm Sở trong Tâm Thức Alaya, trước hết phải tận dụng giới luật tối đa của đức Phật chỉ dạy cho thuần thục nhằm chặn đứng tất cả sự ảnh hưởng của năm dục lạc bên ngoài (tài, sắc, danh, thực, thùy) và sau đó mới áp dụng phương pháp dùng tâm lý trị liệu tâm lý. Theo Duy Thức Học, hành giả không thể nào và cũng không đủ sức cùng một lúc tiêu diệt toàn bộ 51 Tâm Sở đã châm rễ kiến có lâu đời trong Tâm Thức Alaya. Muốn tiêu diệt 51 hạt giống Tâm Sở này, hành giả phải biết đặc tánh từng nhóm một và sau đó mới cắt đứt mọi sự quan hệ của chúng trong Tâm Thức Alaya trước khi hành động tẩy trừ.

Nhờ biết được đặc tánh của mỗi nhóm, hành giả có thể phân loại nhóm nào cần phải tiêu diệt trước và nhóm nào lần lượt sẽ tiêu diệt sau. Như ở phần trên đã trình bày, trong 51 Tâm Sở, năm Tâm Sở Biến Hành thì thuộc loại vô phú vô ký, năm Tâm Sở Biệt Cảnh thì thuộc loại hữu phú vô ký, 11 Tâm Sở Thiện thì thuộc loại tánh thiện, 6 Tâm Sở Phiền Não Căn Bản thì thuộc loại cội gốc của sanh tử luân hồi, 20 Tâm Sở Tùy Phiền Não thì thuộc loại tánh ác và 4 Tâm Sở Bất Định thì thuộc loại ba phải, nghĩa là bốn loại này có lúc chạy theo những Tâm Sở thiện để tiêu diệt những Tâm Sở Ác và có lúc chạy theo những Tâm Sở Ác để tiêu diệt những Tâm Sở Thiện, cho nên nhà Duy Thức đặt cho bốn Tâm Sở này với danh nghĩa là bất định. Kỹ thuật dùng tâm lý trị liệu tâm lý được nhận định như sau:

A- PHÁT HUY TÂM SỞ THIỆN:

Nơi mỗi con người, ai cũng có sẵn 11 hạt giống tâm Sở Thiện trong tâm Thức Alya mà những hạt giống này đều là điều kiện tốt nhất và thuận lợi nhất cho việc hóa giải những hạt giống Tâm Sở thuộc loại xấu ác đã có mặt trong nội tâm bằng phương pháp dùng trị liệu tâm lý. Muốn hóa giải những Tâm Sở xấu ác trong tâm Thức Alya, hành giả trước hết phải chuyên cần tu tập Tứ Chánh Cần một trong ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của đức Phật chế cho thuần thục nhằm mục đích tăng trưởng nội lực cho 11 hạt giống Tâm Sở Thiện. Nội lực của 11 hạt giống tâm Sở Thiện khi được phát triển lớn mạnh thì mới đủ khả năng hóa giải tận gốc rễ các Tâm Sở xấu ác. Trường hợp này cũng giống như nhà nông đã gieo sẵn những hạt giống lúa. Họ muốn những hạt giống lúa hội đủ điều kiện nảy nở và phát triển không gì hơn ra công vun phân tưới nước cho chúng. Nhờ vun phân tưới nước của nhà nông, những hạt lúa mới hội đủ nhân duyên để nảy nở và đơm hoa kết hạt. Hành giả chuyên cần tu tập Tứ Chánh Cần chính là vun phân tưới nước cho 11 hạt giống Tâm Sở Thiện tăng trưởng nội lực. Nội lực của 11 Tâm Sở Thiện một khi đã được nẩy nở thì Tâm Thức của hành giả tự nhiên cảm thấy an vui, cảm thấy thích thú và say mê trong việc phát triển hạnh lành. Những hiện tượng cảm thấy nêu trên khi nào xuất hiện là lúc đó chứng tỏ hành giả đã hội đủ điều kiện cho việc bắt đầu thực hiện tiến trình hoá giải những Tâm Sở xấu ác trong Tâm Thức Alaya.

B.- KỸ THUẬT HÓA GIẢI:

Theo Duy Thức Học, hành giả phải tận dụng nội lực của 11 hạt giống Tâm Sở Thiện bên trong đầu tiên hoá giải 8 hạt sống Tâm Sở Đại Tùy. Tám hạt giống Tâm Sở Đại Tùy là những tâm lý thuộc loại đần độn, cục mịch, chậm chạp, thô lỗ, mỗi khi sinh hoạt thường khiến con người thể hiện hành động thiếu phong cách, thiếu tao nhã, thiếu linh hoạt và thiếu lễ độ, nhưng gốc rể của tám Tâm Sở này không ăn sâu và không bám chặt trong Tâm Thức Alaya như các Tâm Sở khác cho nên vấn đề hoá giải chúng nó của hành giả cũng không khó khăn cho lắm. Ngoài 8 loại Tâm Sở này ra, hành giả muốn tiêu diệt các hạt giống Tâm Sở còn lại đòi hỏi phải công phu cho nhiều mới có thể hóa giải.

C- CÁCH THỨC HÓA GIẢI:

Không những chỉ có tám Tâm Sở Đại Tùy và bất cứ Tâm Sở xấu ác nào muốn tiêu diệt, hành giả khi sử dụng 11 hạt giống Tâm Sở Thiện để hoá giải, trước hết phải nhờ đến 5 Tâm Sở Biến Hành, 5 Tâm Sở Biệt Cảnh ra sức hỗ trợ và đồng thời cũng phải kéo 4 Tâm Sở Bất Định quay về hợp tác để công trình tu tập khỏi bị trở ngại nhiều. Nhằm tránh đêm dài lắm mộng cho công cuộc tu tập hoá giải của mình, đây là điều kiện tiên quyết mà hành giả phải thực hiện cho bằng được.

1/- HÓA GIẢI TÁM TÂM SỞ ĐẠI TÙY:

Tám hạt giống Tâm Sở Đại Tùy gồm có: Trao Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Tán Loạn, Thất Niệm và Bất Chánh Tri. Tám tâm lý này là những thứ phiền não thuộc loại tật xấu thường làm mất đi phong cách biểu tượng của một kẻ lãnh đạo và cũng không thể có trong con người tu tập đạo giác ngộ. Trong tám Tâm Sở Đại Tùy, mỗi Tâm Sở đều hoàn toàn khác nhau tánh chất. Cho nên hành giả vô cùng khó khăn trong sự tiêu diệt luôn một lúc toàn bộ tám Tâm Sở Đại Tùy và phải căn cứ theo tâm bệnh của mỗi Tâm Sở để hoá giải từng bộ phận một cho được hữu hiệu hơn. Phương thức hóa giải tám Tâm Sở Đại Tùy được trình bày như sau:

1]- TÂM SỞ TRẠO CỬ:

Sự tác dụng của Tâm Sở Trao Cử là khiến thân thể hay lời nói hoặc ý tưởng của con người trở nên bất an. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung ý Thức để kềm chế sự trạo cử của con người và sau đó điều khiển Thức Mạt Na (Ý Chí) phát huy hai Tâm Sở: Tâm Sở Hành Xả của 11 Thiện và Tâm Sở Định của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Trạo Cử. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hổ trợ Tâm Sở Hành Xả và Tâm Sở Định hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Trạo Cử không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

2]- TÂM SỞ HÔN TRẦM:

Sự tác dụng của Tâm Sở Hôn Trầm là khiến con người trở nên đần độn trước mọi hoàn cảnh. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này, trước hết phải tập trung Ý Thức chăm chú những sự việc mà mình lắng nghe và sau đó cũng điều khiển Thức Mạt Na (Ý Chí) phát huy ba Tâm Sở: Tâm Sở Vô Si, Tâm Sở Khinh An của 11 Thiện và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hóa giải hạt giống Tâm Sở Hôn Trầm. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 9 Tâm Sở Thiện còn lại hổ trợ cho Tâm Sở Vô Si, Tâm Sở Khinh An và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Hôn Trầm không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

3]- TÂM SỞ BẤT TÍN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Bất Tín là khiến con người hay đa nghi trước mọi vấn đề. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng áp dụng theo như phương thức hoá giải hai Tâm Sở Trạo Cử và Hôn Trầm đã được trình bày ở trên, nghĩa là trước hết phải tập trung Ý Thức nhận định những sự việc mà mình nghi kỵ và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Tín của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Bất Tín.

Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hổ trợ cho Tâm Sở Tín hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Bất Tín không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

4]- TÂM SỞ GIẢI ĐÃI:

Sự tác dụng của Tâm Sở Giải Đãi là khiến con người hay sanh lười biếng và trễ nãi. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng như trước tập trung Ý Thức trói buộc sự lười biếng và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Tinh Tấn của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Giải Đãi. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Tinh Tấn hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Giải Đãi không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

5]- TÂM SỞ PHÓNG DẬT:

Sự tác dụng của Tâm Sở Phóng Dật là khiến con người thích sống buông thả theo dục lạc thế gian. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng tập trung Ý Thức để trói buộc sự buông lung và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Tinh tấn của 11 Thiện trực tiếp hóa giải hạt giống tâm Sở Phóng Dật. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Tinh Tấn hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Phóng Dật không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

6]- TÂM SỞ TÁN LOẠN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Tán Loạn là khiến con người luôn luôn bị phân tâm. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng tập trung Ý Thức để trói buộc sự phân tâm và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy ba Tâm Sở: Khinh An của 11 Thiện, Định và Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Tán Loạn. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến thức Mạt Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Khinh An, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Tán Loạn không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

7]- TÂM SỞ THẤT NIỆM:

Sự tác dụng của Tâm Sở Thất Niệm là khiến con người lãng quên. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng tập trung Ý Thức để trói buộc sự lãng quên và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy hai Tâm Sở: Tâm Sở Vô Si của 11 Thiện và Tâm Sở Định của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Thất Niệm. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Si và Tâm Sở Định hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Thất Niệm không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

8]- TÂM SỞ BẤT CHÁNH TRI:

Sự tác dụng của Tâm Sở Bất Chánh Tri là khiến con người hiểu biết sai lầm mọi vấn đề. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì cũng tập trung Ý Thức để nhận định sự việc và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy ba Tâm Sở: Tâm Sở Vô Si của 11 Thiện, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Bất Chánh Tri. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Si, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tấm Sở Bất Chánh Tri không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

Hành giả sau khi hoá giải xong tám hạt giống Tâm Sở Đại Tùy không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya thế là đã hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của chúng trong mọi lãnh vực sinh hoạt và cũng từ đó lấy lại được phong độ của một con người biểu tượng đáng giá. Tám hạt giống Tâm Sở Đại Tùy khi đã bị tiêu diệt thì nội lực của 18 hạt giống Tâm Sở Phiền Não còn lại trong Tâm Thức Alaya trở nên mất đi tư thế sinh hoạt. Cường độ hoạt động của 18 tâm lý này nơi mỗi con người không còn hùng hậu và cũng không còn tung hoành ngang dọc như xưa. Nếu hoá giải được như thế, hành giả thực sự đã bước qua giai đoạn một của sự tu tập đạo giải thoát và giác ngộ.

2/- HÓA GIẢI HAI TÂM SỞ TRUNG TÙY:

Hai hạt giống Tâm Sở Trung Tùy gồm có Vô Tàm và Vô Quý. Hai Tâm Sở này cũng là những thứ phiền não luôn luôn trợ duyên cho những tội lỗi càng tăng trưởng thêm lớn và cũng ngăn trở những điều thiện không cho cơ hội để phát triển. Hai Tâm Sở Vô Tàm và Vô Quý thường liên kết với các Tâm Sở Bất Thiện khác để tạo thêm thế lực rộng lớn cho việc hành hoạt bất chánh của mình ngõ hầu thoả mãn những dục lạc cá nhân. Bất cứ người nào nếu như bị hai Tâm Sở này khống chế thì kể như thanh danh của họ tự chôn vùi sâu thẳm giá trị cá nhân và gây tạo thêm nhiều nghiệp báo tội ác thù oán. Phương thức hóa giải hai Tâm Sở Vô Tàm và Vô Quý được trình bày như sau:

1]- TÂM SỞ VÔ TÀM:

Sự tác dụng của hạt giống Tâm Sở Vô Tàm là khiến con người không biết xấu hổ với lương tâm và không biết tôn trọng danh dự cá nhân mỗi khi làm những việc tội lỗi. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức nhận định sự lợi hại của những tội lỗi mà mình đang hành hoạt và sau đó điều khiển Thức Mạt Na (Ý Chí) phát huy Tâm Sở Tàm của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Vô Tàm. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Tàm hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Vô Tàm không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

2]- TÂM SỞ VÔ QUÝ:

Sự tác dụng của Tâm Sở Vô Quý là khiến con người không thẹn với mọi người và không biết tôn trọng dư luận xã hội mỗi khi làm những việc tội lỗi. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức nhận định sự lợi hại của những tội lỗi mà mình đang hành hoạt có liên quan đến mọi người chung quanh và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Quý của 11 Thiện trực tiếp hóa giải hạt giống Tâm Sở Vô Quý. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Quý hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Vô Quý không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

Hai hạt giống Tâm Sở Vô Tàm và Tâm Sở Vô Quý trong Tâm Thức Alaya nếu như bị tẩy sạch thì các tội lỗi kể như không còn môi trường để phát triển nơi con người của hành giả. Lẽ dĩ nhiên, các Tâm Sở Phiền Não còn lại trong Tâm Thức Alaya cũng sẽ bị cô lập và bị bất lực trên phương diện khống chế mọi sự sinh hoạt của hành giả trên lãnh vực bất thiện. Đồng thời cũng từ đó, các hạt giống Tâm Sở Thiện được cơ hội phát triển lớn mạnh thêm lên theo chiều hướng nghịch biến, nghĩa là những hạt giống Tâm Sở Bất Thiện bị tiêu diệt đến đâu thì những hạt giống Tâm Sở Thiện nẩy nở đến đó. Lúc bấy giờ hành giả tự nhiên cảm thấy an lạc và tự tại bắt đầu xuất hiện trong nếp sống đạo vị.

3/- HÓA GIẢI MƯỜI TÂM SỞ TIỂU TÙY:

Mười hạt giống Tâm Sở Tiểu Tùy gồm có: Phẩn, Hận, Phú, Não, Tật, San, Cuống, Xiểm, Hại và Kiêu. Mười Tâm Sở này mỗi khi tác dụng thường biểu lộ một cách thô tục, mạnh bạo và nông cạn qua hành động và nói năng của con người. Hành động thô tục nghĩa là cử chỉ thô bạo, cục mịch, lỗ mãng, không được dịu dàng thanh nhã với những người bị bất mãn. Nói năng thô tục nghĩa là nói ra những lời cộc cằn, hung dữ, thiếu lễ độ thiếu sự ái ngữ khoan dung với những người bị thù ghét. Hành động và nói năng mạnh bạo nghĩa là cử chỉ mạnh mẽ, thô bỉ và lời lẽ ác động, dữ dằn, thiếu sự êm dịu ngọt ngào với những người đối nghịch. Hành động và nói năng nông cạn nghĩa là hành động nông nỗi, hời hợt, lôi thôi và nói ra những lời tầm thường, không sâu xa, thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc lợi hại phải quấy với những người chung quanh.

Mặc dù mang tánh chất thô tục, mạnh bạo và nông cạn, mười Tâm Sở Tiểu Tùy mỗi khi sinh hoạt luôn luôn tác dụng riêng rẽ và không bao giờ quan hệ với nhau trong công cuộc hành sự. Đó là nhược điểm của chúng nó và cũng là thuận lợi cho hành giả trên công trình tu tập hoá giải. Phương thức hoá giải mười Tâm Sở Tiểu Tùy được trình bày như sau:

1]- TÂM SỞ PHẪN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Phẫn là gây trong mình con người một thứ bệnh thường hay phẫn uất, hay tức giận lồng lên. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh phẫn uất và sau đó điều khiển Thức Mạt Na (Ý Chí) phát huy Tâm Sở Vô Sân của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Phẫn. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ Tâm Sở Vô Sân hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Phẫn không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

2]- TÂM SỞ HẬN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Hận là gây trong mình con người một thứ bệnh hay hờn ghét thù hận trong lòng. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh thù hận và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Sân của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Hận. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Sân hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Hận không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

3]- TÂM SỞ PHÚ:

Sự tác dụng của Tâm Sở Phú là gây trong mình con người ít thứ bệnh hay che dấu tội lỗi của mình. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh hay che dấu và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy hai Tâm Sở: Tâm Sở Vô Si của 11 Thiện và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Phú. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Si và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Phú không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

4]- TÂM SỞ NÃO:

Sự tác dụng của Tâm Sở Não là gây trong mình con người một thứ bệnh hay buồn phiền, sầu não, đau đớn trong lòng. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh phiền não và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Sân của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Não. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Sân hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Não không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

5]- TÂM SỞ TẬT:

Sự tác dụng của Tâm Sở Tật là gây trong mình con người một thứ bệnh hay ganh tỵ những người có tài hơn mình. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh ganh tỵ và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Tật. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham hoàn thành nhiệm tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Tật không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

6]- TÂM SỞ SAN:

Sự tác dụng của Tâm Sở San là gây trong mình con người một thứ bệnh hay bỏn xẻn keo kiết. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh bỏn xẻn keo kiết và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở San. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở San không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

7]- TÂM SỞ CUỐNG:

Sự tác dụng của Tâm Sở Cuống là gây trong mình con người một thứ bệnh hay dối trá xảo quyệt. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý

Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh dối trá xảo quyệt và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Cuống. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Cuống không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

8]- TÂM SỞ XIỂM:

Sự tác dụng của Tâm Sở Xiểm là gây trong mình con người một thứ bệnh hay thích nịnh bợ. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh thích nịnh bợ và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Xiểm. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vổ Tham hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Xiểm không còn dấu vết trong Tâm Thức Alya.

9]- TÂM SỞ HẠI:

Sự tác dụng của tâm Sở Hại là gây trong mình con người một thứ bệnh thích gây tổn hại chúng sanh. Hành giả muốn tiêu diệt hạt giống tâm lý này trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh thích gây tổn hại chúng sanh và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Bất Hại và Tâm Sở Vô Sân của 11 Thiện trực tiếp hóa giải hạt giống Tâm Sở Hại. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 9 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Bất Hại và Tâm Sở Vô Sân hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Hại không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

l0]- TÂM SỞ KIÊU:

Sự tác dụng của Tâm Sở Kiêu là gây trong mình con người một thứ bệnh hay kiêu căng ngạo mạn. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự tác dụng của bệnh kiêu căng ngạo mạn và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp tiêu diệt hạt giống Tâm Sở Kiêu. Kế tiếp hành giả lại cũng phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch giống Tâm Sở Kiêu không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

Mười Tâm Sở Tiểu Tùy là những hạt giống được phát sanh trực tiếp từ 6 Tâm Sở Phiền Não Căn Bản và nương tựa nơi 6 Tâm Sở Phiền Não Căn Bản nói trên làm nền tảng để tồn tại. Cho nên thế lực của 6 hạt giống Tâm Sở Phiền Não Căn Bản nhờ đó càng vững mạnh qua sự tăng cường trực tiếp của 10 Tâm Sở Tiểu Tùy. Mười hạt giống Tâm Sở Tiểu Tùy một khi bị tiêu diệt thì nội lực của 6 Tâm Sở Phiền Não Căn Bản cũng bị hao mòn yếu dần và thế lực của những tâm lý này cũng bị thu hẹp nhỏ lại, nguyên vì chúng nó không còn tay chân dây mơ rễ má để tiếp sức tồn sinh. Lúc bấy giờ Ý Thức của Hành Giả bắt đầu được chuyển thành Trí Tuệ Diệu Quan Sát.

Hành giả sau khi hoá giải xong 10 hạt giống Tâm Sở Tiểu Tùy như thế là đã bước qua giai đoạn hai của sự tu tập đạo giải thoát và giác ngộ.

4/- HÓA GIẢI SÁU TÂM SỞ PHIỀN NÃO CĂN BẢN:

Sáu hạt giống Tâm Sở Phiền Não Căn Cản gồm có: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến. Sáu Tâm Sở này mới thực sự là thứ phiền não thuộc loại căn bản phát sanh muôn ngàn tội ác của sanh tử luân hồi và cũng còn có tên khác là sáu Tâm Sở Phiền Não Câu Sanh. Câu Sanh Phiền Não nghĩa là sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản này từ vô lượng kiếp về trước cho đến ngày nay cùng gắn bó với thân ta, cùng sanh ra một lượt với thân ta và khiến cho tâm ta bị sanh tử luân hồi trong ba cõi.

Cho nên sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản cũng được gọi là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Từ đó cho thấy gốc rễ của sáu Tâm Sở Phiền Não đã ăn sâu và bám chặt lâu đời lâu kiếp trong Tâm Thức Alaya không dễ dàng hoá giải. Nhưng nói như thế không có nghĩa là chẳng hoá giải được, nguyên vì chúng nó đã bị cắt đứt hết tay chân và bị cô lập toàn bộ sau khi tẩy sạch hết 20 hạt giống Tâm Sở Tùy Phiền Não. Thế thì hành giả dốc toàn lực 11 Tâm Sở Thiện hoá giải từng bộ phận của sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản thì cũng không khó khăn cho lắm. Muốn hoá giải sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản, hành giả trước hết phải tu tập năm Căn cho thuần thục để năm Lực trong 37 Phẩm Trợ Đạo được phát huy và sử dụng năm Lực tăng cường cho 11 Tâm Sở Thiện trong việc hoá giải. Sau khi năm Lực được phát huy, phương thức hoá giải sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản được trình bày như sau:

l]- TÂM SỞ THAM:

Sự tác dụng của Tâm Sở Tham là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay tham lam đắm nhiễm. Hành giả giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức kềm chế sự sinh hoạt của bệnh tham và sau đó khiển Thức Mạt Na (Ý Chí) phát huy Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Tham. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện

còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Tham không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

2]- TÂM SỞ SÂN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Sân là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay giận tức nóng nảy. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức kềm chế sự sinh hoạt của bệnh nóng giận và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Sân của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Sân. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Sân hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Sân không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

3]- TÂM SỞ SI MÊ:

Sự tác dụng của Tâm Sở Si Mê là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay ngu si mê muội trước mọi vấn đề thiện ác, tốt xấu, phải quấy, đúng sai của thế gian. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự sinh hoạt của bệnh si mê và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy Tâm Sở Vô Si của 11 Thiện trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Si Mê. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hổ trợ cho Tâm Sở Vô Si hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Si Mê không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

4]- TÂM SỞ MẠN:

Sự tác dụng của Tâm Sở Mạn là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay khinh khi ngạo mạn. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự sinh hoạt của bệnh khinh mạn và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy hai Tâm Sở: Tâm Sở Vô Tham của 11 Thiện và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hóa giải hạt giống Tâm Sở Mạn. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Tham và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Mạn không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

5]- TÂM SỞ NGHI:

Sự tác dụng của Tâm Sở Nghi là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay đa nghi. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự sinh hoạt của bệnh đa nghi và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy ba Tâm Sở: Tâm Sở Tín của 11 Thiện, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Nghi. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy 10 Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Tín, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Nghi không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

6]- TÂM SỞ ÁC KIẾN:

Sự tác dụng của Tâm Sở ác Kiến là ô nhiễm trong mình con người một thứ bệnh thường hay chấp trước quan niệm. Hành giả muốn tiêu diệt tâm lý này thì trước hết phải tập trung Ý Thức chặn đứng sự sinh hoạt của bệnh chấp trước quan niệm và sau đó điều khiển Thức Mạt Na phát huy ba Tâm Sở: Tâm Sở Vô Si của 11 Thiện, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ của 5 Biệt Cảnh trực tiếp hoá giải hạt giống Tâm Sở Ác Kiến. Kế tiếp hành giả lại phải nhờ đến Thức Mạt Na thúc đẩy Tâm Sở Thiện còn lại hỗ trợ cho Tâm Sở Vô Si, Tâm Sở Định và Tâm Sở Huệ hoàn thành nhiệm vụ tẩy sạch hạt giống Tâm Sở Ác đến không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya.

Một khi đã hoá giải xong sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản không còn dấu vết trong Tâm Thức Alaya, hành giả kể như xa lìa hẳn sự ràng buộc của phiền não sanh tử, nghĩa là hành giả từ đây thoát khỏi sự lôi cuốn của vòng sanh tử luân hồi trong ba cõi và xem như đã đạt đến trạng thái Sơ Thiền Ly Sanh Hỷ Lạc Địa của Thiền Học, mặc dù hành giả còn lại 25 hạt giống Tâm Sở trong Tâm Thức Alaya. Đã giải thoát hẳn sáu Tâm Sở Phiền Não Căn Bản khống chế, hành giả muốn đi hướng chứng quả nào cũng được dễ dàng chỉ cần đặt hệ thống giải thoát qua sự tu tập là sau khi lâm chung sẽ về hướng đó, không trở ngại trên hành trình, ngoại trừ hành giả đi trên con đường Thiền Định của môn tu tập Thiền Quán. Ở đây, đi hướng chứng quả của môn học Duy Thức, hành giả vì còn mang nhục thân cho nên cần phải dùng đến 25 Tâm Sở còn lại này làm trợ duyên thuận lợi (thuận duyên) cho tiến trình tu tập đạo giải thoát và giác ngộ trên lãnh vực Duy Thức Quán.

III.- PHÁP MÔN TU TẬP DUY THỨC QUÁN:

Pháp môn tu tập của Duy Thức Quán là một trong những pháp môn Thiền Quán, như Tịnh Độ Quán, Tứ Niệm Xứ Quán, Nhân Duyên Quán v.v... Pháp môn tu tập của Duy Thức Quán khởi điểm từ Giới Phân Biệt Quán của đức Phật chỉ dạy, về sau phát triển rộng thêm trở thành bộ môn tu tập chuyên nghiệp riêng biệt của Duy Thức Tông và pháp môn này nhằm chuyển hoá vọng tâm thành chân tâm, chuyển hoá tám Thức thành bốn Trí, chuyển hoá Pháp Tướng thành Pháp Tánh, chuyển hoá phiền não thành Bồ Đề, chuyển hoá cảnh giới ô nhiễm sanh tử thành cảnh giới Niết Bàn Tịch Tịnh. Pháp môn tu tập của Duy Thức Quán gồm có Ngũ Vị Duy Thức Quán.

1.- NGŨ VỊ DUY THỨC QUÁN:

Ngũ Vị Duy Thức Quán là năm cấp bậc tu tập để quán chiếu của Duy Thức. Đây là phương pháp tu tập của Duy Thức Hạnh để chứng được Duy Thức Quả nơi Duy Thức Tánh. Ngũ Vị Duy Thức Quán gồm có: Tư Lương Vị, Gia Hạnh Vị, Thông Đạt Vị, Tu Tập Vị và Cứu Cánh Vị.

Từ đây trở về trước, Duy Thức Học hay Khảo Nghiệm Duy Thức Học chỉ trình bày Duy Thức Tướng (hình tướng của Duy Thức) và Duy Thức Dụng (sự tác dụng của Duy Thức) với mục đích giúp cho học giả nhận thức rõ về phần cảnh giới cũng như phần tác dụng của Duy Thức, nhưng từ Ngũ Vị Duy Thức trở về sau, Duy Thức Học hay Khảo Nghiệm Duy Thức Học đặc biệt thuyết trình Duy Thức Hạnh (cách thật hành tu tập của Duy Thức) và Duy Thức Quả (cách chứng quả của Duy Thức) ngõ hầu giúp cho học giả tu tập để sớm chứng được quả vị Duy Thức Tánh.

Theo Duy Thức Luận quyển 9, Pháp Tướng Tông căn cứ theo 51 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh thành lập Ngũ Vị Duy Thức Quán. Ngũ Vị Duy Thức Quán gồm có năm cấp bậc: cấp bậc Tư Lương, cấp bậc Gia Hạnh, cấp bậc Thông Đạt, cấp bậc Tu Tập và cấp bậc Cứu Cánh. Còn 51 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh gồm có: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Diệu Giác. Theo Pháp Tướng Tông, 51 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh phối hợp với Ngũ Vị Duy Thức Quán thu hẹp lại thành ra 41 ngôi vị thay vì 51 ngôi vị. 41 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh phối hợp với Ngũ Vị Duy Thức Quán được thiết lập như sau:

a]- Cấp Bậc Tư Lươngthì bao gồm cả Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng. Hành giả tu 30 ngôi vị này cho được thâm nhập vào tâm (nhập tâm) và an trụ trong tâm (trụ tâm). Điều đáng chú ý, ngôi vị Thập Tín được Pháp Tướng Tông xếp vào một phần tu tập trong ngôi vị Thập Trụ ở cấp bậc Tư Lương.

b]- Cấp Bậc Gia Hạnh là bốn giai đoạn gia hạnh gọi là Tứ Gia Hạnh. Bốn giai đoạn gia hạnh gồm có: noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất. Hành giả sau khi hoàn thành 10 ngôi vị Hồi Hướng của cấp bậc Tư Lương một cách viên mãn liền tiến qua tu tập bốn giai đoạn của Tứ Gia Hạnh cho được xuất hiện từ nơi tâm (xuất tâm).

Đây là thời kỳ tu tập thứ nhất (Đệ nhất tăng kỳ) của hai cấp bậc Tư Lương và Gia Hạnh. Nên chú ý, đệ nhất tăng kỳ là thời kỳ hay giai đoạn tu tập thứ nhất nhằm khiến cho thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng và tứ gia hạnh cho được tăng trưởng và không phải là A Tăng Kỳ Kiếp mà một số học giả giải thích lầm lẫn.

c]- Cấp Bậc Thông Đạt gồm có Hoan Hỷ Địa là Sơ Địa một trong Thập Địa Bồ Tát. Hành giả tu Hoan Hỷ Địa này cho được thâm nhập vào tâm (nhập tâm), cho được an trụ trong tâm (trụ tâm) và cho được phát xuất từ nơi tâm (xuất tâm) để được thấy đạo chân chánh (chân kiến đạo). Đây là thời kỳ tu tập thứ hai (Đệ Nhị Tăng Kỳ).

d]- Cấp Bậc Tu Tập gồm có từ Ly Cấu Địa thứ nhì cho đến Pháp Vân Địa thứ mười. Trong cấp bậc Tu Tập cũng chia thành hai thời kỳ tu tập. Thời kỳ tu tập thứ hai (Đệ Nhị Tăng Kỳ) và thời kỳ tu tập thứ ba (Đệ Tam Tăng Kỳ). Thời kỳ tu tập thứ hai trong Cấp Bậc Tu Tập là tiếp theo thời kỳ tu tập thứ hai ở nơi Cấp Bậc Thông Đạt. Thời kỳ tu tập thứ hai trong Cấp Bậc Tu Tập gồm có Ly Cấu Địa thứ nhì cho đến Viễn Hành Địa thứ bảy của Thập Địa Bồ Tát. Trong thời kỳ này, hành giả phải tu từ Ly Cấu Địa đến Viễn Hành Địa cho được thâm nhập vào tâm và an trụ trong tâm.

Thời kỳ tu tập thứ ba (Đệ Tam Tăng Kỳ) trong Cấp Bậc Tu Tập gồm có Bất Động Địa thứ tám cho đến Pháp Vân Địa thứ mười của Thập Địa Bồ Tát. Điều đặc biệt trong thời kỳ tu tập thứ ba này, hành giả bắt đầu tu Bất Động Địa và Thiện Huệ Địa thì cũng phải cho được thâm nhập vào tâm và an trụ trong tâm. Riêng Pháp Vân Địa thứ mười, hành giả nhất định phải tu chẳng những cho được thâm nhập vào tâm, cho được an trụ trong tâm và còn phải được phát xuất từ nơi tâm. Ngôi vị Pháp Vân Địa nếu như đã được phát xuất từ nơi tâm, hành giả kể như đã chứng được bậc Đẳng Giác của Bồ Tát.

e]- Cấp Bậc Cứu Cánhchính là ngôi vị của Phật Thừa. Hành giả tu đến Cấp Bậc Cứu Cánh chính là người đã chứng bậc Diệu Giác của Pháp Thân Thường Trú và cũng đã an trụ được Duy Thức Tánh của thế giới vô lậu. Đây là lối phân loại Ngũ Vị Duy Thức Quán với 41 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh.

Trên tiến trình tu tập, hành giả muốn an trụ được Duy Thức Tánh thì trước hết phải trải qua các khóa tham học các bộ luận Duy Thức để nắm vững tư tưởng của Duy Thức Học và thông bác danh từ chuyên môn của Duy Thức. Sau khi hoàn thành chương trình tham học Duy Thức Luận đã có số tin hiểu Duy Thức Tướng và Duy Thức Dụng nơi Duy Thức Học qua văn tự, qua sách vỡ trong các khoá huấn luyện, liền bước sang tu tập Ngũ Vị Duy Thức Quán để an trụ được Duy Thức Tánh. Trước khi tu tập Ngũ Vị Quy Thức Quán, hành giả cần nên nắm vững ý nghĩa cùng giá trị về phương thức tu tập và quán chiếu của Ngũ Vị Duy Thức Quán qua sự phối hợp với 41 ngôi vị của Bồ Tát Hạnh để hành trì Duy Thức Hạnh. Đầu tiên hành giả phải hành trì phương thức tu tập và quán chiếu nơi Cấp Bậc Tư Lương, một trong Ngũ Vị Duy Thức Quán của lãnh vực Duy Thức Hạnh.

1/ PHƯƠNG THỨC TU TẬP VÀ QUÁN CHIẾU CẤP BẬC TƯ LƯƠNG:

Tư Lương nghĩa là những hành trang cần thiết trên con đường tu tập Duy Thức Quán không khác nào những người đi du lịch cần những hành trang như hành lý, tiền bạc v.v... để chi dụng nơi xứ xa. Những hành trang cần thiết của cấp bậc Tư Lương dùng làm trợ duyên cho hành giả trên con đường tu tập để an trụ được quả vị Duy Thức Tánh chính là 30 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh. 30 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh nơi cấp bậc Tư Lương nhằm mục đích khai triển ba năng lực thù thắng nơi tâm. Ba năng lực thù thắng nơi tâm như là: Tâm Lực Đa Văn Thù Thắng, Tâm Lực Quyết Trạch Thù Thắng và Tâm Lực Chư Thiện Căn Thù Thắng. Tâm Lực Đa Văn Thù Thắng nghĩa là năng lực thù thắng về sự nghe nhiều biết nhiều của tâm; Tâm Lực Quyết Trạch Thù Thắng nghĩa là năng lực thù thắng về sự tuyển chọn của tâm; Tâm Lực Chư Thiện Căn Thù Thắng nghĩa là năng lực thù thắng về nguồn gốc các pháp lành của tâm. Ba Tâm Lực thù thắng này khai mở trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu để tín giải lý Duy Thức, phát tâm đại Bồ Đề và bồi dưỡng Pháp Thân Như Lai. Ý Thức thứ sáu là tâm thức phân biệt để hiểu biết cho nên khi chuyển thành trí tuệ thì thuộc về loại trí tuệ hữu phân biệt và nhờ trí tuệ hữu phân biệt này quan sát vạn pháp mà được giác ngộ. 30 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh nơi cấp bậc Tư Lương gồm có: Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng. 30 ngôi vị tu tập này đã được giải thích rõ trong quyển Bát Thức Quy Củ Tụng, trang 108 của dịch giả Thích Thắng Hoan. Điều đáng chú ý, nơi Sơ Phát Tâm Trụ của Thập Trụ, hành giả phải tu Thập Tín Vị cho được thuần thục rồi mới sang tu các Trụ khác của Thập Trụ. Trong 30 ngôi vị tu tập của Bồ Tát Hạnh, hành giả hành trì đến khi nào được thâm nhập vào tâm và an trụ được trong tâm thì chừng đó ba năng lực thù thắng nơi tâm đã nói ở trên sẽ xuất hiện. Lúc bấy giờ hành giả sử dụng ba năng lực thù thắng đã đạt được quán chiếu Tướng và Dụng của Duy Thức để chuyển Ý Thức thứ sáu biến thành trí tuệ hữu phân biệt với những phương pháp sau đây:

a]- TINH THÔNG VỀ DUY THỨC TƯỚNG VÀ DUY THỨC DỤNG:

Tướng là tướng trạng của Duy Thức tức là cảnh giới của Duy Thức trong ba cõi và Dụng là sự tác dụng của Duy Thức tức là chỉ cho sự sinh hoạt của Duy Thức trong ba cõi. Tinh Thông là thông suốt một cách tinh tường về tướng trạng của Duy Thức (Duy Thức Tướng) và sự tác dụng của Duy Thức (Duy Thức Dụng). Trước đây hành giả đã nắm vững tư tưởng của Duy Thức Học về phần lý thuyết trên lãnh vực văn huệ và tư huệ. Giờ đây trên cấp bậc Tư Lương, hành giả cần phải quán chiếu Duy Thức Tướng cùng với Duy Thức Dụng trong ba cõi trên lãnh vực tu huệ để được tinh thông, phân định rõ ràng cảnh giới của Duy Thức và sự tác dụng sanh khởi vạn pháp của Duy Thức trong ba cõi, lão thông và tỏ tường tánh chất, ý nghĩa cùng giá trị tất cả danh từ chuyên môn của Duy Thức.

Người tinh thông Tướng và Dụng Duy Thức cũng như người Việt Nam tinh thông tiếng Việt Nam, người Mỹ tinh thông tiếng Mỹ, người Pháp thông tiếng Pháp v.v... và mỗi quán chiếu mọi việc đều minh từng rõ rành Duy Thức Tông và Duy Thức Dụng bằng Tâm sinh hoạt mà không phải bằng Ý Thức thứ sáu nhận thức. Trường hợp này cũng giống như người Viết Nam nói tiếng Việt một cách tự tại bằng Tâm sinh hoạt mà không phải nói tiếng Việt bằng Ý Thức thứ sáu để tìm chữ để phát ngôn.

Người tinh thông Tướng và Dụng của Duy Thức phải là lời thấu rõ tướng trạng và sự tác dụng của tám Tâm Thức trong mỗi con người, trong mỗi chúng sanh hữu tình, cũng như phân biệt tinh tường những Tâm Thức nào có mặt trong cỏ cây, trong tất cả thực vật, trong tất cả khoáng vật với nhiệm vụ kiến tạo vạn pháp và làm môi trường sống cho tất cả chúng sanh hữu tình để nẩy nở cùng phát triển. Muốn tinh thông được những điều kể trên, hành giả phải sử dụng năng lực của Thập Trụ nhằm quán chiếu Duy Thức Tướng và Duy Thức Dụng qua hai phần Kiến Tướng của Duy Thức (Hai phần Kiến và Tướng đã giải thích rõ qua Thành Phần Của Tâm Thức trong quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I, trang 148, cùng một tác giả). Người nào đã tinh thông Tướng và Dụng của Duy Thức là người đó đã trang bị được tư lương thứ nhất về Duy Thức Hạnh.

b]- NHIẾP PHỤC PHIỀN NÃO CHƯỚNG VÀ SỞ TRI CHƯỚNG:

Có hai thứ chướng ngại cho sự giác ngộ là chướng ngại về phiền não (phiền não chướng) và chướng ngại về chỗ hiểu biết (sở tri chướng). Nhiếp phục nghĩa là chinh phục được, làm chủ được, không bị chúng nó điều khiển, không bị chúng nó làm mờ sự hiểu biết. Sự hiểu biết của con người thường bị hai thứ phiền não nói trên làm chướng ngại trong mọi vấn đề nhận thức chân chánh.

Chướng ngại về phiền não (phiền não chướng) nghĩa là các phiền não thường làm chướng ngại sự hiểu biết của con người. Trong mỗi con người, các phiền não làm chướng ngại gồm có 26 loại thường gọi là 26 Tâm Sở Phiền Não. 26 Tâm Sở phiền não này trong đó được chia làm hai nhóm: một nhóm mang tánh chất căn bản gọi là Căn Bản Phiền Não và một nhóm mang tánh chất phụ thuộc gọi là Tùy Phiền Não. Một nhóm mang tánh chất căn bản gồm có 6 Tâm Sở Căn Bản Phiền Não và một nhóm mang tánh chất phụ thuộc gồm có 20 Tâm Sở Tuỳ Phiền Não. 6 Căn Bản Phiền Não cộng chung 20 Tùy Phiền Não thành 26 Tâm Sở Phiền Não và 26 Tâm Sở này luôn luôn làm chướng ngại cho sự hiểu biết chân chánh về vạn pháp của con người, như người đời thường có bệnh “Thương ai thì thương cả đường đi, ghét ai thì ghét cả tông chi họ hàng”, cũng như họ đã hiểu biết sân hận là tội lỗi nhưng bỏ không được, đã hiểu biết ái dục là điều không tốt, nhiều đau khổ nhưng kềm chế không nỗi một khi nó phát động v.v… Con người một khi bị 26 phiền não nói trên chỉ đạo thì sự hiểu biết của họ hoàn toàn không được chân chánh và từ đó đi đến kết luận, 26 phiền não này cũng là điều làm chướng ngại cho chánh đạo.

Còn chướng ngại về chỗ hiểu biết (sở tri chướng). Chỗ hiểu biết là danh từ chỉ cho đối tượng của tri thức và đối tượng của tri thức ở đây chính là chỉ cho vạn pháp làm đối tượng để có hiểu biết. Chỗ hiểu biết của con người nếu như được cung cấp từ nơi cánh cửa của năm giác quan thì đều mang tánh chất ảo giác (ảnh tử) đối với các sự vật mà nó không phải là hình tướng chân thật và trung thực của các sự vật nói trên. Chỗ hiểu biết đã mang tánh chất ảo giác thì thuộc về loại chướng ngại thứ nhất cho vấn đề tri giác chân thật đối với các pháp. Đối với các pháp, chỗ hiểu biết đã là không thật như trên trình bày mà trong lúc đó lại còn bị các phiền não tâm sở ô nhiễm thì càng thêm điên đảo và vọng tưởng, khác nào con người một khi bị si mê ái dục ô nhiễm thì chỗ hiểu biết của họ là những hình ảnh méo mó sai lệch theo sự luyến ái cung cấp, như hình ảnh sứt môi mà vẫn thấy đẹp, hình ảnh lợi dụng mà vẫn thấy trung thành v.v... Chỗ hiểu biết của con người đã mang tánh chất điên đảo vọng tưởng như vừa trình bày thì cũng thuộc về loại chướng ngại thứ hai cho vấn đề tri giác chân thật đối với các pháp. Nói tóm lại, những đối tượng để hiểu biết của con người thường gọi là chỗ hiểu biết nếu như mang tánh chất ảo giác hoặc mang tánh chất điên đảo vọng tưởng thì cũng thuộc về loại làm chướng ngại cho chánh đạo.

Hành giả muốn nhiếp phục hai loại chướng ngại nói trên thì phải áp dụng Phương Pháp Trị Liệu Qua Sự Tu Tập đã dẫn giải ở trước và phương pháp trị liệu này muốn được hữu hiệu thì phải sử dụng năng lực của Thập Hạnh để phát huy 11 Tâm Sở Thiện đi hoá giải 26 Tâm Sở Phiền Não và sau đó hành giả quán chiếu nội tâm để minh định rõ tánh chất của tất cả chủng tử vạn pháp trong Tâm Thức Alaya, phân loại chủng tử nào có căn bản (thuộc Bản Hữu Chủng Tử) và chủng tử nào thành hình qua sự huân tập (nội kết) không có căn bản (thuộc Tập Sở Thành Chủng Tử), đồng thời cũng minh định rõ giá trị của những chủng tử sanh ra vạn pháp và vạn pháp huân tập để trở thành chủng tử qua sự sanh tử lưu chuyển. Vấn đề này đã được giải thích rõ trong quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I cùng một tác giả. Hành giả nào đã nhiếp phục được Phiền Não Chướng cùng Sở Tri Chướng và tinh thông được tánh chất cũng như giá trị của những chủng tử trong sự sanh diệt lưu chuyển là người đó đã trang bị được tư lương thứ hai về Duy Thức Hạnh.

c]- GIẢI TRỪ CHẤP TRƯỚC:

Chấp Trước là thứ bệnh bảo thủ, chỉ biết nắm giữ một cách khư khư cái kiến thức tương đối, cái tư tưởng một chiều của mình mà không sáng suốt được chỗ dung thông của tánh tướng duyên khởi, không thấu triệt được chỗ hoà hợp tùy duyên một cách linh hoạt của lý sự vô ngại pháp giới. Chấp Trước là danh từ chung bao gồm cả hai thứ bệnh cố hữu là Chấp Ngã và Chấp Pháp:

l- Chấp Ngã:là chấp cái ta trên hết. Con người chấp ngã thường mang hai thứ bệnh: bệnh thứ nhất là thích đề cao cá nhân, có đôi chút kiến thức nào đó thường hay lập vị, làm tướng, tự cho mình là nhân vật quan trọng, bằng mọi cách khiến cho ai nấy cũng phải chú ý đến mình và bệnh thứ hai là có chỗ chứng đắc nào đó thường hay khoe khoang, đi quảng cáo rầm lên, khoác lác với mọi người cho rằng mình đã chứng được quả Thánh, chứng được pháp thù thắng chưa từng có trong thế gian không ngoài mục đích trục lợi tranh danh. Người tu Duy Thức Quán còn vướng mắc phải hai thứ bệnh chấp ngã trên đây là chưa an trụ được Duy Thức Tánh, mặc dù họ có kiến giải thâm sâu về Tướng và Dụng của Duy Thức.

2- Chấp Pháp:là chấp các pháp giả tướng, các pháp duyên sanh cho là chân thật và ngoài ra còn chấp pháp môn của mình tu tập cho là đúng chánh pháp còn các pháp môn khác thì không đúng chánh pháp mặc dù các pháp môn đó cũng của đức Phật chỉ dạy. Những người chấp trước cho các pháp giả tướng, các pháp duyên sanh là chân thật, luôn luôn bám lấy chúng làm lý tưởng cho lẽ sống thì thuộc về hạng phàm phu và những người còn phân biệt đúng sai các pháp môn của Phật chỉ dạy thì thuộc về hạng Nhị Thừa. Người tu Duy Thức Quán một khi đã an trụ được Duy Thức Tánh thì thấy rõ các pháp môn tu tập đều dung thông linh hoạt, thấu rõ lý sự viên dung vô ngại, không thấy có vấn đề sai biệt và mâu thuẫn giữa kinh tướng chân vọng.

Hành giả nên biết rằng những điều kiến giải mà hành giả đã chứng đắc chỉ là những trạm khai thông trên tiến trình tu tập của con đường đi vào ngưỡng cửa Duy Thức Tánh và những sự kiện đó chưa phải là cảnh giới của Duy Thức Tánh an trụ. Hơn nữa hành giả mặc dù sử dụng trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu quán chiếu để soi sáng, nhưng còn mang nhục thân, còn lệ thuộc quá nhiều giác quan, nghĩa là còn phải nhờ đến hai Tâm Sở Tầm Tư để hỗ trợ cho sự chứng đắc và còn giác ngộ qua sự phân biệt thì những cảnh sở quán kia chưa phải là Duy Thức Tánh. Cũng tương tự như người Việt Nam nào nói tiếng Anh hay đọc sách báo Anh Văn mà còn cần đến tự điển để tra cứu, còn suy nghĩ tìm chữ cho hợp lý để phát ngôn thì người đó chưa phải là kẻ đã lão thông tiếng Anh, chưa an trụ được tiếng Anh giống như người nước Anh.

Muốn giải trừ chấp trước về ngã và pháp để chứng được Duy Thức Tánh, hành giả phải sử dụng trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu sau khi chứng đắc Thập Hồi Hướng liền quán chiếu ngã pháp qua Tam Tánh và Tam Vô Tánh (Tam Tánh và Tam Vô Tánh đã giải thích rõ trong quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I, trang 189 và 317 cùng một tác giả) và quán chiếu đến khi nào thể hiện được đức tánh thân giáo, một trong ba phương thức giáo hóa (thân giáo, khẩu giáo, ý giáo) của đức Phật chỉ dạy bằng cung cách bình dị trong nếp sống thường nhật, bằng thái độ khiêm cung đối với tất cả mọi người, tự tại trong mọi hoàn cảnh và không còn tự phụ với những điều chứng đắc là phương pháp vô cùng quan yếu cho vấn đề giải thoát sự ràng buộc bởi bệnh chấp trước về ngã pháp.

Hành giả nào thể hiện được nếp sống bình dị, biểu lộ được thái độ khiêm cung của thân giáo, thấy rõ chỗ dung thông không sai biệt của các pháp môn tu tập, thông suốt chỗ viên dung vô ngại của sự lý là người đã giải trừ được bệnh chấp trước ngã pháp và cũng là người đã trang bị được tư lương thứ ba về Duy Thức Hạnh.

Cần nên biết rõ, trong ngôi vị tư lương, hành giả chỉ khai mở trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu, nhưng chưa khai mở trí tuệ vô phân biệt của Tự Chứng Phần Thức Mạt Na thứ bảy và trí tuệ vô sở đắc của Tự Chứng Phần Alaya Thức thứ tám cho nên vẫn còn bị cản trở bởi hai thứ Tướng Nhị Thủ làm chướng ngại. Hai thứ Tướng Nhị Thủ (Nhị thủ tướng cố) ở đây không phải là chỉ cho hai thứ phiền não Ngã Chấp và Pháp Chấp, cũng không phải chỉ cho hai thứ Nhị Thủ Tập Khí mà một số kinh luận đã giải thích. Hai thứ Nhị Thủ Tập Khí là chỉ cho Danh Xưng Tập Khí và Nghiệp Tập Khí, còn hai thứ Tướng Nhị Thủ nói trên là chỉ cho hai tướng trạng của tâm năng thủ và cảnh sở thủ. Tâm Năng Thủ nghĩa là nói đến trạng thái Kiến Phần của Tâm Thức Mạt Na thứ bảy luôn luôn thâu nhận (năng thủ) những cảnh giới giả tướng bên ngoài mang vào cất trong Tâm Thức Alaya với hình thức chủng tử. Cảnh Sở Thủ nghĩa là nói đến hiện tượng tướng phần (sở thủ) của những cảnh giới giả tướng bên ngoài thuộc ảnh tử (ảo giác) của vạn pháp do Duy Thức biến hiện mà Tâm Năng Thủ của Thức Mạt Na thứ bảy thâu nhận làm tài liệu.

Nên chú ý, chẳng những Tâm Thức Mạt Na thứ bảy còn bị ràng buộc bởi hai tướng Nhị Thủ, nguyên vì tâm thức này chuyên tiếp nhận và quản lý tất cả hồ sơ (nhị thủ) của Ý Thức thứ sáu cung cấp và cất giữ trong kho tàng Thức Thể Alaya với hình thức chủng tử, cho đến trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu một khi sinh hoạt còn nương tựa nơi thân thể xác thịt và còn quan hệ quá nhiều nơi năm giác quan để nhận thức những cảnh vật bên ngoài thì còn bị ràng buộc nơi hai Tướng Nhị Thủ.

Hành giả trong giai đoạn tu học Duy Thức Tướng và Duy Thức Hạnh chưa được thuần thục còn sử dụng trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý thức thứ sáu quán chiếu những cảnh giới bên ngoài để phân biệt và còn giản trạch các pháp để tìm hiểu nguyên lý vạn pháp thì sự giác ngộ của Ý Thức thứ sáu với danh nghĩa trí tuệ hữu phân biệt cũng chỉ nằm trong phạm vi hai thứ Tướng Nhị Thủ. Hành giả sau khi hoàn tất chương trình tu học Duy Thức Tướng và Duy Thức Hạnh liền bước sang quán chiếu Duy Thức Tánh bên trong nội tâm qua trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu và quán chiếu liên tục đến khi nào cảnh giới của Duy Thức Tánh thể hiện thì lúc đó không còn lệ thuộc bởi hai Tướng Nhị Thủ nữa, nguyên vì những cảnh giới của Duy Thức Tánh thể hiện không qua trung gian của năm Tâm Thức trước cung cấp. Thể hiện nghĩa là bản thể Duy Thức Trình hiện bày không phải cảnh giới của những chủng tử tập khí lưu xuất qua sự huân tập của Nhị Thủ.

Thí dụ, một đạo hữu A bắt đầu học kinh Bát Nhã để tụng, vì chưa thuộc lòng, đạo hữu phải học bằng Ý Thức thứ sáu để nhớ, nghĩa là đạo hữu phải sử dụng Ý Thức thứ sáu chú ý để thâu nhận kinh Bát Nhã vào tâm không cho quên, đây là hiện tượng học kinh Bát Nhã của đạo hữu A còn bị lệ thuộc bởi hai Tướng Nhị Thủ. Đạo hữu A đã nằm lòng kinh Bát Nhã và trong lúc tụng kinh không có Ý Thứ sáu hiện diện tìm chữ để đọc, nhưng đạo hữu tụng không sai một chữ, đây là hiện tượng tụng kinh Bát Nhã của đạo hữu A không còn bị lệ thuộc bởi hai Tướng Nhị Thủ nữa.

Tóm lại ngôi vị Tư Lương của Duy Thức Hạnh là ngôi vị xây dựng Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng nhằm mục đích trang bị sự tinh thông về Tướng và Hạnh của Duy Thức, nhiếp phục Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, giải trừ chấp trước về ngã và pháp, nhằm phát huy trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu để tiến hành quán chiếu Duy Thức Tánh. Sau khi nhiếp phục được Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, giải trừ được bệnh chấp trước, hành giả đã khai mở được trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu thì kể từ đó tự tại trong mọi sự quán chiếu. Mặc dù những hành trang nói trên đã đạt được thành quả, ngôi vị Tư Lương này vẫn còn ở vào giai đoạn trang bị chưa diệt được hai Tướng Nhị Thủ cho nên chưa phải là ngôi vị an trụ Duy Thức Tánh.

2/- PHƯƠNG THỨC TU TẬP VÀ QUÁN CHIẾU NƠI CẤP BẬC GIA HẠNH:

Gia Hạnh Vị là ngôi vị gia công thật hành, nghĩa là bắt đầu khởi công tiến hành tu tập theo phương thức Duy Thức Quán. Hành giả sau khi trang bị xong những nhu cầu cần thiết cho việc tu tập Duy Thức Hạnh ở cấp bậc Tư Lương liền bắt đầu nương tựa năng lực của Thập Hồi Hướng tiến hành tu tập thêm bốn căn bản thiện pháp gọi là Tứ Gia Hạnh để giản trạch các pháp. Tứ Gia Hạnh gồm có: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất là bốn giai đoạn tu tập của Thập Hồi Hướng nhằm mục đích phát huy trí tuệ vô lậu của Tự Chứng phần Thức Mạt Na thứ bảy và nhờ đó mới có khả năng đi vào lãnh vực thấy đạo chân chánh (chân kiến đạo) nơi Sơ Địa, một ngôi vị của Thập Địa Bồ Tát. Trong thời kỳ tu tập Tứ Gia Hạnh, hành giả chưa phát khởi được trí tuệ vô lậu của Tự Chứng Phần Thức Mạt Na thứ bảy, nguyên vì còn sử dụng trí tuệ hữu lậu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu để quán chiếu lý Duy Thức. Theo Du Già Sư Địa Luận quyển 219, bốn giai đoạn tu tập của Tứ Gia Hạnh được giải thích như sau:

l- Noãn Vị(tiếng Phạn Usmagata): nghĩa là giai đoạn sức ấm của ánh sáng trí tuệ vô lậu phát sanh. Ở giai đoạn này, hành giả phải nổ lực chuyên cần giản trạch các pháp bằng phương pháp quán chiếu tánh không của những cảnh giới Biến Kế Sở Chấp đã hiện hữu cũng như đã thâu nhận vào Tâm do Duy Thức biến hiện, tức là quán chiếu tánh chất của tất cả cảnh giới do Ý Thức xây dựng nên cũng như tất cả chủng tử của những cảnh giới thuộc Biến Kế Sở Chấp trong nội tâm quan hệ đến vấn đề sanh tử lưu chuyển nơi ba cõi do Thức Alaya tàng trữ và xây dựng, hoặc quán chiếu tánh chất của Ngũ Uẩn cũng như của Ngũ Ấm do Thức Uẩn hay Thức Ấm biến hiện từ đâu sanh ra. Thức Uẩn hay Thức Ấm là tên riêng của Thức Alaya và hành giả muốn rõ nguồn gốc sanh ra Ngũ Uẩn hay Ngũ Ấm hay xem quyển “Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức”. Ngoài ra hành giả cần phải quán chiếu nguồn gốc Tứ Đại hay Sắc Uẩn hoặc Sắc Ấm là những yếu tố tạo ra các pháp thuộc Biến Kế Sở Chấp Pháp từ đâu sanh ra. Muốn biết rõ vấn đề này, hành giả hãy xem lại “Nguyên Lý Tứ Đại” trong quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I, trang 214 cùng một tác giả. Hành giả chuyên cần quán chiếu đến khi nào phát khởi thấy đạo chân chánh (chân kiến đạo) là lúc đó sức ấm của ánh sáng trí tuệ vô lậu phát sanh, cũng như người đời xưa muốn lấy lửa để nấu nướng, họ phải lấy que gỗ khô cọ sát trên thân cây cũng khô để lấy lửa, họ nổ lực cọ sát một cách chuyên cần và liên tục đến khi nào khói xuất hiện là lúc đó chứng tỏ sức nóng của lửa đã tác dụng và lửa trong thân cây khô sẽ phát sanh gọi là Noãn Vị.

2- Đảnh Vị(tiếng Phạn Mùrdhàna): nghĩa là giai đoạn ánh sáng trí tuệ vô lậu đã phát sanh. ở giai đoạn này, trọng tâm của hành giả là tiếp tục quán chiếu nguyên lý không của những cảnh sở thủ thuộc biến kế sở chấp tánh như đã trình bày ở phần Noãn Vị để khiến cho ánh sáng trí tuệ vô lậu tăng trưởng đến tột đỉnh của tánh không, cũng như người đời xưa lấy được lửa để nấu nướng qua sự cọ sát thân cây khô nói trên, nên gọi là Đảnh Vị.

3- Nhẫn Vị(tiếng Phạn Ksànti) : Nhẫn Vị là do quán chiếu Tứ Tầm Tư của những cảnh sở thủ và tâm năng thủ làm nhân để phát khởi chân kiến đạo làm quả. Ở ngôi vị này, hành giả phải nên nương nơi ánh sáng trí tuệ vô lậu đã đạt được nơi Đảnh Vị cố gắng tiến hành giản trạch các pháp bằng phương pháp quán chiếu nhằm để đạt đến quả vị thấy đạo chân chánh (chân kiến đạo) xuất hiện từ nơi tâm (xuất tâm).

Theo Phật Tổ Ngũ Kinh của Hoà Thượng Thích Hoàn Quan trang 642, phương pháp quán chiếu ở Nhẫn Vị là quán sát và giản trạch vạn pháp trên bốn lãnh vực Danh, Nghĩa, Tự Tánh và Sai Biệt mà Duy Thức Học gọi là Tứ Tầm Tư Quán với mục đích xa lìa dần hai tướng Năng Thủ và Sở Thủ.

Tứ Tầm Tư Quán, tiếng Phạn Catasrah paryesanàh, là bốn cách quán chiếu vạn pháp của Duy Thức Tông chủ trương để tu tập. Theo Đại Thừa Pháp Tướng Tông Danh Mục quyển 1 Trung và Thành Duy Thức Luận quyển 9 giải thích:

a]- Danh Tầm Tư(tiếng Phạn Nàma - paryesanà): nghĩa là quán chiếu tìm hiểu tánh chất, giá trị và ý nghĩa danh xưng của các pháp. Danh xưng của các pháp là những từ ngữ do người đời đặt ra để dán nhãn hiệu các pháp cho dễ phân biệt, như Nguyễn Thị A, Trần Thị B v.v..., bông hoa Hồng, bông hoa Lan, bông hoa Huệ v.v..., xe Honda, xe Toyota, xe Ford v.v... Danh xưng của các pháp đều thuộc về loại Tuỳ Thuyết Nhân, một trong mười Nhân của Duy Thức Học chủ trương gồm có hai loại, một loại Danh Xưng do người đời tưởng tượng đặt ra theo nhu cầu sinh hoạt trong xã hội và một loại Danh Xưng do các bậc Chứng Ngộ phương tiện thiết lập để định hướng chân giả phân minh dành cho các hàng đệ tử về sau tu tập khỏi bị lầm lạc trên con đường giải thoát.

b]- Nghĩa Tầm Tư(tiếng Phạn Vastu - paryesanà) còn có tên nữa là Sự Tầm Tư. Nghĩa gọi cho đủ là danh nghĩa, danh là danh xưng và nghĩa là nghĩa vụ. Danh nghĩa là chỉ cho các sự vật đã được kiến lập đúng với danh xưng và nghĩa vụ, như người máy (Robot) được kiến lập bằng máy móc đúng với danh xưng là hình tướng giống con người và đúng với nghĩa vụ là sinh hoạt như một con người, như bông hồng nylon đã được kiến lập bằng chất nhựa đúng với danh xưng là hình tướng giống bông hồng thiệt và đúng với nghĩa vụ là dùng để trang trí cho đẹp nhà cửa phòng xá như bông hồng thiệt, cho đến các sự vật khác thuộc danh nghĩa nói trên đều cũng giống như thế. Sự là chỉ cho các sự vật đã được kiến lập đúng trên danh nghĩa. Nghĩa Tầm Tư hay Sự Tầm Tư nghĩa là quán chiếu tìm hiểu tánh chất, giá trị và ý nghĩa các sự vật hiện hữu trong thế gian đã được kiến lập đúng với danh nghĩa. Các sự vật hiện hữu trong thế gian đã được kiến lập đúng với danh nghĩa là những pháp hoàn toàn không có thể chất chân thật, nghĩa là không có sức sống của Tâm Thức ở trong, chỉ thuần túy đất nước, gió và lửa hợp thành, do người đời phát minh theo nhu cầu sinh hoạt trong xã hội, như nhà cửa, bàn ghế, xe cộ, thành phố, đường xá v.v... Những sự vật này còn có tên là Vô Thể Tùy Tình Pháp hay Biến Kế Sở Chấp Pháp là những pháp do Ý Thức thứ sáu của con người hay chúng sanh hữu tình vọng tưởng tạo nên.

c]- Tự Tánh Giả Lập Thi Thiết Tầm Tư(tiếng Phạn Svabhàva - prajnapti - paryesanà): Giả Lập nghĩa là các pháp thành lập theo hình thức giả tạo, đây là chỉ cho các pháp duyên sanh. Thi Thiết gọi cho đủ là Hữu Thể Thi Thiết, nghĩa là các pháp được thiết lập có thể chất chân thật, tức là có sức sống của Tâm Thức ở trong và sức sống của Tâm Thức đây là ngoài chỉ cho Kiến Phần Thức Alaya hiện có mặt trong những pháp nói trên. Nói rõ hơn Hữu Thể Thi Thiết Pháp nghĩa là các pháp duyên sanh đều do Kiến Phần Thức Alaya thiết lập nên và có mặt Kiến Phần Thức Alaya ở trong để duy trì sự tồn tại của chúng. Tự Tánh Giả Lập Thi Thiết Tầm Tư la là quán chiếu tìm hiểu tự tánh duyên sanh của tất cả pháp do Kiến Phần Thức Alaya thiết lập nên. Tự tánh duyên sanh của các pháp đều nương nơi Kiến Phần Thức Alaya sanh khởi, do Kiến Phần Thức Alaya xây dựng và nhờ Kiến Phần Thức Alaya duy trì sự sống để tồn tại trong thế gian, mặc dù bản chất của các pháp đó đều do nhân duyên hoà hợp thành hình. Hành giả quán chiếu tìm hiểu tự tánh của các pháp giả thi thiết nói trên từ đâu sanh ra, Kiến Phần Thức Alaya thiết lập bằng cách nào để thành hình và duy trì sanh mạng thế nào để tồn tại trong thế gian chính là hành giả quán thông được nguyên lý của Duy Thức Học trên lãnh vực duyên sanh. Theo Duy Thức Học, những pháp có tự tánh nương nơi Kiến Phần Thức Alaya sanh khởi và nhờ Kiến Phần Thức Alaya duy trì để tồn tại được gọi là Y Tha Khởi Pháp.

d]- Sai Biệt Giả Lập Thi Thiết Tầm Tư(tiếng Phạn Visesa - prajnapti - paryesanà): nghĩa là quán chiếu tìm hiểu nguyên nhân nào tạo nên hình tướng khác nhau của vạn pháp và do những điều kiện gì đưa đến sự sinh hoạt sai biệt nhau của vạn pháp duyên sanh. Nên biết rằng theo luật nhân quả nghiệp báo, vạn pháp trên hiện tượng duyên sanh có bao nhiêu hình tướng không giống nhau thì nguồn gốc của chúng nhất định phải có bấy nhiêu nguyên nhân sai biệt nhau và vạn pháp trong thế gian có bao nhiêu sự cảm thọ khác nhau thì nguồn gốc của chúng nhất định cũng phải có bấy nhiêu điều kiện không giống nhau. Hành giả thấu triệt được nguyên nhân hình tướng khác nhau của vạn pháp và tinh tường được những điều kiện sai biệt nhau của vạn pháp để đưa đến sự hưởng thụ bất đồng nhau chính là người đã dung thông được nguyên lý của vạn pháp trên lãnh vực duyên sanh.

4- Thế Đệ Nhất Vị(tiếng Phạn Laukikàgra - dharma): nghĩa là trong các pháp hữu lậu thế gian, Thánh Pháp Vô Lậu chân chánh tối thượng (đệ nhất) phát sanh cũng như nguồn lửa phát sanh mãnh liệt và liên tục không dứt, khởi điểm từ nơi trong thân cây khô qua sự cọ sát. Hành giả ở nơi bậc Thế Đệ Nhất này tu tập quán chiếu đến khi nào Thánh Pháp Vô Lậu chân chánh tối thượng phát sanh một cách liên tục không ngừng, nghĩa là hành giả lúc nào quán chiếu thì Thánh Pháp Vô Lậu này tự nhiên xuất hiện dễ dàng thế là hành giả đã chuyển Thức thành được Trí Tuệ Vô Lậu cũng như người nghe đài phát thanh BBC, bắt đúng tầng số thì âm thanh của đài phát ra liên tục không ngừng và từ đó hành giả đã bước vào ngưỡng cửa chân kiến đạo (thấy đạo chân chánh) của Sơ Địa, một trong Thập Địa Bồ Tát thuộc cấp bậc Thông Đạt.

Tóm lại, hành giả tu tập Tứ Gia hạnh của Thập Hồi Hướng nhằm phát sanh trí tuệ vô lậu của Tự Chứng Phần Thức Mạt Na thứ bảy và nương vào pháp quán Tứ Tầm Tư không ngoài mục đích khiến cho trí tuệ vô lậu nói trên tăng trưởng để thấy rõ vạn pháp thuộc hữu lậu đều hư giả, không có tự tánh và nhận chân tất cả chủng tử đều hữu lậu cũng như vạn pháp hiện hành đều mang tánh chất duyên sanh thuộc Y Tha Khởi do Duy Thức biến hiện. Hành giả nên biết thêm rằng, tu Lục Độ Ba La Mật ở cấp bậc Tư Lương nhằm chuyển Tâm Thức hữu lậu của Ý Thức thứ sáu biến thành trí tuệ hữu lậu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu, nhưng ở cấp bậc Gia Hạnh, hành giả tu tập nhằm phát huy trí tuệ vô lậu của Tự Chứng Phần Thức Mạt Na thứ bảy trong trí tuệ hữu lậu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu, nguyên vì Thức Mạt Na thứ bảy là chỗ nương tựa (căn sở y) của Ý Thức thứ sáu sinh hoạt. Ngoài ra hành giả sử dụng năng lực trí tuệ vô lậu của Tự Chứng Phần Thức Mạt Na thứ bảy phối hợp với trí tuệ hữu lậu của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu quán chiếu chiều sâu các pháp hữu lậu Tứ Tầm Tư khiến cho Thánh Pháp Vô Lậu chân chánh tối thượng xuất hiện để bước vào ngưỡng cửa Chân Kiến Đạo nơi cấp bậc Thông Đạt của Ngũ Vị Duy Thức Quán.

3/- PHƯƠNG THỨC TU TẬP VÀ QUÁN CHIẾU NƠI CẤP BẬC THÔNG ĐẠT:

Thông Đạt Vị là cấp bậc thông suốt và đạt đạo nguyên lý nhị không chân như. Nhị Không nghĩa là ngã không và pháp không và nguyên lý Nhị Không Chân Như nghĩa là nguyên lý Trung Đạo của Nhị Không. Hành giả đạt đạo nghĩa là ngoài việc đã thông suốt còn phải thể nhập để lãnh hội nguyên lý Trung Đạo của Nhị Không này một cách tự tại và nguyên lý Trung Đạo của Nhị Không nghĩa là khi quán chiếu lý tánh của vạn pháp (Pháp Thân của Phật Tánh và Cảnh Sở Y của Pháp Tánh) thể hiện không qua Tướng phần (Cảnh Sở Thủ) và Kiến Phần (Tâm Năng Thủ), cũng như người Việt Nam nói tiếng Việt không cần Ý Thức (Tâm Năng Thủ) tìm chữ (Cảnh Sở Thủ) để phát ngôn, nhưng nói không sai một chữ. Pháp Thân của Phật Tánh và Cảnh Sở Y của Pháp Thân nơi Pháp Tánh thuộc nguyên lý Trung Đạo Nhị Không thì hoàn toàn không phải Ngã Tướng của Tâm Năng Thủ và không phải Pháp Tướng của Cảnh Sở Thủ. Ngã Tướng của Tâm Năng Thủ và Pháp Tướng của Cánh Sở Thủ đều thuộc về Kiến Phần và Tướng của Nghiệp Tướng do Duy Thức biến hiện không thực thể. Riêng Pháp Thân của Phật Tánh và Cảnh Sở Y của Pháp Thân nơi Pháp Tánh thì chân thật bất hư đều do Tâm Chân Như thể hiện. Đây là lối tu của bậc Sơ Địa một ngôi vị trong Thập Địa Bồ Tát và bậc Sơ Địa này cũng gọi là Hoan Hỷ Địa.

Hành giả muốn quán chiếu phải tu bậc Sơ Địa cho được nhập tâm thì trí tuệ vô sở đắc của Tự Chứng phần Thức Alaya xuất hiện và dùng trí tuệ này phối hợp với trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng phần Ý Thức thứ sáu quán chiếu và thấy đặng nguyên lý Trung Đạo của Nhị Không thể hiện từ Chân Như Pháp Tánh là hành giả đã đạt được Chân Kiến Đạo của cấp bậc Thông Đạt. Theo Duy Thức Đại Cương trang 114, của Pháp Sư Trí Hải giải thích, Trí Tuệ Kiến Đạo của cấp bậc Thông Đạt thì có hai loại: Chân Kiến Đạo và Tướng Kiến Đạo:

A]- Chân Kiến Đạo:cũng có hai thứ: Nhất Tâm Chân Kiến Đạo và Tam Tâm Chân Kiến Đạo:

l- Nhất Tâm Chân Kiến Đạo:nghĩa là thứ trí tuệ vô phân biệt thuộc loại căn bản phát khởi từ sự nhất tâm, có khả năng tiêu diệt tập khí của hai chướng Năng Phân Biệt và Sở Phân Biệt để chứng được chân lý Nhị Không Chân Như (Ngã Không và Pháp Không). Thứ trí tuệ vô phân biệt này lại cũng có hai loại: Trí Tuệ Vô Gián Đạo và Trí Tuệ Giải Thoát Đạo.

a- Trí Tuệ Vô Gián Đạo: nghĩa là trí tuệ vô phân biệt của kiến đạo chân chánh được phát sanh nhờ thiền định liên tục không gián đoạn ở nơi ngôi vị gia hạnh. Thứ trí tuệ này có khả năng đoạn trừ chủng tử của hai chướng phân biệt sanh khởi và ngộ được lý nhị không chân như (ngã không và pháp không).

b- Trí Tuệ Giải Thoát Đạo: nghĩa là trí tuệ vô phân biệt của đạo giải thoát được phát sanh từ nơi vô gián đạo có thể đoạn trừ chủng tử tập khí của hai chướng (năng phân biệt và sở phân biệt) để hiển bày được chân lý Nhị Không.

2- Tam Tâm Chân Kiến Đạo:nghĩa là ba loại trí tuệ của tâm thuộc kiến đạo chân chánh. Ba loại trí tuệ này được giải thích như sau:

a]- Sanh Không Căn Bản Trí: nghĩa là thứ trí tuệ vô phân biệt thuộc căn bản có khả năng đoạn trừ phần thô trọng của chủng tử phiền não chướng qua sự phân biệt và nhờ đó mà chứng được sanh không chân như.

b]- Pháp Không Căn Bản Trí: nghĩa là thứ trí tuệ vô phân biệt thuộc căn bản có khả năng đoạn trừ phần thô trọng của chủng tử sở tri chướng qua sự phân biệt và nhờ đó mà chứng được pháp không chân như.

c]- Câu Không Căn Bản Trí: nghĩa là thứ trí tuệ vô phân biệt có khả năng đoạn trừ phần vi tế cả bên trong lẫn bên ngoài của phiền não chướng và sở tri chướng và nhờ đó mà chứng được nguyên lý nhị không chân như.

B]- Tướng Kiến Đạo:nghĩa là thứ trí tuệ vô phân biệt thuộc loại căn bản đã đề cập ở phần A và thứ trí tuệ này phát sánh từ Hậu Đắc Trí có công năng giác ngộ được thâm sâu chân tướng giả lập của các sự vật, nên gọi là Tướng Kiến Đạo.

Tóm lại, hành giả phát khởi được trí tuệ vô sở đắc của Tự Chứng Phần Thức Alaya qua sự tu tập và thông suốt được nguyên lý Nhị Không Chân Như không ngoài nguyên lý Trung Đạo Duyên Khởi qua sự quán chiếu chính là người đã hoàn tất phương thức tu tập quán chiếu nơi cấp bậc Thông Đạt.

4/- PHƯƠNG THỨC TU TẬP VÀ QUÁN CHIẾU NƠI CẤP BẬC TU TẬP:

Nơi cấp bậc Tu Tập, hành giả bắt đầu tu tập Ly Cấu Địa thứ hai cho đến Pháp Vân Địa thứ mười của Thập Địa Bồ Tát cho được thuần thục để trí tuệ vô sở đắc của Tự Chứng Phần Thức Alaya tăng trưởng đến siêu việt và sử dụng trí tuệ đó phối hợp với trí tuệ hữu phân biệt của Tự Chứng Phần Ý Thức thứ sáu quán chiếu Ngũ Trùng Duy Thức Quán để chuyển hoá toàn diện Chứng Tự Chứng Phần của tám Tâm Thức biến thành Tứ Trí và nhờ Tứ Trí nói trên chứng nhập được Duy Thức Tánh. Ngũ Trùng Duy Thức Quán được giải thích như sau:

Ngũ Trùng Duy Thức Quán nghĩa là năm lớp quán chiếu để đạt đến chỗ cứu cánh của nguyên lý Duy Thức Tánh nơi cấp bậc tu tập. Theo Pháp Tướng Tông, Ngũ Trùng Duy Thức Quán gồm có:

a]- Khiển Hư Tồn Thật:nghĩa là loại bỏ những pháp hư giả và lưu lại những pháp hiện thật. Những pháp hư giả là chỉ cho những pháp thuộc loại Biến Kế Sở Chấp Tánh do Ý Thức nương theo hiện duyên biến hiện theo nhu cầu sở dụng. Thể và dụng của những pháp này hoàn toàn đều không và hiện hữu có tính cách tương đối. Những pháp hiện thật là chỉ cho những pháp thuộc Y Tha Khởi Tánh và Viên Thành Thật Tánh. Thể và dụng của những pháp này đều có thật tánh nên gọi là hiện thật. Đây là lối tu nơi lớp thứ nhất của Duy Thức Quán.

b]- Xả Lạm Lưu Thuần:nghĩa là bỏ những cảnh giới hỗn tạp chủ quan và chỉ lưu lại những cảnh giới thuần túy khách quan. Những cảnh giới hỗn tạp chủ quan là những cảnh giới mang tánh chất y tha khởi duyên sanh không thuần chất với hình thức tướng phần được xuất hiện từ nơi những cảnh giới ảo giác do Duy Thức Tướng chủ quan xây dựng nên và Duy Thức Tướng đây chính là kiến phần của tâm thức Alaya sanh ra. Những cảnh giới duyên sanh này nếu như không có kiến phần chủ quan của tâm thức Alaya sanh ra và duy trì sanh mạng thì không có hiện hữu trong thế gian, cho nên những cảnh giới nói trên được gọi là cảnh giới y tha khởi duyên sanh. Còn những cảnh giới thuần túy khách quan chính là những cảnh giới thuần túy pháp tánh thanh tịnh do Duy Thức Tánh hiện khởi được gọi là những cảnh giới thuộc viên thành thật tánh. Trọng tâm lối tu của phương pháp quán chiếu lớp thứ hai ở chỗ là tận dụng trí năng để đạt đến công phu tâm và cảnh hoà hợp, lý và sự hoàn toàn không hai và ngộ được ngoài tâm không cảnh, ngoài lý không sự, ngoài tánh không tướng. Đó là chỗ diệu dụng của Duy Thức và hành giả đạt đến trạng thái này là thành công của lối tu Duy Thức Quán trong lớp thứ hai.

c]- Nhiếp Mạt Quy Bổn:là bỏ ngọn ngành trở về cội gốc, nghĩa là loại bỏ kiến phần của tâm thức và tìm về tự chứng phần của tâm Thức. Kiến phần chủ thể năng biến của Tâm Thức chính là ngọn ngành (mạt) và tự chứng phần chủ thể năng biến của Tâm Thức chính là cội gốc (bổn). Người tu Duy Thức Quán là phải tìm cho ra nguồn gốc phát sanh ra Tự Chứng Phần của tám Tâm Thức và danh từ Tự Chứng Phần chính là chỉ cho chủng tử của tám Tâm Thức. Hành giả nào quán chiếu thấy rõ nguồn gốc phát sanh ra Tự Chứng Phần của tám Tâm Thức là người đã liễu ngộ được nguyên lý Duy Thức.

d]- Ẩn Liệt Hiển Thắng:là mất dạng phần yếu kém và hiển bày phần thù thắng. Phần yếu kém (liệt) ở đây là chỉ cho 25 Tâm Sở còn lại và 25 Tâm Sở này gồm có: 5 Biến Hành, 5 Biệt Cảnh, 11 Thiện và 4 Bất Định. Phần thù thắng là chỉ cho Tự Chứng Phần (chủng tử) của tám thức Tâm Vương và hiển thắng là hiển bày phần thù thắng nơi Tự Chứng Phần của tám thức Tâm Vương. Bấy lâu nay Tự Chứng Phần của tám Thức tâm Vương luôn luôn bị các Tâm Sở bao che, khống chế và ngăn cách trong mọi sự sinh hoạt để nhận thức, nhất là 5 Tâm Sở Biến Hành và 5 Tâm Sở Biệt Cảnh không cho tám thức Tâm Vương hiểu biết trực tiếp vạn pháp. Hành giả muốn hiển bày diệu dụng thù thắng của Tự Chứng Phần nơi tám thức Tâm Vương, phải sử dụng trí tuệ vô lậu của vô sở đắc của Tự Chứng Phần Thức Alaya được phát xuất từ nơi Thập Địa khiến cho 25 Tâm Sở còn lại nói trên tiềm ẩn mất dạng để không còn bao che, không còn khống chế và không còn ngăn cách tám thức Tâm Vương trong sự sinh hoạt nhận thức vạn pháp. Đây là pháp tu tập quán chiếu Ẩn Liệt Hiển Thắng của Ngũ Trùng Duy Thức Quán.

e]- Khiển Tướng Chứng Tánh:Khiển Tướng nghĩa là loại bỏ Duy Thức Tướng và Chứng Tánh nghĩa là chứng nhập Duy Thức Tánh. Duy Thức Tướng tức là chỉ cho các pháp thuộc loại Y Tha Khởi Tánh và Duy Thức Tánh tức là chỉ cho các pháp thuộc loại Viên Thành Thật Tánh. Vạn pháp có hai phần: phần sự tướng và phần lý tánh. Phần sự tướng là nói đến phần hình tướng của các pháp do Duy Thức Tướng biến hiện và phần này được gọi là Y Tha Khởi Tánh, còn phần lý tánh là nói đến phần thể tánh của các pháp do Duy Thức Tánh hiện khởi và phần này được gọi là Viên Thành Thật Tánh. Viên Thành Thật Tánh chính là bản thể chân như mầu nhiệm của thế giới pháp tánh và tất cả thế giới này đều do Duy Thức Tánh mang tên là Tạng Như Lai hiện khởi làm cảnh giới sở y của chư Phật an trụ. Hành giả sau khi hoàn tất thời kỳ tu tập thứ ba, khởi hành từ Bất Động Địa thứ tám cho đến Pháp Vân Địa thứ mười của Thập Địa Bồ Tát thì trí tuệ siêu việt vô sở đắc của Tự Chứng phần Thức Alaya phát triển tột đỉnh và sử dụng trí tuệ siêu việt này trước hết tự chuyển hoá toàn diện Chứng Tự Chứng Phần của tám Thức Tâm Vương biến thành Tứ Trí và đồng thời quán chiếu lớp thứ năm của Ngũ Trùng Duy Thức Quán bằng cách loại bỏ tất cả hiện tượng thuộc Y Tha Khởi tánh phản chiếu vào bản thể của Thức Tánh để tìm ra vạn pháp thuộc Viên Thành Thật Tánh. Đây là pháp quán hết sức cao thâm mầu nhiệm của Duy Thức Quán.

Theo Duy Thức Tam Thập Tụng Dị Giải của H.T. Thích Thiện Hoa, trang 353 giải thích: cấp bậc tu tập sau khi thành đạt hai quả chuyển y: chuyển phiền não chướng thành đại giải thoát (niết bàn) và sở tri chướng thành đại bồ đề. Chuyển nghĩa là chuyển hoá và Y nghĩa là y tha khởi. Quả chuyển y nghĩa là hành giả sau khi hoàn thành cấp bậc tu tập thì có khả năng chuyển hoá chủng tử tất cả pháp phiền não chướng và sở tri chướng thuộc y tha khởi biến thành đại niết bàn và đại bồ đề, nguyên vì bản chất của chủng tử phiền não chướng và sở tri chướng hiện hữu không ngoài niết bàn và bồ đề, lý do tất cả chủng tử phiền não chướng và sở tri chướng sở dĩ hiện hữu trong thế gian là do chúng sanh mê vọng sanh khởi, cũng như gió mưa trở nên độc hại là do con người bị bệnh hoạn cảm nhận mà thật ra bản chất gió mưa không bao giờ độc hại đối với những người mạnh khỏe. Cấp bậc tu tập sở dĩ đạt thành hai quả chuyển y nói trên là nguyên do hành giả đã chuyển hóa được tám Thức Tâm Vương thành bốn Trí Tuệ: năm Thức trước từ Nhãn Thức cho đến Thân Thức chuyển thành trí tuệ Thành Sở Tác, Ý Thức thứ sáu chuyển thành trí tuệ Diệu Quan Sát, Mạt Na Thức thứ bảy chuyển thành trí tuệ Bình Đẳng Tánh và Alaya Thức chuyển thành trí tuệ Đại Viên Cảnh. Hành giả nhờ những trí tuệ này chuyển hoá hai quả chuyển y nói trên không còn khó khăn trong việc quán chiếu Duy Thức Tánh, đã thành công nơi cấp bậc Tu Tập và cũng là đã chứng ngộ được quả vị Đẳng Giác của Đại Thừa Bồ Tát.

5/- PHƯƠNG PHÁP TU TẬP NƠI CẤP BẬC CỨU CÁNH:

Cấp bậc cứu cánh là quả vị rốt ráo viên mãn của cảnh giới Duy Thức Tánh và Duy Thức Tánh này chính là chỉ cho Phật Tánh của Duy Thức. Cảnh giới Duy Thức Tánh đều mang tánh chất Viên Thành Thật của thế giới chân như và cảnh giới nói trên cũng là cảnh giới vô lậu rốt ráo thanh tịnh của Bồ Đề của Niết Bàn. Theo Duy Thức Học, trang 355 của H.T. Thích Thiện Hoa giải thích giá trị của cảnh giới Duy Thức Tánh nơi cấp bậc cứu cánh gồm có sáu:

“l.- Bất Tư Nghị: nghĩa là cảnh giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận bàn được”.

“2.- Thiện: nghĩa là cảnh giới này đã xa lìa hết các pháp nhiễm ô, bất thiện”.

“3.- Thường: nghĩa là cảnh giới này thường còn, tột đến đời vị lai, không có cùng tận”.

“4.- An Lạc: nghĩa là cảnh giới này rất thanh tịnh vui vẻ, không có các điều khổ não bức bách”.

“5.- Giải Thoát Thân: nghĩa là những bậc ở cảnh giới này do xa lìa các phiền não triền phước, nên được thân giải thoát”.

“6.- Đại Mâu Ni: nghĩa là những bậc ở cảnh giới này do xa lìa được sở tri chướng nên chứng đặng quả bồ đề. Vì quả vị này bản tánh rất thanh tịnh, nên gọi là Đại Mâu Ni”.

Phương pháp tu tập nơi cấp bậc cứu cánh, nghĩa là hành giả sau khi chuyển được tám Thức Tâm Vương biến thành bốn Trí ở cấp bậc tu tập liền tiến hành quán chiếu hai phương thức sau đây:

a- Hành giả sử dụng Trí Diệu Quan Sát (của Ý Thức thứ sáu) điều khiển Trí Bình Đẳng Tánh (của Thức Mạt Na thứ bảy) móc nối cảnh giới Niết Nàn Vô Dư (Viên Thành Thật Tánh) từ thế giới chân như hiện hữu trong Trí Đại Viên Cảnh (của Thức Thể Alaya thứ tám) nơi Thức giới Alaya của hành giả (nơi phạm trù Thức Thể Alaya của hành giả) bằng phương pháp Duy Thức Quán. Hành giả tu tập quán chiếu cảnh giới Niết Bàn Vô Dư đến khi nào thể hiện một cách thuần thục, nghĩa là hành giả không còn dụng công quán chiếu mà cảnh giới Niết Bàn Vô Dư vẫn hiện hữu một cách tự nhiên theo ý muốn chính là hành giả đã thành tựu quả vị đại Niết Bàn của đại Bồ Đề nơi cấp bậc cứu cánh.

b- Hành giả mặc dù đã chứng quả đại Niết Bàn của đại Bồ Đề nơi cấp bậc cứu cánh, nhưng còn mang nhục thân cho nên còn quan hệ quá nhiều với trần sa hoặc của loài người và vô minh hoặc của tất cả chúng sanh trong ba cõi. Hơn nữa cảnh giới của đại Niết Bàn mà hành giả chứng đắc chỉ là cảnh giới thuộc về hình tướng của đại Niết Bàn được thâu nhỏ theo tùy loại chúng sanh để thể hiện mà không phải là cảnh giới thể tánh bao la chân thật của đại Niết Bàn. Hành giả muốn chứng nhập vào trong cảnh giới thể tánh bao la đại Niết Bàn của đại Bồ Đề nơi cấp bậc cứu cánh thì phải cắt đứt sự quan hệ trần sa hoặc của loài người và vô minh hoặc của tất cả chúng sanh trong ba cõi và muốn cắt đứt sự quan hệ trần sa hoặc cùng vô minh hoặc, hành giả phải thực hành Bồ Tát hạnh bằng cách cứu độ tất cả chúng sanh để diệt hết chúng sanh tâm nơi chính mình bằng phương thức an trụ tâm Vô Trụ. Hành giả đã hoàn thành viên mãn công hạnh tự giác và giác tha nơi cấp bậc cứu cánh thế là đã thể nhập được cảnh giới thể tánh đại Niết Bàn chân thật bất hư nơi thế giới chân như của đại Bồ Đề viên thành thật tánh mà cũng là hoàn thành ngôi vị Diệu Giác của Phật Quả.

Vi tính: Minh Trí Cao Thân

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567